TẠP A-HÀM QUYỂN 14
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu 
Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ Tôn giả Tỳ-kheo Phù-di[2]
ở tại núi Kỳ-xà-quật. Lúc ấy có một số đông chúng xuất gia 
ngoại đạo đến chỗ Tôn giả Phù-di, cùng chào hỏi và chúc tụng nhau. Sau khi 
chào hỏi và chúc tụng nhau, rồi ngồi qua một bên, nói với Tôn giả Phù-di:
“Chúng tôi có điều muốn hỏi, Tôn 
giả có rảnh thì giờ giải đáp cho không?”
Tôn giả Phù-di bảo các xuất gia 
ngoại đạo:
“Tùy theo những gì các vị hỏi, tôi 
sẽ trả lời các vị.”
Lúc ấy, chúng xuất gia ngoại đạo 
hỏi Tôn giả Phù-di:
“Khổ lạc có phải là do tự tác 
không?”[3]
Tôn giả Phù-di đáp: 
“Này các vị xuất gia ngoại đạo, nói 
‘khổ lạc là do tự tác’; điều này Đức Thế Tôn bảo, ‘Ta không khẳng định[4] 
’.”
Lại hỏi:
“Khổ lạc có phải là do tha nhân tác 
không?”
Đáp:
“Khổ lạc là do tha nhân tác; điều 
này Đức Thế Tôn bảo ‘Ta không khẳng định’.”
Lại hỏi:
“Khổ lạc có phải là do vừa tự vừa 
tha nhân tác không?”
Đáp:
“Khổ lạc là do vừa tự vừa tha nhân 
tác; những điều này Đức Thế Tôn bảo ‘Ta không khẳng định’.”
Lại hỏi:
“Khổ lạc có phải là chẳng phải vừa 
tự vừa tha nhân tác, mà vô nhân tạo không?”
Đáp:
“Khổ lạc là chẳng vừa tự vừa tha 
nhân tác, mà vô nhân tạo, những điều này Đức Thế Tôn bảo ‘Ta không khẳng 
định.’”
Chúng xuất gia ngoại đạo lại hỏi:
“Thế nào, Tôn giả Phù-di, khi chúng 
tôi hỏi có phải khổ lạc là do tự tác; thì bảo là không khẳng định. Khi hỏi 
khổ lạc có phải do tha nhân tác, thì bảo rằng không khẳng định. Khi hỏi 
khổ lạc có phải là do vừa tự vừa tha nhân tác, thì bảo rằng không khẳng 
định. Khi hỏi khổ lạc có phải là chẳng vừa tự vừa tha nhân tác, mà vô nhân 
tạo, thì bảo rằng không khẳng định. Vậy hiện tại Sa-môn Cù-đàm nói khổ lạc 
được sanh ra như thế nào?” 
Tôn giả Phù-di đáp:
“Này chúng xuất gia ngoại đạo, Đức 
Thế Tôn bảo khổ lạc được sanh ra từ duyên khởi.”
Lúc ấy chúng xuất gia ngoại đạo 
nghe những gì Tôn giả Phù-di nói, tâm không hoan hỷ, chỉ trích, rồi bỏ ra 
đi.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất ở cách 
chỗ Tôn giả Phù-di không xa, đang ngồi dưới bóng cây. Lúc ấy Tôn giả 
Phù-di biết chúng xuất gia ngoại đạo đã đi rồi, mới đến chỗ Tôn giả 
Xá-lợi-phất, hai vị cùng chào hỏi và chúc tụng nhau. Sau khi chúc tụng 
rồi, Tôn giả đem những câu hỏi của chúng xuất gia ngoại đạo trình lại đầy 
đủ cho Tôn giả Xá-lợi-phất: 
“Tôi đã giải đáp như vậy, không mắc 
tội hủy báng Đức Thế Tôn chăng? Nói như thuyết chăng? Nói như pháp chăng? 
Nói tùy thuận pháp, hành pháp chăng? Không bị những người khác nhân nơi 
luận pháp đến nạn vấn chỉ trích chăng?”
Tôn giả Xá-lợi-phất nói:
“Này Tôn giả Phù-di, những điều 
thầy nói là đúng như lời Phật dạy, không hủy báng Như Lai, nói như những 
gì Phật đã nói, nói như pháp, pháp hành, pháp thuyết, không bị những người 
khác nhân nơi luận nghĩa, mà đến cật vấn, quở trách. Vì sao? Vì Đức Thế 
Tôn dạy khổ lạc được sanh ra từ duyên khởi.
“Tôn giả Phù-di, những gì các 
Sa-môn, Bà-la-môn kia hỏi về khổ lạc là do tự tác, điều này cũng sanh ra 
từ duyên khởi. Nếu bảo rằng chúng không sanh ra từ duyên khởi, điều này 
không thể có được. Khổ lạc là do tha nhân tác, do tự tha tác, cũng chẳng 
phải do tự chẳng phải do tha tác, hay bảo là vô duyên tạo, chúng cũng đều 
sanh ra từ duyên khởi. Nếu bảo không phải sanh ra từ duyên khởi, điều này 
không thể có được.
“Tôn giả Phù-di, những gì mà các 
Sa-môn, Bà-la-môn kia nói về khổ lạc là do tự tác, chúng cũng duyên xúc mà 
sanh ra; nếu bảo là chúng không sanh ra từ xúc, điều này không thể có 
được. Khổ lạc là do tha tạo, là do tự tha nhân tác, do tự tha tác, cũng 
chẳng phải do tự chẳng phải do tha tác, vô nhân tác, chúng cũng duyên vào 
xúc mà sanh ra. Nếu bảo không phải sanh ra từ xúc, điều này không thể có 
được.”
Bấy giờ, Tôn giả A-nan đang ngồi 
dưới bóng cây cách Tôn giả Xá-lợi-phất không xa, nghe Tôn giả Xá-lợi-phất 
cùng Tôn giả Phù-di bàn luận những việc như vậy. Sau khi nghe, từ chỗ ngồi 
đứng dậy, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi qua 
một bên, đem những lời bàn luận giữa Tôn giả Xá-lợi-phất cùng Tôn giả 
Phù-di bạch một cách đầy đủ lên Đức Thế Tôn. 
Phật bảo A-nan:
“Lành thay! Lành thay! A-nan, Tôn giả Xá-lợi-phất 
có người đến hỏi, đã có thể tùy thời mà đáp. Lành thay! Vì Xá-lợi-phất là 
người có trí ứng phó kịp thời, nên có người đến hỏi, liền có thể tùy thời 
mà giải đáp. Hàng Thanh văn của Ta nếu gặp có người hỏi, thì cũng nên tùy 
thời mà đáp như cách Xá-lợi-phất đã nói. 
“Này A-nan, trước đây khi Ta ở trong núi tại Tiên 
nhân trú xứ, thành Vương xá, bấy giờ có chúng xuất gia ngoại đạo đã đem ý 
vị như vậy, văn cú như vậy, nghĩa lý như vậy đến hỏi Ta. Ta vì họ mà đem ý 
vị thế này, văn cú thế này, nghĩa lý thế này nói cho họ, giống như những 
gì Tôn giả Xá-lợi-phất đã nói. 
“A-nan, nếu các Sa-môn, Bà-la-môn cho rằng khổ lạc 
là do tự tác, Ta liền đến hỏi họ: ‘Thật sự các vị có nói khổ lạc là do tự 
tác không?’ Họ đáp: ‘Tôi nói như vậy’ Ta liền nói với họ: ‘Các vị có thể 
chấp chặt lấy nghĩa này cho đây là chân thật, còn những gì khác đều là ngu 
dối. Ta không chấp nhận như vậy. Vì sao? Vì Ta nói sự sanh khởi của khổ 
lạc khác hẳn với điều này.’ Nếu họ hỏi Ta: ‘Cù-đàm nói sự sanh khởi của 
khổ lạc là khác như thế nào?’ Ta đáp: ‘Khổ lạc sanh ra từ duyên khởi.’ 
Cũng vậy nếu họ nói: ‘Khổ lạc là do tha nhân tác, do tự tha tác, chẳng 
phải do tự, chẳng phải do tha, vô nhân tạo, Ta cũng đến chỗ họ nói như 
trên.’”
Tôn giả A-nan bạch Phật:
“Như nghĩa lý Thế Tôn vừa nói, con đã hiểu. Có sanh 
nên có già chết, chẳng phải duyên nào khác mà có sanh nên có già chết. Cho 
đến vì vô minh nên có hành, chẳng phải duyên nào khác mà có vô minh nên có 
hành. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sanh diệt thì già, bệnh, 
chết, ưu, bi, khổ, não cũng diệt; và thuần một khối khổ lớn diệt.”
Phật nói kinh này xong, Tôn giả A-nan nghe những gì 
Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, 
thành Vương xá. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la 
đang ở tại núi Kỳ-xà-quật. Buổi chiều, sau khi từ thiền tịnh tỉnh giấc, 
Tôn giả Câu-hi-la đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, cùng nhau chào hỏi. Sau 
khi chào hỏi, ngồi lui qua một bên, nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Tôi có điều muốn hỏi. Tôn giả có rảnh để giải đáp 
cho không?”
Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả Ma-ha 
Câu-hi-la:
“Nhân giả cứ hỏi. Nếu biết tôi sẽ trả lời.”
Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la nói với Tôn giả 
Xá-lợi-phất:
“Đa văn Thánh đệ tử, ở trong pháp luật này, thành 
tựu pháp nào để gọi là có đầy đủ chánh kiến[6], 
thành tựu được trực kiến; thành tựu bất hoại tín đối với Phật[7], 
thâm nhập Chánh pháp, đạt được Chánh pháp này, tỏ ngộ Chánh pháp này?”
Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả Ma-ha 
Câu-hi-la:
“Đa văn Thánh đệ tử biết như thật đối với pháp bất 
thiện, biết như thật bất thiện căn, biết như thật thiện pháp, biết như 
thật thiện căn. 
“Thế nào là biết như thật pháp bất thiện? Các 
nghiệp chẳng lành của thân, miệng, ý; đó gọi là pháp bất thiện. Biết như 
thật pháp bất thiện là như vậy.
“Thế nào là biết như thật bất thiện căn? Ba căn 
chẳng lành, tham là gốc (căn) chẳng lành, sân là gốc chẳng lành, si là gốc 
chẳng lành; đó gọi là bất thiện căn. Biết như thật bất thiện căn là như 
vậy.
“Thế nào là biết như thật về thiện pháp? Các nghiệp 
lành của thân, miệng, ý; đó gọi là thiện pháp. Biết như thật về thiện pháp 
là như vậy.
“Thế nào là biết như thật về thiện căn? Ba căn lành 
không tham, không sân, không si; đó gọi là ba thiêïn căn. Biết như thật về 
thiện căn là như vậy.
“Này Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, như vậy, đa văn Thánh 
đệ tử biết như thật pháp bất thiện, biết như thật pháp thiện, biết như 
thật căn bất thiện, biết như thật về thiện pháp, biết như thật về thiện 
căn; cho nên ở trong pháp luật này, có đầy đủ chánh kiến, thành tựu trực 
kiến; thành tựu bất hoại tín đối với Phật, thâm nhập Chánh pháp, đạt được 
Chánh pháp này, tỏ ngộ Chánh pháp này.”
Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la nói với Tôn giả 
Xá-lợi-phất:
“Thật chỉ có những pháp này, hay ngoài ra còn có 
pháp nào khác?”
Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:
“Có. Đa văn Thánh đệ tử biết như thật về thức ăn, 
biết như thật về sự tập khởi của thức ăn, về sự diệt tận của thức ăn, về 
con đường đưa đến sự diệt tận của thức ăn.
“Thế nào là biết như thật về thức ăn? Có bốn loại 
thức ăn; đó là: Một là thức ăn nắm thô, hai là thức ăn tế xúc, ba là thức 
ăn bởi ý tư và bốn là thức ăn của thức[8]; 
đó gọi là thức ăn. Biết như thật về thực là như vậy.
“Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của thức 
ăn? Khát ái đối với hữu tương lai, đi đôi với hỷ tham, tham đắm hệ lụy nơi 
này nơi kia[9]; 
đó gọi là sự tập khởi của thức ăn. Biết như thật về sự tập khởi của thực 
là như vậy.
“Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của thức 
ăn? Khát ái đối với hữu tương lai, đi đôi với hỷ tham, tham đắm hệ lụy nơi 
này nơi kia, thảy đều dứt bỏ không còn sót, xả bỏ, nhả ra, đoạn tận, ly 
dục, diệt, tịch tĩnh; đó gọi là sự diệt tận của thức ăn. Biết như thật về 
sự diệt tận của thức ăn là như vậy.
“Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự 
diệt tận của thức ăn? Tám Thánh đạo: Chánh kiến, chánh chí, chánh ngữ, 
chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định; đó 
gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của thức ăn. Biết như thật về con 
đường đưa đến sự diệt tận của thức ăn là như vậy.
“Đa văn Thánh đệ tử như vậy là biết như thật về 
thức ăn, biết như thật về sự tập khởi của thức ăn, biết như thật về sự 
diệt tận của thức ăn, biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của 
thức ăn; cho nên đa văn Thánh đệ tử ở trong pháp luật này, có đầy đủ chánh 
kiến, thành tựu trực kiến; thành tựu bất hoại tín đối với Phật, thâm nhập 
Chánh pháp, đạt được Chánh pháp này, tỏ ngộ Chánh pháp này.”
Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la hỏi Tôn giả 
Xá-lợi-phất:
“Thật chỉ có những pháp này, hay còn có những pháp 
nào khác?”
Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả Ma-ha 
Câu-hi-la:
“Lại còn có những pháp khác. Đa văn Thánh đệ tử 
biết như thật về lậu[10], 
biết như thật về sự tập khởi của lậu, biết như thật về sự diệt tận của 
lậu, biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của lậu.
“Thế nào là biết như thật về lậu? Có ba thứ lậu: 
dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu[11], 
đó gọi là lậu. Phải biết như thật về sự hiện hữu của lậu là như vậy.
“Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của lậu? 
Vô minh tập khởi là lậu tập khởi. Biết như thật về sự tập khởi của lậu là 
như vậy.
“Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của lậu? 
Vô minh diệt là lậu diệt. Biết như thật về sự diệt tận của lậu là như vậy.
“Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự 
diệt tận của lậu? Tám Thánh đạo (nói như trên). Biết như thật về 
con đường đưa đến sự diệt tận của lậu là như vậy.
“Đa văn Thánh đệ tử như vậy là biết như thật về 
lậu, biết như thật về sự tập khởi của lậu, biết như thật về sự diệt tận 
của lậu, biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của lậu; cho nên 
đa văn Thánh đệ tử ở trong pháp luật này, có đầy đủ chánh kiến, thành tựu 
trực kiến; thành tựu bất hoại tín đối với Phật, thâm nhập Chánh pháp, đạt 
được Chánh pháp này, tỏ ngộ Chánh pháp này.”
Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Thật chỉ có những pháp này, hay còn có những pháp 
nào khác?”
Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả Ma-ha 
Câu-hi-la:
“Cũng có những pháp khác nữa. Đa văn Thánh đệ tử 
biết như thật về khổ, biết như thật về sự tập khởi của khổ, biết như thật 
về sự diệt tận của khổ, biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của 
khổ.
“Thế nào là biết như thật về khổ? Sanh khổ, già 
khổ, bệnh khổ, chết khổ, ái xa lìa là khổ, oán ghét gặp nhau là khổ, mong 
muốn không được là khổ. Như vậy, nói tóm, năm thọ ấm là khổ; đó gọi là 
khổ. Biết như thật về khổ là như vậy.
“Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của khổ? 
Khát ái đối với hữu tương lai, đi đôi với hỷ tham, tham đắm hệ lụy nơi này 
nơi kia; đó gọi là sự tập khởi của khổ. Biết như thật về sự tập khởi của 
khổ là như vậy. 
“Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của khổ? 
Khát ái đối với hữu tương lai, đi đôi với hỷ tham, tham đắm hệ lụy nơi này 
nơi kia, thảy đều đoạn trừ, không còn sót, cho đến, tịch tĩnh; đó gọi là 
sự diệt tận của khổ. Biết như thật về sự diệt tận của khổ là như vậy.
“Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự 
diệt tận của khổ? Tám Thánh đạo như đã nói ở trên. Đó gọi là con đường đưa 
đến sự diệt tận của khổ. Biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận 
của khổ là như vậy.
“Đa văn Thánh đệ tử như vậy là biết như thật về 
khổ, biết như thật về sự tập khởi của khổ, biết như thật về sự diệt tận 
của khổ, biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của khổ. Như vậy 
Thánh đệ tử ở trong pháp luật này[12], 
có đầy đủ chánh kiến, thành tựu trực kiến; thành tựu bất hoại tín đối với 
Phật, thâm nhập Chánh pháp, đạt được Chánh pháp này, tỏ ngộ Chánh pháp 
này.”
Lại hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Thật chỉ có pháp này, còn có pháp nào khác nữa 
không?”
Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:
“Còn có pháp khác. Đa văn Thánh đệ tử biết như thật 
về già chết, biết như thật về sự tập khởi của già chết, biết như thật về 
sự diệt tận của già chết, biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận 
của già chết. Như kinh Phân biệt đã nói ở trước. 
“Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của già 
chết? Sanh tập khởi thì già chết tập khởi, sanh diệt tận thì già chết diệt 
tận… Con đường đưa đến sự diệt tận của già chết là gồm tám Thánh đạo như 
trước đã nói. Đa văn Thánh đệ tử biết như thật đối với già chết này… cho 
đến, biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của già chết. Như vậy 
Thánh đệ tử ở trong pháp luật này[13], 
có đầy đủ chánh kiến, thành tựu trực kiến; thành tựu bất hoại tín đối với 
Phật, thâm nhập Chánh pháp, đạt được Chánh pháp này, tỏ ngộ Chánh pháp 
này.”
“Cũng vậy, đối với sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, 
lục nhập xứ, danh sắc, thức, hành. Thánh đệ tử biết như thật về hành, sự 
tập khởi của hành, sự diệt tận của hành, con đường đưa đến sự diệt tận của 
hành.
“Thế nào là biết như thật về hành? Hành có ba thứ: 
thân hành, khẩu hành và ý hành. Biết như thật về sự hiện hữu của hành là 
như vậy.
“Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của hành? 
Vô minh tập khởi thì hành tập khởi. Biết như thật về sự tập khởi của hành 
là như vậy.
“Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của hành? 
Vô minh diệt tận thì hành diệt tận. Biết như thật về sự diệt tận của hành 
là như vậy. 
“Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự 
diệt tận của hành? Là tám Thánh đạo như trước đã nói.
“Này Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, đó gọi là Thánh đệ tử 
biết như thật về hành, biết như thật về sự tập khởi của hành, biết như 
thật về sự diệt tận của hành, biết như thật về con đường đưa đến sự diệt 
tận của hành; trong pháp luật này[14], 
có đầy đủ chánh kiến, thành tựu trực kiến; thành tựu bất hoại tín đối với 
Phật, thâm nhập Chánh pháp, đạt được Chánh pháp này, tỏ ngộ Chánh pháp 
này.”
Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la lại hỏi Tôn giả 
Xá-lợi-phất:
“Chỉ có những pháp này, hay còn có pháp nào khác 
không?” 
Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:
“Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, thầy đuổi theo cái gì 
vậy, rốt cuộc rồi Thầy cũng không thể đến chỗ tột cùng của các luận 
thuyết, đạt đến biên tế của chúng được! Nếu Thánh đệ tử đã đoạn trừ vô 
minh và phát sanh minh trí, thì đâu cần tìm cầu gì nữa!”
Sau khi đàm đạo xong, hai vị Chánh sĩ mỗi người trở 
về trú xứ của mình.
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, 
thành Vương xá. Bấy giờ Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
“Như những gì Ta đã nói về những câu hỏi của 
A-dật-đa trong Ba-la-diên-da[16] 
bằng bài kệ:
Người đã thông pháp số[17],
Người thành các môn học[18],
Oai nghi, hạnh đầy đủ,
Vì con phân biệt nói. 
“Này Xá-lợi-phất, học những gì? 
Những gì là pháp số[19]?”
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất im 
lặng, không đáp; lần thứ hai, lần thứ ba cũng im lặng.
Phật bảo:
“Xá-lợi-phất, thực thể[20]!”
Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
“Thế Tôn, thực thể! Bạch Thế Tôn, 
Tỳ-kheo đối với thực thể[21]
mà nhàm tởm, ly dục, hướng đến diệt tận. Nó sanh khởi do 
tập khởi của thức ăn. Tỳ-kheo đối với thức ăn mà sanh nhàm tởm, ly dục, 
hướng đến diệt tận; đó gọi là thực thể diệt tận. Vị ấy, thức ăn diệt nên 
thực thể diệt, đã giác tri rồi, Tỳ-kheo này nhàm tởm, ly dục, hướng đến 
diệt tận. Đó gọi là học.
“Lại nữa, Xá-lợi-phất, thực thể!”
Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
“Thế Tôn, thực thể! Bạch Thế Tôn, 
nếu Tỳ-kheo đối với thực thể mà nhàm tởm, ly dục, diệt tận, chẳng khởi lên 
các lậu, tâm khéo giải thoát. Nó sanh khởi do tập khởi của thức ăn. Vị ấy, 
thức ăn diệt nên thực thể diệt, đã giác tri rồi, Tỳ-kheo này nhàm tởm, ly 
dục, diệt tận, chẳng khởi lên các lậu, tâm khéo giải thoát. Đó gọi là pháp 
số.”
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Đúng thế, đúng thế! Như 
Xá-lợi-phất nói, Tỳ-kheo đối với thực thể mà sanh ra nhàm tởm, ly dục, 
diệt tận, thì đây gọi là pháp số.”
Nói như vậy rồi, Thế Tôn đứng lên 
đi vào thất tọa thiền. Tôn giả Xá-lợi-phất biết Đức Thế Tôn đã đi, sau đó 
không lâu nói với các Tỳ-kheo:
“Chư vị, vì tôi không thể hiểu rõ 
câu hỏi đầu tiên của Đức Thế Tôn nên tôi im lặng. Sau một hồi, Đức Thế Tôn 
lại vì tôi hoan hỷ hỏi lại, tôi liền giải thích được nghĩa của nó như vậy. 
Giả sử Đức Thế Tôn trong một ngày một đêm hay cho đến bảy ngày đêm lại hỏi 
nghĩa này với những văn cú khác, ý vị khác thì tôi cũng có thể giải thích, 
nói rộng nghĩa này với những văn cú khác, ý vị khác suốt bảy ngày đêm.”
Bây giờ, có một số Tỳ-kheo đi đến 
chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui đứng qua một bên, bạch 
Phật:
“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Xá-lợi-phất 
đã nói những điều kỳ đặc chưa từng có. Ở trong đại chúng đã nói lên tiếng 
rống con sư tử: ‘Đối với câu hỏi đầu tiên của Đức Thế Tôn, tôi đã không 
thể trả lời, vì không thể hiểu rõ, nên cho đến ba lần Ngài hỏi tôi đều im 
lặng, không đáp được. Sau đó Đức Thế Tôn lại đã vì tôi hoan hỷ hỏi lại, 
tôi liền giải thích được. Giả sử Đức Thế Tôn trong một ngày một đêm, hay 
cho đến suốt bảy ngày đêm, lại hỏi nghĩa lý của nó với những văn cú khác, 
ý vị khác, thì tôi có thể giải thích với văn cú khác, ý vị khác suốt bảy 
ngày đêm.’”
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Quả thật, nếu Ta một ngày một đêm, 
cho đến bảy ngày đêm, lại hỏi nghĩa lý của nó với những văn cú khác, ý vị 
khác, thì Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, trong ý nghĩa những điều được hỏi, cũng có 
thể giải thích với câu khác, ý vị khác cho đến bảy ngày đêm. Vì sao? Vì 
Tỳ-kheo Xá-lợi-phất khéo nhập vào pháp giới.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo 
nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, 
thành Vương xá. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có ba pháp mà thế gian không yêu thích, không nhớ 
nghĩ, không vừa ý. Những gì là ba? Đó là già, bệnh, chết. Thế gian nếu 
không có ba pháp không đáng yêu thích, không đáng nhớ nghĩ, không vừa ý 
này thì Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác không xuất hiện ở thế gian; thế 
gian cũng không biết có Chánh pháp luật được tri kiến và được tuyên thuyết 
bởi Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Vì thế gian có ba pháp già, bệnh, 
chết, không đáng yêu thích, không đáng nhớ nghĩ và không vừa ý này, cho 
nên Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác mới xuất hiện ở thế gian; thế gian 
biết có Chánh pháp luật được tri kiến và được tuyên thuyết bởi Như Lai, 
Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. 
“Vì ba pháp chưa đoạn nên không thể thoát khỏi già, 
bệnh, chết. Ba pháp đó là tham, nhuế, si. 
“Lại vì có ba pháp chưa đoạn nên không thể lìa 
tham, nhuế, si. Ba pháp đó là thân kiến, giới thủ, nghi. 
“Lại vì có ba pháp chưa đoạn nên không thể lìa được 
thân kiến, giới thủ, nghi. Ba pháp đó là không chánh tư duy, thân cận tà 
đạo và tâm biếng nhác. 
“Lại vì có ba pháp chưa đoạn nên không thể lìa được 
không chánh tư duy, thân cận tà đạo và tâm biếng nhác. Ba pháp đó là thất 
niệm[23], 
không chánh tri, loạn tâm. 
“Lại vì có ba pháp chưa đoạn nên không thể lìa thất 
niệm, không chánh tri, loạn tâm. Ba pháp đó là dao động[24], 
không luật nghi, chẳng học giới. 
“Lại vì có ba pháp chưa đoạn nên không thể lìa dao 
động, không luật nghi, chẳng học giới. Ba pháp đó là không tin, khó dạy, 
lười biếng. 
“Lại vì có ba pháp chưa đoạn nên không thể lìa 
không tin, khó dạy, lười biếng. Ba pháp đó là không muốn thấy bậc Thánh, 
chẳng muốn nghe pháp, thường hay tìm điều dở của người. 
“Lại vì có ba pháp chưa đoạn nên không thể xa lìa 
không muốn thấy bậc Thánh, không muốn nghe pháp, ưa tìm cầu điều dở của 
người. Ba pháp đó là không cung kính, nói năng ngang trái, quen theo bạn 
xấu. 
“Lại vì có ba pháp chưa đoạn nên không thể lìa được 
không cung kính, nói năng ngang trái, quen theo bạn xấu. Ba pháp đó là 
không tàm, không quý, buông lung. Vì ba pháp này không đoạn trừ nên không 
thể lìa được không cung kính, nói năng ngang trái, quen bạn xấu. Vì sao? 
Vì do không tàm, không quí nên buông lung; vì buông lung nên không cung 
kính; vì không cung kính nên quen theo bạn xấu; vì quen theo bạn xấu nên 
không muốn thấy bậc Thánh, không muốn nghe pháp, hay ưa tìm điều dở của 
người; vì ưa tìm điều dở của người nên không tin, khó dạy, nói năng ngang 
trái, lười biếng; vì lười biếng nên dao động, không luật nghi, không học 
giới; vì không học giới nên thất niệm, không chánh tri, loạn tâm; vì loạn 
tâm nên không chánh tư duy, thân cận tà đạo, tâm biếng nhác; vì tâm biếng 
nhác nên thân kiến, giới thủ, nghi; vì nghi nên không lìa tham, nhuế, si; 
vì không lìa tham, nhuế, si nên không thể lìa được già, bệnh, chết. 
“Nếu dứt được ba pháp này thì mới có thể lìa được 
già, bệnh, chết. Ba pháp đó là tham, nhuế, si. Ba pháp này dứt rồi mới có 
thể lìa già, bệnh, chết. 
“Lại vì dứt ba pháp nên có thể lìa được tham, nhuế, 
si. Ba pháp đó là thân kiến, giới thủ, nghi. Vì dứt được ba pháp này nên 
có thể lìa được tham, sân, si. 
“Lại vì dứt ba pháp nên có thể lìa thân kiến, giới 
thủ, nghi. Ba pháp đó là không chánh tư duy, thân cận tà đạo, khởi tâm 
biếng nhác. Vì dứt ba pháp này nên lìa thân kiến, giới thủ, nghi. 
“Lại vì dứt ba pháp nên có lìa không chánh tư duy, 
thân cận tà đạo và tâm biếng nhác. Ba pháp đó là thất niệm, không chánh 
tri, loạn tâm. Vì dứt ba pháp này nên lìa được không chánh tư duy, thân 
cận tà đạo và tâm biếng nhác. 
“Lại vì dứt được ba pháp này nên lìa được thất 
niệm, tâm không chánh tri, loạn tâm. Ba pháp đó là dao động, không luật 
nghi, phạm giới. Vì dứt ba pháp này nên lìa được thất niệm, tâm không 
chánh tri, loạn tâm. 
“Lại vì dứt ba pháp nên lìa được dao động, chẳng 
luật nghi, phạm giới. Ba pháp đó là không tin, khó dạy, biếng nhác. Vì dứt 
được ba pháp này nên lìa được dao động, không luật nghi, phạm giới. 
“Lại vì dứt được ba pháp nên lìa được chẳng tin, 
khó dạy, biếng nhác. Ba pháp đó là không muốn thấy bậc Thánh, không ưa 
nghe pháp, ưa tìm điều dở của người. Vì dứt ba pháp này nên có thể lìa 
được không tin, khó dạy, biếng nhác. 
“Lại vì dứt ba pháp nên có thể lìa được tâm không 
muốn thấy bậc Thánh, không ưa nghe pháp, ưa tìm điều dở của người. Ba pháp 
đó là không cung kính, nói năng ngang trái, quen theo bạn xấu. Vì dứt được 
ba pháp này nên lìa sự không muốn thấy bậc Thánh, không muốn nghe pháp, ưa 
tìm điều dở của người. 
“Lại vì dứt ba pháp nên có thể lìa chẳng cung kính, 
nói năng ngang ngược, tập theo bạn xấu. Ba pháp đó là không tàm, không 
quí, buông lung. Vì sao? Vì do tàm quí nên không buông lung. Vì không 
buông lung nên tâm cung kính, nói năng hòa nhã, làm thiện tri thức. Vì là 
thiện tri thức nên ưa thấy Hiền thánh, ưa nghe Chánh pháp, chẳng tìm điều 
dở của người. Vì chẳng ưa tìm điều dở của người nên sanh lòng tin, nói 
năng hòa nhã và tinh tấn. Vì tinh tấn nên không dao động, an trú trong 
luật nghi, học giới. Nhờ học giới nên không thất niệm, an trú chánh tri, 
chẳng loạn tâm. Nhờ không loạn tâm nên chánh tư duy, gần gũi chánh đạo, 
tâm không biếng nhác. Nhờ tâm không biếng nhác nên không chấp trước thân 
kiến, không chấp trước giới thủ, vượt khỏi nghi hoặc. Nhờ chẳng nghi nên 
chẳng khởi tham, nhuế, si. Nhờ lìa tham, nhuế, si nên có thể dứt già, 
bệnh, chết.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, 
thành Vương xá. Bấy giờ có các quốc vương, đại thần, gia chủ, Bà-la-môn, 
cư sĩ và những người khác ở thế gian, cung kính tôn trọng, cúng dường; 
Phật và chúng Thanh văn được nhiều lợi dưỡng: y phục, ẩm thực, ngọa cụ, 
thuốc men. Còn đối với các ngoại đạo tà giáo, họ hoàn toàn chẳng cung 
kính, tôn trọng, cúng dường các thứ y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men.
Bấy giờ, các ngoại đạo tụ tập tại giảng đường Vị 
tằng, bàn luận như vầy: ‘Chúng ta từ trước đến nay, thường được nhà vua, 
đại thần, gia chủ, cư sĩ và tất cả những người khác phụng sự, cung kính, 
cúng dường, y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men mà ngày nay lại bị dứt 
tuyệt. Họ chỉ cung kính, cúng dường Sa-môn Cù-đàm và đại chúng Thanh văn. 
Nay trong chúng này, ai là người có trí tuệ, là bậc đại sĩ, có thể lén đến 
trong chúng Sa-môn Cù-đàm, xuất gia, nghe pháp Sa-môn Cù-đàm, rồi trở về 
nói lại đầy đủ. Chúng ta sẽ dùng pháp được nghe đó để giáo hóa quốc vương, 
đại thần, gia chủ, cư sĩ khiến cho họ tin ưa, có thể họ sẽ trở lại cúng 
dường chúng ta như trước?’ Lúc ấy có người lên tiếng:
“Có một thiếu niên tên là Tu-thâm[26], 
thông minh, có trí tuệ, có thể lén vào trong chúng Sa-môn Cù-đàm xuất gia, 
nghe pháp Cù-đàm xong rồi trở về trình bày lại.”
Bấy giờ, các ngoại đạo đi đến chỗ Tu-thâm bảo rằng:
“Hôm nay chúng tôi tập hợp đại chúng tại giảng 
đường Vị tằng bàn luận như vầy: ‘Từ trước đến nay chúng ta được nhà vua, 
đại thần, gia chủ, cư sĩ và những người khác cung kính, phụng sự, cúng 
dường, y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men, nhưng ngày nay bỗng bị dứt 
tuyệt. Nhà vua, đại thần, gia chủ, cư sĩ và mọi người đều đua nhau phụng 
sự Cù-đàm và đại chúng Thanh văn. Trong đại chúng này ai là người thông 
minh, trí tuệ có thể lén đến trong chúng Sa-môn Cù-đàm xuất gia, học đạo, 
nghe pháp Sa-môn Cù-đàm rồi trở về nói lại và đem ra giáo hóa quốc vương, 
các đại thần, gia chủ, cư sĩ để chúng của ta trở lại được cung kính, tôn 
trọng cúng dường?’ Trong chúng có người nói rằng: ‘Chỉ có Tu-thâm thông 
minh trí tuệ, có thể lén đến trong pháp của Cù-đàm xuất gia học đạo, nghe 
Cù-đàm thuyết pháp chắc chắn có thể lãnh hội được để trở về nói lại.’ Cho 
nên chúng tôi cùng nhau đến đây mời Nhân giả nên nhận lời đi.” 
Bấy giờ, Tu-thâm im lặng nhận lời, đi đến trong 
vườn Trúc, khu Ca-lan-đà tại thành Vương xá. Lúc ấy có nhiều Tỳ-kheo ra 
khỏi phòng, đi kinh hành ngoài đất trống. Tu-thâm liền đi đến chỗ các 
Tỳ-kheo bạch rằng:
“Bạch các Tôn giả, nay con có thể được ở trong 
Chánh pháp xuất gia, thọ giới Cụ túc, tu phạm hạnh không?”
Bấy giờ các Tỳ-kheo đưa Tu-thâm đi đến chỗ Đức Thế 
Tôn, thành kính đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui ngồi một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, hôm nay ngoại đạo Tu-thâm muốn cầu 
xin được ở trong Chánh pháp xuất gia, thọ giới Cụ túc, tu phạm hạnh.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết rõ tâm niệm của Tu-thâm, 
nên bảo các Tỳ-kheo:
“Các ông nên độ cho ngoại đạo Tu-thâm này được xuất 
gia.”
Bấy giờ, các Tỳ-kheo giúp cho Tu-thâm xuất gia, 
trải qua được nửa tháng. Một hôm có vị Tỳ-kheo nói với Tu-thâm[27]:
“Tu-thâm nên biết, chúng tôi đã chấm dứt sanh tử, 
phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời 
sau nữa.” 
Tu-thâm bạch Tỳ-kheo:
“Bạch Tôn giả, thế nào, có phải học ly dục, ly pháp 
ác bất thiện, có giác, có quán, có hỷ lạc phát sanh do viễn ly, thành tựu 
Sơ thiền, là không khởi lên các lậu, tâm khéo giải thoát?”
Tỳ-kheo đáp:
“Không phải vậy, Tu-thâm!”
Lại hỏi:
“Thế nào, có phải lìa có giác, lìa có quán, nội 
tịnh nhất tâm, không giác, không quán, có hỷ lạc do định sanh, thành tựu 
Nhị thiền, là không khởi lên các lậu, tâm khéo giải thoát?”
Tỳ-kheo đáp:
“Không phải vậy, Tu-thâm!”
Lại hỏi:
“Thế nào, có phải lìa hỷ, an trụ tâm xả, có chánh 
niệm, chánh tri, thân tâm thọ lạc, điều mà Thánh nói đến là xả[28], 
thành tựu Tam thiền, là không khởi lên các lậu, tâm khéo giải thoát?”
Đáp:
“Không phải vậy, Tu-thâm!”
Lại hỏi:
“Bạch Tôn giả, thế nào, có phải là lìa khổ dứt lạc, 
đoạn trừ ưu, hỷ từ trước, không khổ, không lạc, xả tịnh, niệm nhất tâm[29], 
thành tựu đệ Tứ thiền, là không khởi lên các lậu, tâm khéo giải thoát?”
Đáp:
“Không phải vậy, Tu-thâm!”
Lại hỏi:
“Chứng tịch tĩnh giải thoát[30], 
vượt sắc, vô sắc, tự thân tác chứng và thành tựu, phải chăng là không còn 
khởi lên các lậu, tâm khéo giải thoát chăng?”
Đáp:
“Không phải vậy, Tu-thâm!”
Lại hỏi:
“Thế nào, bạch Tôn giả, lời nói của Tôn giả chẳng 
đồng nhất, trước sau mâu thuẫn. Tại sao không đắc thiền định nhưng lại 
tuyên bố như vậy[31]?”
Tỳ-kheo đáp:
“Tôi được tuệ giải thoát[32].”
Khi nói vậy rồi, các Tỳ-kheo đều từ chỗ ngồi đứng 
dậy mà đi. Sau khi các Tỳ-kheo đi rồi, Tu-thâm suy nghĩ: ‘Những gì các Tôn 
giả này nói không đồng nhất, trước sau mâu thuẫn, đã nói không chứng đắc 
chánh thọ[33], 
mà lại tuyên bố là tự thân tác chứng.’ Suy nghĩ xong, đi đến chỗ Phật, cúi 
đầu lễ dưới chân Phật, rồi lui ngồi qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, các Tỳ-kheo kia ở trước mặt con đã 
tuyên bố: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm 
xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’ Con liền hỏi Tôn giả kia: 
‘Có phải được ly dục và pháp ác bất thiện… cho đến tự tri tự tác chứng, 
thì không còn khởi lên các lậu, tâm khéo giải thoát chăng?’ Vị ấy trả lời 
con: ‘Không phải vậy, Tu-thâm.’ Con liền hỏi: ‘Những gì Tôn giả nói là bất 
đồng, trước sau mâu thuẫn, đã nói không nhập chánh thọ mà lại tuyên bố là 
tự tri tự tác chứng?’ Vị ấy đáp với con rằng: ‘Tôi được tuệ giải thoát.’ 
Nói như vậy xong, mỗi người đều từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi. Hôm nay, con 
xin hỏi Thế Tôn, vì sao những lời nói của họ không đồng nhất, trước sau 
mâu thuẫn, không đắc chánh định mà lại nói tự biết tác chứng?”
Phật bảo Tu-thâm:
“Trước hết họ biết pháp trụ, sau đến biết Niết-bàn[34]. 
Các thiện nam ấy một mình ở nơi thanh vắng, chuyên cần tinh tấn tư duy, 
sống không buông lung, xa lìa ngã kiến, không khởi lên các lậu, tâm khéo 
giải thoát.”
Tu-thâm bạch Phật:
“Nay con không hiểu, trước hết phải biết pháp trụ, 
sau đến biết Niết-bàn. Các thiện nam tử kia, một mình ở nơi thanh vắng, 
chuyên cần tinh tấn tư duy, sống không buông lung, xa lìa ngã kiến, không 
khởi lên các lậu, tâm khéo giải thoát.”
Phật bảo Tu-thâm:
“Không luận là ngươi biết hay không biết, mà trước 
hết phải tự biết pháp trụ, sau đến biết Niết-bàn, như các thiện nam tử kia 
một mình ở nơi thanh vắng, chuyên cần tinh tấn tư duy, sống không buông 
lung, xa lìa ngã kiến, tâm khéo giải thoát đã.”
Tu-thâm bạch Phật:
“Xin Đức Thế Tôn vì con mà nói pháp khiến cho con 
biết được trí pháp trụ, thấy được trí pháp trụ.”
Phật bảo Tu-thâm:
“Nay Ta hỏi ngươi, tùy ý mà đáp cho Ta. Tu-thâm 
nghĩ thế nào? Có phải vì có sanh nên có già, chết; không phải lìa sanh mà 
có già, chết chăng?”
Tu-thâm đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Vì có sanh nên có già, 
chết; không thể lìa sanh mà có già, chết được.”
Phật bảo:
“Đối với sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục nhập xứ, 
danh sắc, thức, hành, vô minh cũng vậy. Có phải vì có vô minh nên có hành; 
không phải lìa vô minh mà có hành chăng?”
Tu-thâm bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Vì có vô minh nên có hành; 
không thể lìa vô minh mà có hành được.”
Phật bảo Tu-thâm: 
“Có phải vì không sanh nên không có già, chết; 
không thể lìa cái diệt của sanh, mà già, chết diệt chăng?”
Tu-thâm bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Vì không sanh nên không 
già chết và không thể lìa cái diệt của sanh mà già chết diệt được.”
“Như vậy cho đến không có vô minh, nên không có 
hành và không thể lìa cái diệt của vô minh mà hành diệt chăng?”
Tu-thâm bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Vì không có vô minh nên 
không có hành và không thể lìa cái diệt của vô minh mà hành diệt được.”
Phật bảo Tu-thâm:
“Người biết như vậy, thấy như vậy, có phải là ly 
dục và pháp ác bất thiện, cho đến tự thân tác chứng an trụ đầy đủ chăng?”
Tu-thâm bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, không phải vậy.”
Phật bảo Tu-thâm:
“Đó gọi là trước hết biết pháp trụ, sau đến biết 
Niết-bàn, mà các thiện nam tử kia, một mình ở nơi thanh vắng, chuyên cần 
tinh tấn tư duy, sống không buông lung, xa lìa ngã kiến, không khởi lên 
các lậu, tâm khéo giải thoát.”
Phật nói kinh này xong, Tôn giả Tu-thâm xa lìa trần 
cấu, được mắt pháp thanh tịnh.
Bấy giờ, Tu-thâm thấy pháp, đắc pháp, giác ngộ 
pháp, thoát khỏi nghi, được niềm tin không do ai khác, được độ không do 
người khác, ở trong Chánh pháp tâm được vô sở úy, cúi đầu lễ dưới chân 
Phật và bạch:
“Bạch Thế Tôn, nay con xin sám hối. Con đã ở trong 
Chánh pháp trộm lén xuất gia, cho nên con xin sám hối.”
Phật bảo Tu-thâm:
“Thế nào là ở trong Chánh pháp trộm lén xuất gia?”
Tu-thâm bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, có nhiều người ngoại đạo đến chỗ con 
nói với con: ‘Tu-thâm nên biết, chúng ta trước đây được quốc vương, đại 
thần, gia chủ, cư sĩ và người thế gian đều cung kính, cúng dường, mà nay 
bị đoạn tuyệt. Bởi vì họ đều cúng dường Sa-môn Cù-đàm và đại chúng Thanh 
văn. Ngày nay ông hãy lén đến trong chúng Thanh văn của Sa-môn Cù-đàm xuất 
gia, thọ giới pháp; khi đã thông đạt pháp của họ rồi, trở về nói cho chúng 
tôi nghe và đem giáo pháp đã nghe đó giáo hóa thế gian khiến họ trở lại 
cung kính, cúng dường như trước.’ Bạch Thế Tôn vì vậy nên con đã ở trong 
Chánh pháp luật trộm lén xuất gia, hôm nay con xin sám hối. Xin Thế Tôn 
thương xót cho phép con được sám hối.”
Vì lòng từ bi nên Phật bảo Tu-thâm:
“Ta nhận sự sám hối của ngươi. Ngươi nên nói đầy 
đủ: ‘Ngày xưa vì con ngu si, bất thiện, vô trí nên ở trong Chánh pháp luật 
trộm lén xuất gia. Ngày nay ăn năn lỗi lầm, tự thấy tội, tự biết tội, 
trong đời sau sẽ thành tựu luật nghi, công đức tăng trưởng, cuối cùng 
không thoái giảm.’ Vì sao? Vì người có tội tự thấy, tự biết và ăn năn lỗi 
lầm nên ở đời sau luật nghi sẽ thành tựu, công đức tăng trưởng, cuối cùng 
không thoái giảm.”
Phật lại bảo Tu-thâm:
“Hôm nay Ta sẽ nói thí dụ, người trí tuệ nhờ thí dụ 
sẽ được hiểu. Ví như nhà vua có người tuần canh, bắt được giặc cướp trói 
lại, đưa đến chỗ nhà vua tâu rằng: ‘Bạch Đại vương, người này là trộm 
cướp, xin Đại vương xử tội.’ Vua ra lệnh: ‘Đem tội nhân đi, trói ngược hai 
tay và hãy công bố tiếng xấu khắp nước; sau đó đem tội nhân đến chỗ hành 
phạt ở ngoài kinh thành, dùng trăm mũi giáo đâm khắp thân thể tội nhân.’ 
Người đứng ra hành hình theo lệnh vua, bắt tội nhân này trói ngược hai 
tay, loan tin xấu khắp thành ấp; sau đó đem tội nhân đến chỗ thọ hình ở 
ngoài thành và dùng trăm mũi giáo nhọn đâm khắp thân thể tội nhân. Đến 
trưa vua hỏi: ‘Tội nhân còn sống không?’ Các quan đáp: ‘Còn sống.’ Vua lại 
ra lệnh các quan đâm thêm một trăm mũi giáo nữa; đến chiều lại đâm thêm 
trăm mũi giáo nữa, mà người kia vẫn không chết.”
Phật hỏi Tu-thâm:
“Nhà vua trị tội dùng ba trăm mũi giáo đâm vào thân 
người tội này, vậy có còn chỗ nào toàn vẹn bằng lòng bàn tay chăng?”
Tu-thâm bạch Phật: 
“Bạch Thế Tôn, không.”
Lại hỏi Tu-thâm:
“Khi tội nhân này vì nhân duyên bị ba trăm mũi giáo 
đâm vào thân, người ấy phải chịu khổ cùng cực phải không?”
Tu-thâm bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, khổ tột cùng! Nếu bị một mũi giáo 
đâm vào cũng đã là đau đớn, không chịu nổi, huống chi là ba trăm mũi giáo 
mà có thể cam chịu được sao!”
Phật bảo Tu-thâm:
“Việc này còn có thể chịu đựng được, nhưng nếu như 
ở nơi Chánh pháp luật mà có kẻ trộm lén xuất gia, trộm thọ trì giới pháp 
rồi đem nói lại cho người, sẽ phải chịu thống khổ gấp bội hơn cả người 
kia.”
Trong lúc Phật nói pháp ấy rồi, ngoại đạo Tu-thâm 
nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, 
thành Vương xá. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: 
“Như Lai thành tựu mười lực, được bốn vô úy, biết 
trú xứ của Phật trước kia[36], 
thường chuyển Phạm luân[37], 
ở trong đại chúng phát lên tiếng gầm sư tử: ‘Cái này có nên cái kia có, 
cái này khởi nên cái kia khởi, có nghĩa là duyên vô minh nên có hành. Nói 
đầy đủ cho đến tập khởi thuần một khối khổ lớn và thuần một khối khổ lớn 
bị diệt.’ Này các Tỳ-kheo, đây là giáo pháp chân thật được hiển hiện, cắt 
đứt dòng sanh tử; cho đến[38], 
người ấy tất khéo hiển hiện. Giáo pháp chân thật được hiển hiện, cắt đứt 
dòng sanh tử như vậy, đủ khiến cho người thiện nam phát lòng tin, chân 
chánh xuất gia, phương tiện tu tập, sống không buông lung. Ở trong Chánh 
pháp luật, tinh tấn chuyên cần khổ hạnh, dù da bọc xương, máu thịt khô 
kiệt, nếu chưa đạt được điều cần phải đạt, thì không xả bỏ phương tiện ân 
cần tinh tấn, cứng rắn chịu đựng. Vì sao? Vì biếng nhác thì an trụ với 
khổ, hay sanh ra các ác pháp bất thiện, nên kết sử hữu tương lai[39] 
bừng bừng, làm tăng trưởng sự sanh, già, bệnh, chết, ở trong đời sau; 
nghĩa lớn bị thoái giảm[40]. 
Người tinh tấn vui đời sống cô độc, không sanh các ác pháp bất thiện đưa 
đến kết sử hữu tương lai, quả báo khổ bừøng bừng; không làm tăng trưởng sự 
sanh, già, bệnh, chết, ở trong đời sau; đây đủ nghĩa lớn, đạt thành trường 
giáo pháp bậc nhất[41]. 
Đó là những người ở trước Đại sư, tự thân được nghe nói pháp, tịch diệt, 
Niết-bàn, chánh hướng Bồ-đề, chánh giác của Thiện Thệ[42]. 
Cho nên các Tỳ-kheo phải quán sát tự lợi, lợi tha, tự tha đều lợi, nên 
siêng năng tu học; rằng ‘Ta nay xuất gia không ngu, không mê, có quả có 
lạc[43]; 
những ai cúng dường các thứ y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men, tất đều 
được quả báo lớn, phước lợi lớn’. Các ông nên học như vậy.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, 
thành Vương xá. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Thiện lai Tỳ-kheo! Nếu khéo xuất gia, khéo được 
lợi mình, thì trong thời gian lâu dài lúc nào cũng được sanh ra chỗ có bậc 
Thánh, các căn đầy đủ, không ngu, không si, không câm ngọng[44]; 
nói hay, nói dở đều có khả năng hiểu nghĩa.
“Ta nay trong đời này là Phật, Như Lai, Ứng Cúng, 
Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự 
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, nói pháp tịch diệt, Niết-bàn, 
chánh hướng đúng Bồ-đề, khéo đến Đẳng chánh giác[45]. 
Tức là, ‘Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi, nghĩa 
là duyên vô minh có hành, duyên hành có thức… cho đến tập khởi thành thuần 
một khối khổ lớn; vô minh diệt thì hành diệt… cho đến thuần một khối khổ 
lớn diệt.’
“Này các Tỳ-kheo, các ông chỗ khó được đã được, 
sanh chỗ có bậc Thánh, các căn đầy đủ… cho đến tập khởi thành thuần một 
khối khổ lớn và thuần một khối khổ lớn diệt. Cho nên các Tỳ-kheo phải học 
như vậy: Tự lợi, lợi tha, tự tha đều lợi; sự xuất gia như vậy, không ngu, 
không si, có quả, có lạc, có quả báo lạc. Và người cúng dường y phục, ẩm 
thực, ngọa cụ, thuốc men, chắc chắn sẽ được quả báo tốt, phước lớn và lợi 
ích rộng lớn. Các Tỳ-kheo nên học như vậy.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, 
thành Vương xá. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Đa văn Thánh đệ tử không nên nghĩ rằng: ‘Vì cái gì 
có nên cái này có, vì cái gì khởi nên cái này khởi[47]; 
vì cái gì không nên cái này không; vì cái gì diệt nên cái này diệt.’ Nhưng 
đa văn Thánh đệ tử nên biết rằng: ‘Vì cái này có nên cái kia có, cái này 
khởi nên cái kia khởi, tức là duyên vô minh nên có hành… cho đến tập khởi 
thành thuần một khối khổ lớn; vô minh diệt nên hành diệt… cho đến thuần 
một khối khổ lớn diệt.’”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Tôn giả Na-la, Tôn giả 
Mậu-sư-la, Tôn giả Thù Thắng và Tôn giả A-nan[49]
đang ở bên ao Tượng nhĩ tại nước Xá-vệ[50]. 
Bấy giờ Tôn giả Na-la nói với Tôn giả Mậu-sư-la:
“Ngoại trừ tín, ngoại trừ sở thích, 
ngoại trừ sở văn, ngoại trừ giác tưởng hành tướng, ngoại trừ thẩm sát nhẫn 
thọ, có tri kiến tự giác chân chánh nào như vậy phát sanh không, tức là 
nói ‘Do sanh nên có già chết; không lìa sanh mà có già chết[51]’?”
Tôn giả Mậu-sư-la nói:
“Ngoại trừ tín, ngoại trừ sở thích, 
ngoại trừ sở văn, ngoại trừ giác tưởng hành tướng, ngoại trừ thẩm sát nhẫn 
thọ, có tri kiến tự giác chân chánh như vậy phát sanh, tức là nói: ‘Vì có 
sanh nên có già, chết, không thể ngoại trừ sanh mà có già, chết.’ Có 
thuyết như vậy[52].”
“Bạch Tôn giả Mậu-sư-la, có tin 
tưởng khác… cho đến, ngoại trừ thẩm sát nhẫn thọ, có tri kiến tự giác chân 
chánh nào như vậy phát sanh, tức là nói: ‘Hữu diệt là tịch diệt, Niết-bàn[53]’ 
chăng?”
Tôn giả Mậu-sư-la đáp:
“Ngoại trừ tín,… cho đến, ngoại trừ 
thẩm sát nhẫn thọ, có tri kiến tự giác chân chánh như vậy phát sanh, tức 
là nói: ‘Hữu diệt là tịch diệt, Niết-bàn.’”
Tôn giả Na-la lại hỏi Tôn giả 
Mậu-sư-la:
“Nói rằng ‘Hữu diệt là tịch diệt, 
Niết-bàn;’ vậy thì thầy có phải là A-la-hán đã dứt các lậu chăng?’”
Tôn giả Mậu-sư-la im lặng, không 
đáp. Hỏi lần thứ hai, lần thứ ba, cũng không đáp. Khi ấy Tôn giả Thù Thắng 
nói với Tôn giả Mậu-sư-la:
“Thôi, Tôn giả cứ im lặng, tôi sẽ 
thay Tôn giả trả lời Tôn giả Na-la.”
Tôn giả Mậu-sư-la nói:
“Tôi xin dừng nơi đây, Tôn giả hãy 
giải đáp giúp tôi.”
Khi ấy Tôn giả Thù Thắng nói với 
Tôn giả Na-la:
“Ngoại trừ tín,… cho đến, ngoại trừ 
thẩm sát nhẫn thọ, có tri kiến tự giác chân chánh như vậy phát sanh, tức 
là nói: ‘Hữu diệt là tịch diệt, Niết-bàn.’”
Bấy giờ, Tôn giả Na-la hỏi Tôn giả 
Thù Thắng:
“Ngoại trừ tín,… cho đến, ngoại trừ 
thẩm sát nhẫn thọ, có tri kiến tự giác chân chánh như vậy phát sanh, tức 
là nói: ‘Hữu diệt là tịch diệt, Niết-bàn; vậy nay Tôn giả là A-la-hán lậu 
tận’ chăng?”
Tôn giả Thù Thắng nói:
“Tôi nói ‘Hữu diệt là tịch diệt, 
Niết-bàn,’ nhưng tôi chẳng phải là A-la-hán sạch hết các lậu.”
Tôn giả Na-la nói:
“Lời nói của Tôn giả không đồng nhất, trước sau mâu 
thuẫn. Như Tôn giả nói ‘Hữu diệt là tịch diệt, Niết-bàn;’ nhưng lại nói 
không phải là A-la-hán sạch hết các lậu, như vậy là thế nào?”
Tôn giả Thù Thắng nói với Tôn giả Na-la:
“Bây giờ sẽ nói thí dụ, người trí nhờ thí dụ sẽ 
hiểu liền. Như giữa cánh đồng vắng bên đường có giếng nước, nhưng không có 
dây cũng không có gàu để lấy nước. Người đi đường lúc ấy bị cơn khát bức 
bách, đi quanh giếng tìm nhưng không có dây, cũng không có gàu. Người ấy 
xem xét kỹ nước giếng thấy biết như thật mà chẳng chạm vào thân. Cũng như 
thế tôi nói ‘Hữu diệt là tịch diệt, Niết-bàn,’ nhưng tự mình chưa được là 
bậc A-la-hán sạch hết các lậu.”
Khi ấy Tôn giả A-nan hỏi Tôn giả Na-la:
“Tôn giả Na-la nghĩ thế nào về điều Tôn giả Thù 
Thắng nói.”
Tôn giả Na-la trả lời Tôn giả A-nan:
“Tôn giả Thù Thắng khéo nói và biết như thật, đâu 
còn gì để nói nữa.”
Sau khi đàm đạo xong, các vị Chánh sĩ rời chỗ ngồi 
đứng lên, rồi ra đi.
*
 
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây 
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 
“Nếu các Sa-môn, Bà-la-môn nào, ở nơi pháp mà không 
biết như thật về pháp; không biết như thật về sự tập khởi của pháp, về sự 
diệt tận của pháp, về con đường đưa đến sự diệt tận của pháp, thì người 
này chẳng phải là Sa-môn, chẳng được kể vào hàng Sa-môn, chẳng phải là 
Bà-la-môn, chẳng được kể vào hàng Bà-la-môn. Người này chẳng đúng với ý 
nghĩa Sa-môn hay Bà-la-môn[55], 
ngay trong đời này không tự tri tự tác chứng: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm 
hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời 
sau nữa.’
“Thế nào là chẳng biết như thật về pháp? Thế nào là 
chẳng biết như thật về sự tập khởi của pháp? Thế nào là chẳng biết như 
thật về sự diệt tận của pháp? Thế nào là chẳng biết như thật về con đường 
đưa đến sự diệt tận của pháp? Là đối với pháp già chết mà không biết như 
thật; và không biết như thật về sự tập khởi đối với già chết, về sự diệt 
tận của già chết, về con đường đưa đến sự diệt tận của già chết. Cũng vậy, 
không biết như thật đối với sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục nhập xứ,… 
không biết như thật về sự tập khởi của lục nhập xứ, về sự diệt tận của lục 
nhập xứ, về con đường đưa đến sự diệt tận của lục nhập xứ. Như vậy là 
không biết như thật về các pháp; không biết như thật về sự tập khởi của 
pháp, về sự diệt tận của pháp, về con đường đưa đến sự diệt tận của pháp.
“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào mà biết như thật về 
pháp; biết như thật về sự tập khởi của pháp, về sự diệt tận của pháp, về 
con đường đưa đến sự diệt tận của pháp, thì Sa-môn, Bà-la-môn này được kể 
vào hàng Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh, đúng với nghĩa Sa-môn, Bà-la-môn, 
ngay trong đời này mà tự tri tự tác chứng: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh 
đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau 
nữa.’
“Biết như thật những pháp gì? Biết như thật những 
pháp gì, sự tập khởi của pháp gì, sự diệt tận của pháp gì, con đường đưa 
đến sự diệt tận của pháp gì? Đó là pháp già chết nên biết như thật. Nên 
biết như thật về sự tập khởi của già chết, về sự diệt tận của già chết, về 
con đường đưa đến sự diệt tận của già chết. Cũng vậy, đối với sanh, hữu, 
ái, thọ, xúc, lục nhập xứ nên biết như thật. Nên biết như thật về sự tập 
khởi của lục nhập xứ, về sự diệt tận của lục nhập xứ, về con đường đưa đến 
sự diệt tận của lục nhập xứ. Đó là biết như thật về các pháp; biết như 
thật về sự tập khởi của pháp, về sự diệt tận của pháp, về con đường đưa 
đến sự diệt tận của pháp.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây 
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 
“Nếu các Sa-môn, Bà-la-môn nào, ở nơi pháp mà không 
biết như thật về pháp; không biết như thật về sự tập khởi của pháp, về sự 
diệt tận của pháp, về con đường đưa đến sự diệt tận của pháp, thì người 
này chẳng phải là Sa-môn, chẳng được kể vào hàng Sa-môn, chẳng phải là 
Bà-la-môn, chẳng được kể vào hàng Bà-la-môn; người này chẳng đúng với ý 
nghĩa Sa-môn, hay Bà-la-môn, ngay trong đời này không tự tri tự tác chứng: 
‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự 
biết không còn tái sanh đời sau nữa.’
“Không biết như thật về những pháp nào, không biết 
như thật về sự tập khởi của những pháp nào, về sự diệt tận của những pháp 
nào, về con đường đưa đến sự diệt tận của những pháp nào? Không biết như 
thật về pháp sáu nhập xứ; không biết như thật về sự tập khởi của sáu nhập 
xứ, về sự diệt tận của sáu nhập xứ diệt, về con đường đưa đến sự diệt tận 
của sáu nhập xứ. Nhưng nếu đối với xúc mà vị này lại biết như thật thì 
không thể được; đối với sự tập khởi của xúc, về sự diệt tận của xúc, về 
con đường đưa đến sự diệt tận của xúc mà biết như thật, thì không thể có 
được. Cũng vậy, đối với thọ, ái, thủ, hữu, sanh, già chết mà biết như thật 
thì cũng không thể có được.
“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào biết như thật về của sáu 
nhập xứ; biết như thật về sự tập khởi của sáu nhập xứ, về sự diệt tận của 
sáu nhập xứ, về con đường đưa đến sự diệt tận của sáu nhập xứ, thì việc 
biết như thật về sự hiện hữu của xúc, điều này có thể có được. Cũng vậy, 
biết như thật đối với thọ, ái, thủ, hữu, sanh, già chết…, điều này có thể 
có được.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây 
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 
Nói như trên, chỉ có một vài điểm sai biệt như: 
“Nếu các Sa-môn, Bà-la-môn nào không biết như thật 
về sáu nhập xứ mà muốn vượt thoát khỏi xúc, thì không thể có được; đối với 
sự tập khởi của xúc, sự diệt tận của xúc, con đường đưa đến sự diệt tận 
của xúc mà muốn vượt thoát, thì cũng không thể có được. Cũng vậy, đối với 
thọ, ái, thủ, hữu, sanh, già chết mà muốn vượt thoát khỏi chúng, điều này 
cũng không thể có được. Và muốn vượt thoát khỏi sự tập khởi của già chết, 
sự diệt tận của già chết, con đường đưa đến sự diệt tận của già chết, điều 
này không thể có được. 
“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào biết như thật sáu nhập 
xứ; biết như thật đối với sự tập khởi của sáu nhập xứ, đối với sự diệt tận 
của sáu nhập xứ, đối với con đường đưa đến sự diệt tận của sáu nhập xứ, 
thì vượt thoát khỏi sự hiện hữu của xúc; điều này có thể có được. Cũng 
vậy, muốn vượt thoát khỏi thọ, ái, thủ, hữu, sanh, già chết, điều này có 
thể có được,… muốn vượt thoát khỏi con đường đưa đến sự diệt tận của già 
chết, điều này có thể có được.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
Cũng vậy, từ già chết… lục nhập xứ có ba kinh, từ già chết đến hành có ba 
kinh cũng nói như vậy.
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô 
độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Hãy giác tri về già chết[59], 
giác tri về sự tập khởi của già chết, về sự diệt tận của già chết, về con 
đường đưa đến sự diệt tận của già chết. Như vậy, cho đến giác tri về hành, 
về sự tập khởi của hành, về sự diệt tận của hành, về con đường đưa đến sự 
diệt tận của hành.
“Thế nào là hãy giác tri thế nào về 
già chết? Giác tri rằng duyên sanh nên có già chết, như vậy gọi là giác 
tri về già chết. 
“Thế nào là hãy giác tri thế nào về 
sự tập khởi của già chết? Sanh tập khởi thì già chết tập khởi, như vậy gọi 
là giác tri về sự tập khởi của già chết. 
“Thế nào là hãy giác tri thế nào về 
sự diệt tận của già chết? Sanh diệt đi thì già chết cũng diệt, như vậy gọi 
là giác tri về sự diệt tận của già chết. 
“Thế nào là hãy giác tri thế nào về 
con đường đưa đến sự diệt tận của già chết? Tám Thánh đạo, đó là con đường 
đưa đến sự diệt tận của già chết, như vậy gọi là giác tri lão về con đường 
đưa đến sự diệt tận của tử. 
“Cho đến, thế nào là hãy giác tri 
thế nào về hành? Có ba hành: thân hành, khẩu hành, ý hành; như vậy gọi là 
giác tri về sự hiện hữu của hành. 
“Thế nào là hãy giác tri về sự tập 
khởi của hành? Vô minh tập khởi thì hành tập khởi; như vậy gọi là giác tri 
về sự tập khởi của hành. 
“Thế nào là hãy giác tri thế nào về 
sự diệt tận của hành? Vô minh diệt đi thì hành cũng diệt, như vậy gọi là 
giác tri về sự diệt tận của hành. 
“Thế nào là hãy giác tri thế nào về 
con đường đưa đến sự diệt tận của hành? Tám Thánh đạo, đó là con đường đưa 
đến sự diệt tận của hành, như vậy gọi là giác tri về con đường đưa đến sự 
diệt tận của hành.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo 
nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây 
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 
“Có bốn mươi bốn thứ trí[61], 
hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ, Ta sẽ vì các ông mà nói. 
“Bốn mươi bốn thứ trí là gì? Đó là trí về già chết, 
trí về sự tập khởi của già chết, trí về sự diệt tận của già chết, trí về 
con đường đưa đến sự diệt tận của già chết. Cũng vậy, đối với trí sanh, 
hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục nhập xứ, danh sắc, thức, hành; trí về sự tập 
khởi của hành, trí về sự diệt tận của hành, trí về con đường đưa đến sự 
diệt tận của hành. Đây gọi là bốn mươi bốn trí.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà 
thuộc nước Xá-vệ, thì bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: 
“Có bảy mươi bảy thứ trí, hãy lắng nghe, khéo suy 
nghĩ, Ta sẽ vì các ông mà nói. Thế nào là bảy mươi bảy thứ trí? Đó là trí 
về sanh duyên nên có già chết; trí về sự không phải ngoài sanh làm duyên 
mà có già chết[63]; 
trí về sanh quá khứ làm duyên nên có già chết; trí về sự không phải ngoài 
sanh quá khứ làm duyên mà có già chết; trí về sanh vị lai làm duyên nên có 
già chết; cùng với trí về pháp trụ, là trí về vô thường, hữu vi, tâm duyên 
mà sanh, là pháp đoạn tận, là pháp biến dịch, pháp ly dục, pháp diệt, đoạn 
biến tri[64]. 
Cũng vậy, trí về sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, sáu nhập xứ, danh sắc, 
thức, hành; trí về vô minh duyên nên có hành, trí về sự không phải ngoài 
vô minh làm duyên mà có hành; trí về vô minh quá khứ làm duyên nên có 
hành, trí về sự không phải ngoài vô minh quá khứ làm duyên mà có hành; trí 
về vô minh vị lai làm duyên nên có hành, trí về sự chẳng phải ngoài vô 
minh vị lai làm duyên mà có hành; cùng với trí pháp trụ là trí về vô 
thường, hữu vi, tâm duyên mà sanh, là pháp đoạn tận, là pháp biến dịch, 
pháp ly dục, pháp diệt, đoạn biến tri. Đó gọi là bảy mươi bảy thứ trí.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây 
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 
“Có pháp tăng, pháp giảm, hãy lắng nghe, khéo tư 
duy, Ta sẽ vì các ông mà nói. 
“Thế nào là pháp tăng? Vì cái này có nên cái kia 
có, vì cái này khởi nên cái kia khởi, là do duyên vô minh nên có hành, 
duyên hành nên có thức… cho đến thuần một khối khổ lớn tụ tậpï. Đó gọi là 
pháp tăng.
“Thế nào là pháp giảm? Vì cái này không nên cái kia 
không, do cái này diệt nên cái kia diệt, là vì vô minh diệt nên hành diệt… 
cho đến thuần một khối khổ lớn diệt. Đó gọi là pháp giảm.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
Như pháp tăng và pháp giảm. Cũng vậy, pháp sanh, pháp biến dịch, pháp tập 
khởi, pháp diệt tận cũng nói như trên.
Như ba kinh đang nói, nên 
biết có ba kinh cũng nói như trên.
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô 
độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Nếu để cho suy lường, để cho vọng 
tưởng sanh khởi, để cho kia sai sử, thì thức duyên níu mà tồn tại[67]. 
Vì có chỗ duyên níu cho thức trụ nên trong đời vị lai có sanh, lão, tử, 
ưu, bi, khổ, não và tập hợp thuần một khối khổ lớn như vậy.
“Nếu không suy lường, không vọng 
tưởng, không để cho kia sai sử thì thức không có chỗ duyên níu mà tồn tại. 
Vì thức không có chỗ duyên níu mà tồn tại nên sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, 
khổ, não ở đời vị lai đều bị diệt và thuần một khối khổ lớn như vậy bị 
diệt.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo 
nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô 
độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Nếu suy lường, vọng tưởng thì chắc 
chắn sẽ bị sai sử[69]
khiến thức duyên níu mà tồn tại. Vì có chỗ duyên níu cho 
thức tồn tại nên nó nhập vào danh sắc. Vì nhập vào danh sắc nên có sanh, 
lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở đời vị lai và tập hợp thuần một khối khổ 
lớn.
“Nếu không suy lường, không vọng 
tưởng thì sẽ không bị sai sử khiến thức duyên níu mà tồn tại. Vì không có 
chỗ duyên níu cho thức tồn tại nên nó không nhập vào danh sắc; vì không 
nhập vào danh sắc nên sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở đời vị lai 
bị diệt và thuần một khối khổ lớn như vậy bị diệt.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo 
nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô 
độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Nếu suy lường, vọng tưởng thì chắc 
chắn sẽ bị sai sử khiến thức duyên níu mà tồn tại. Vì có chỗ duyên níu cho 
thức tồn tại nên nó nhập vào danh sắc[71]. 
Vì nhập vào danh sắc nên có qua lại. Vì có qua lại nên có sanh tử. Vì có 
sanh tử nên có sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở đời vị lai và tập 
hợp thuần một khối khổ lớn như vậy.
“Nếu không suy lường, không vọng 
tưởng thì sẽ không bị sai sử khiến thức duyên níu mà tồn tại. Vì không có 
chỗ duyên níu cho thức tồn tại nên nó không nhập vào danh sắc. Vì không 
nhập vào danh sắc nên không qua lại. Vì không qua lại nên không sanh tử. 
Vì không sanh tử nên sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở đời vị lai 
đều bị diệt và thuần một khối khổ lớn như vậy cũng bị diệt.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo 
nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô 
độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Có Tỳ-kheo đa văn. Như Lai tuyên 
bố như thế nào là một Tỳ-kheo đa văn?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Thế Tôn là căn bản của pháp, là 
con mắt của pháp, sở y của pháp, cúi xin vì chúng con mà nói. Các Tỳ-kheo 
sau khi nghe xong sẽ y theo lời dạy mà thực hành.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta 
sẽ vì ngươi mà nói. 
“Này các Tỳ-kheo, nếu có Tỳ-kheo 
nào nghe pháp già, bệnh, chết sanh nhàm tởm, ly dục, diệt tận, thì đó gọi 
là Tỳ-kheo đa văn. Cũng vậy, đối với sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục 
nhập xứ, danh sắc, thức, hành, sanh nhàm tởm, ly dục, diệt tận, thì đó gọi 
là Tỳ-kheo đa văn. Đó là Như Lai tuyên bố về Tỳ-kheo đa văn.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo 
nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây 
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 
“Gọi là Tỳ-kheo thuyết pháp[73]. 
Thế nào là Tỳ-kheo thuyết pháp? Như Lai tuyên bố như thế nào là một 
Tỳ-kheo thuyết pháp?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Thế Tôn là căn bản của pháp, là con mắt của pháp, 
sở y của pháp, cúi xin vì chúng con mà nói; các Tỳ-kheo sau khi nghe xong 
sẽ y theo lời dạy mà thực hành.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu Tỳ-kheo nào nói về già, bệnh, chết, sanh nhàm 
tởm, ly dục, diệt tận, thì đó là Tỳ-kheo thuyết pháp. Cũng vậy, nói các 
pháp sanh, thủ, hữu, ái, thọ, xúc, sáu nhập xứ, danh sắc, thức, hành, sanh 
nhàm tởm, ly dục, diệt tận, thì đó gọi là Tỳ-kheo nói pháp. Các Tỳ-kheo, 
đó là Như Lai nói về Tỳ-kheo nói pháp.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. 
*
 
Tôi nghe như vầy: 
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây 
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 
“Gọi là hướng đến pháp thứ pháp[75], 
vậy này các Tỳ-kheo, thế nào là hướng đến pháp thứ pháp?”
“Thế Tôn là căn bản của pháp, là con mắt của pháp, 
sở y của pháp, cúi xin vì chúng con mà nói; các Tỳ-kheo sau khi nghe xong 
sẽ y theo lời dạy mà thực hành.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà 
nói. 
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu Tỳ-kheo nào đối với già, bệnh, chết mà sanh 
nhàm tởm, ly dục, diệt tận, thì đó gọi là hướng đến pháp thứ pháp. Cũng 
vậy, từ sanh cho đến hành, mà sanh nhàm tởm, ly dục, hướng đến diệt tận, 
thì đó gọi là hướng đến pháp thứ pháp. Đây cũng gọi là Như Lai thi thiết 
sự hướng đến pháp thứ pháp.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì 
Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
[1].   
Pāli, S. 12. 24. Aññatitthiyā; 
25. Bhūmija.
 
[2].   
Phù-di 
浮彌.
Pāli: Bhūmija, lúc bấy giờ ở tại Sāvatthi (S. 12. 25).
 
[3].   
Pāli: sayaṃkataṃ dukkhaṃ, khổ do tự mình 
tạo ra.
 
[5].   
Tham chiếu, Trung A-hàm kinh 9; Pāli, M. 
9. Sammadiṭṭhi.
 
[6].   
Pāli (M.9): Kittavatā nu kho,  
āvuso, ariyasāvako sammādiṭṭhi hoti, cho đến mức nào Thánh đệ tử có 
chánh kiến.
 
[7].   
Pāli: dhamme aveccappasādena samannāgato, 
thành tựu bát hoại tín ở trong pháp. Bất hoại tín, hay bất động tín, 
cũng nói là chúng tịnh (Pāli: aveccapasāda). Có bốn chứng tịnh, được 
gọi là bốn thành phần của Dự lưu quả: Phâït chứng tịnh, Pháp chứng 
tịnh, Tăng chứng tịnh, Thánh giới chứng tịnh. Xem Trường A-hàm kinh 7; 
Pāli, D. 33. Saṅgīti : cattāri sotāpannassa aṅgāni, (...) buddhe 
aveccapasādena samannāgato hoti (...), dhamme... saṅghe... 
ariya-kantehi sīlehi samannāgato hoti.
 
[8].   
Bốn loại thức ăn, hay tứ thực: thô đoàn 
thực, tế xúc thực, ý tư thực, thức thực 
麤摶食,
細觸食,
意思食,
識食. 
Pāli: cattaro āhārā; kabaliṅko āhāro oḷāriko vā sukhumo vā, phasso 
dutiyo, mano-sañcetanā tatiyā, viññāṇaṃ catutthaṃ.
 
[9].   
Bỉ bỉ lạc trước 
彼彼樂著: 
ham muốn đời sau ta sẽ sanh chỗ này, chỗ kia. 
Pāli: tatratatrābhinandī (S. iii. 158).
 
[10].  
 
Trong bản, bệnh. Theo nội dung trả lời 
dưới, sửa lại là lậu.
 
        
          
          
[11].  
Ba thứ lậu: dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu
; xem Trường A-hàm kinh 7. Pāli, D. 33. Saṅgīti, 
tayo āsavā: kāmāsavo, 
bhavāsavo, avijjāsavo.
 
        
          
          
[12].  
Trong bản: “Trong pháp luật của Ta”.
 
        
        
        
          
          
[15].  
Pāli, S. 12. 31. Bhūtaṃ; 32. Kaḷāra.
 
        
          
          
[16].  
Ba-la-diên-da A-dật-đa sở vấn 
波羅延耶阿逸多所問. 
Pāli: vuttaṃ, sāriputta, pārāyane ajitapañhe, 
điều đã được nói trong câu hỏi của Ajita trong (kinh) Pārayana 
(Suttanipāte pañcassa 
Pārāyanavagassa Ajitapañhā, 
Kinh tập bộ, phẩm Pārāyayana, những câu hổi của Ajita).
 
        
          
          
[17].  
Pháp số 
法數. 
Pāli: sankhātadhamma, (người) đã truy cứu pháp, đã thấu hiểu pháp. Do 
saṅkhāta: được tính toán, nên Hán dịch là pháp số. Bản Ấn Thuận sửa 
lại là pháp giáo 
法教. 
Quốc Dịch cũng vậy.
 
        
          
          
[18].  
Pāli: ye ca sekkhā putthū idha, ở đây, 
những vị hữu học và các phàm phu.
 
        
        
          
          
[20].  
Nguyên Hán: chân thật 
真實.
Pāli: bhūtam idanti sāriputta passasī ti? Này 
Sāriputta, đây là sinh vật, ngươi có thấy 
chăng? Tiếng Phạm: bhùta, có nghĩa là chân thật (hình dung từ) 
và cũng có nghĩa là sinh vật (danh từ), chỉ các loài có sự sống 
hay mầm sống. 
 
        
          
          
[21].  
Trong nghĩa này, Hán “chân thật” rõ ràng 
là sai. Xem cht. trên.
 
        
          
          
[22].  
Pāli, A. 10. 76. Tayodhamma.
 
        
          
          
[23].  
Thất niệm 
失念, 
tức quên mất chánh niệm, xao lãng. Pāli: muṭṭhascca.失念
 
        
          
          
[24].  
Hán: điệu, bất luật nghi, bất học giới
掉,不律儀,不學戒. 
Pāli: uddhaccaṃ asaṃvaraṃ dusslīyaṃ. trạo cử, không phòng hộ, ác giới.
 
        
          
          
[25].  
Pāli, S. 12. 70. Susima.
 
        
          
          
[26].  
Tu-thâm (niên thiếu) 
須深.
Pāli: Susima-paribbājaka, Susima, ngoại đạo xuất gia.
 
        
          
          
[27].  
Trong bản Pāli, Susima thấy thỉnh thoảng 
có nhiều Tỳ-kheo đến trước Thế Tôn tuyên bố chánh trí, tức tự xác nhận 
đã chứng quả A-la-hán (bhgavato santike aññā 
vyākatā hoti). Susima tò mò nên đi theo hỏi.
 
        
          
          
[28].  
Hán: Thánh thuyết cập xả 
聖說及捨. Pāli: yan taṃ 
ariyā ācikkhanti upekkhako satimasukhāvihārī ti, điều mà các Thánh nói 
là xả, có chánh niệm, an trụ lạc.
 
        
          
          
[29].  
Xả tịnh niệm nhất tâm 
捨淨念一心. Pāli: 
upekkha-sati-pārisuddhiṃ, xả và niệm thanh tịnh.
 
        
          
          
[30].  
Đề cập tám giải thoát (Pāli: aṭṭha 
vimokhā); từ căn bản đệ Tứ thiền Sắc giới, vượt qua Sắc và Vô sắc, 
cuối cùng nhập tưởng thọ diệt tận định. Pāli: ye te santa vimokkhatā 
atikkamma rūpe ārppā te kāyena phusitvā viharati, tịch tĩnh giải 
thoát, siêu việt Sắc Vô sắc, sau khi xúc cảm bằng thân, vị ấy an trụ.
 
        
          
          
[31].  
Pāli: ida ñca 
veyyākaraṇaṃ imesañca 
dhammānaṃ asamāpatti, không có sự chứng đắc đối với lời tuyên bố (ký 
thuyết) này và những pháp này.
 
        
          
          
[32].  
Tuệ giải thoát 
慧解脫,
được giải thoát (đắc A-la-hán) do tuệ chớ không do 
định. Pāli: paññāvimutta.
 
        
          
          
[33].  
Chánh thọ 
正受
(Pāli: samāpatti), nghĩa thường: đã đi đến nơi, 
thành tựu; nghĩa chuyên biệt: đạt đến trạng thái thiền và định; theo 
nghĩa này, phiên âm là tam-ma-bát-để, hoặc dịch là chánh 
thọ, định lực, đẳng chí. Trong ngữ cảnh đoạn văn này, nó 
chỉ có nghĩa chưa chứng đắc (Pāli: asamāpatti).
 
        
          
          
[34].  
Pāli: pubbe (...) dhammaṭṭhitiññāṇaṃ, 
pacchā nibbāne ñāṇaṃ, 
trước hết là pháp trụ trí, sau đó là Niết-bàn trí.
 
        
          
          
[35].  
Pāli, S. 12. 21-22. Dasabala.
 
        
          
          
[36].  
Tri tiên Phật trú xứ 
知先佛住處, 
tức là tự xác nhận ở vị trí của chư Phật quá khứ. 
Pāli: āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, tự tuyên bố vị trí ngưu vương, tức tư 
xác nhận vị trí hướng dẫn chúng sanh.
 
        
          
          
[37].  
Chuyển Phạm luân 
轉梵輪. 
Pāli: brahmacakkaṃpavatteti
 
        
          
          
[38].  
Trong nguyên bản, tiết lược theo đoạn văn 
tương tự; nhưng từ trước, chưa tìm thấy đoạn nào tương tợ.
 
        
          
          
[39].  
Đương lai hữu kết 
當來有結,
kết sử dẫn đến hữu tương lai, tức dẫn đến tái sanh đời 
sau.
 
        
          
          
[40].  
Thoái kỳ đại nghĩa, tức là đánh mất mục 
đích cao thượng, tổn thất ích lợi lớn. Pāli: mahantañ ca sadatthaṃ 
parihāpeti, tổn thất đại lợi.
 
        
          
          
[41].  
Đệ nhất giáo pháp chi trường 
第一教法之場. 
Pāli: na, bhikkhave, hīnena agassa patti hoti. aggena ca kho, 
bhikkhave, aggassa patti hoti, không bằng cái thấp hèn mà đạt đến cái 
cao thượng (đệ nhất). Chính bằng cái cao thượng mà đạt đến cái cao 
thượng.
 
        
          
          
[42].  
Tức pháp được khéo hiển hiện nên dẫn đến 
tịch tĩnh; dẫn đến Niết-bàn; dẫn đến Bồ-đề của Thanh văn và Chánh giác 
của Phật.
 
        
          
          
[43].  
Pàli: evaư no ayaư amhàkaư pabbajjà 
avaĩjhà bhavissati saphalà sa-udrayà, sự xuất gia của ta như vậy sẽ 
không phải là vô tích sự, mà có kết quả, có thành quả.
 
        
          
          
[44].  
Hán: bất tu thủ ngữ 
不須手語, không cần nói 
bằng tay.
 
        
        
          
          
[46].  
Pāli, S. 12. 49. Ariyasāvaka.
 
        
          
          
[47].  
Pāli: kiṃ nu kho kismiṃ sati kiṃ hoti; 
kissūppadā kiṃ uppajjati, trong khi cái gì hiện hữu, cái đó hiện hữu? 
Do cái gì sanh mà cái gì đó sanh?
 
        
          
          
[48].  
S. 12. 68. Kosambī.
 
        
          
          
[49].  
Na-la 
那羅
(Pāli: Nārada), Mậu-sư-la 
茂師羅
(Musila), Thù-thắng 
殊勝
(Paviṭṭha) A-nan 
阿難 
(Ānanda).
 
        
          
          
[50].  
Bản Pāli: ở tại Kosambiyaṃ Ghositārāme.
 
        
          
          
[51].  
Hán: dị tín, dị dục, dị văn, dị hành giác 
tưởng, dị kiến thẩm đế nhẫn 
異信,異欲,異聞,異行覺想,
異見審諦忍. 
Pāli: aiñatreva (...) saddhāya aññatra ruciyā anussava aññatra 
ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā . Tiếng Phạn: 
aññatra, một cách khác biệt, hay ngoại trừ; Hán dịch là dị, nên 
hiểu là trạng từ chứ không phải tính từ. 
 
        
          
          
[52].  
Pāli: paccattam eva ñāṇaṃ, tự mình có 
nhận thức như vậy.
 
        
          
          
[53].  
Pāli: bhavanirodho nibbānan ti, sự diệt 
tận của hữu là Niết-bàn.
 
        
          
          
[54].  
S. 12. 13. Samaṇ-brāhmaṇā.
 
        
          
          
[55].  
Sa-môn nghĩa, Bà-la-môn nghĩa 
沙門義,
婆羅門義. 
Pāli: sāmaññatthaṃ brāhamaññatthaṃ, đối với mục đích của Sa-môn, 
Bà-la-môn.
 
        
          
          
[56].  
S. 12. 14. Samaṇa-brāhmaṇā.
 
        
          
          
[57].  
S. 12. 71-81. Samaṇa-brāhmaṇā.
 
        
          
          
[58].  
Pāli, S. 12. 28. Bhikkhu.
 
        
          
          
[59].  
Pāli: bhikkhu jarāmaraṇam pajānāti.
 
        
          
          
[60].  
Pāli, S. 12. 33. Ñāṇavatthūni (1).
 
        
          
          
[61].  
Tứ thập tứ chủng trí 
四十四種智. 
Pāli:catucattārīaṃñāṇavatthūni, bốn mươi bốn sự kiện của trí.
 
        
          
          
[62].  
Pāli, S. 12. 34. Ñāṇavatthūni (2).
 
        
          
          
[63].  
Pāli: asati jātiyā natthi jarāmaraṇanti, 
trí (nhận thức) về sự kiện, khi không có sanh thì không có già chết.
 
        
          
          
[64].  
Pāli: yampissa taṃ dhammaṭṭhitiñāṇaṃ 
taṃpi khayadhammaṃ vayadhammaṃ virāgadhammaṃ nirodhadhamman ti ñāṇaṃ, 
nơi nào có pháp trụ trí, nơi đó cũng có trí (nhận thức) về pháp tận 
diệt, pháp hủy hoại, pháp ly tham, pháp diệt.
 
        
          
          
[65].  
Pāli, S. 12. 35-36. Avijjā-paccāya.
 
        
          
          
[66].  
Pāli, S. 12. 38. Cetanā (1).
 
        
          
          
[67].  
Pāli: yañ ca bhikkhave ceteti yañca 
pakappeti yañca anuseti, ārammaṇam etaṃ hoti ñāṇassa ṭhitiyā,  tư duy 
về cái gì, trù tính về cái gì, ấp ủ cái gì, thức sẽ vin níu vào cái đó 
mà trụ.
 
        
          
          
[68].  
Pāli, S. 12. 39. Cetanā (2).
 
        
          
          
[69].  
Hữu sử 
有使;  
kinh 359: bỉ sử 
彼使. 
Pāli: yañca anusevati: nó tiềm phục theo cái gì, nó thầm nghĩ về cái 
gì. Bản Hán đọc là anusevati: theo phục vụ. Xem cht.67 kinh 359 trên.
 
        
        
          
          
[71].  
Pāli: tasmiṃ patiṭṭhe viññāṇe virūḷhe 
nati hoti; natiyā sati āgatigati hoti, khi thức 
an trụ và tăng trưởng, nó có xu hướng. Do có xu hướng, có sự đến và 
đi.
 
        
          
          
[72].  
Pāli, S. 12. 16. Dhammakathika.
 
        
          
          
[73].  
Pāli: dhammakathiko.
 
        
          
          
[74].  
S. 12. 16. Dhammakathika.
 
        
          
          
[75].  
Pháp thứ pháp hướng 
法次法向,
cũng nói là pháp tùy pháp hành 
法隨行向. 
Pāli: dhammānudhammā-paṭipanno, thực hành pháp và tùy pháp, thực hành 
tùy thuận theo tuần tự của pháp.