TẠP A-HÀM QUYỂN 45
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo-ni A-lạp-tỳ[2]
ở trong tinh xá chúng Tỳ-kheo-ni tại vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm
Tỳ-kheo-ni A-lạp-tỳ đắp y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, trở
về tinh xá, cất y bát, rửa chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai phải, vào
rừng An-đà[3]
tọa thiền.
Khi ấy Ma Ba-tuần nghĩ: “Hôm nay Sa-môn Cù-đàm đang
ở nước Xá-vệ, vườn Cấp cô độc, có đệ tử là Tỳ-kheo-ni A-lạp-tỳ, ở trong
tinh xá chúng Tỳ-kheo-ni, tại vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm đắp y ôm bát
vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân
xong, lấy tọa cụ vắt lên vai phải, vào rừng An-đà tọa thiền. Nay ta nên
đến đó làm trở ngại.” Liền biến thành thiếu niên tướng mạo đoan chánh, đến
chỗ Tỳ-kheo-ni ấy nói với Tỳ-kheo-ni rằng:
“A-di muốn đi đâu?”
Tỳ-kheo-ni đáp:
“Hiền giả, tôi muốn đi đến chỗ thật xa.”
Lúc ấy, Ma Ba-tuần liền nói kệ:
Đời không
thể ra khỏi,
Viễn ly để làm
gì?
Trở về hưởng
ngũ dục,
Chớ về sau
hối hận.
Khi ấy Tỳ-kheo-ni A-lạp-tỳ tự nghĩ:
“Người này là ai mà muốn khủng bố ta? Là người hay phi nhân? Hay là người
gian giảo?” Cô liền nghĩ đây ắt là ác ma muốn não loạn ta. Biết rõ rồi,
liền nói kệ:
Đời có thể
ra khỏi,
Ta tự biết sở
đắc;
Này ác ma hèn
hạ,
Ngươi không
biết đạo kia.
Như dao bén
tác hại,
Ngũ dục cũng
như vậy.
Như thân bị
xẻo thịt,
Khổ thủ uẩn
cũng vậy.
Như điều ngươi
vừa nói,
Người vui
hưởng ngũ dục;
Người đó không
thể vui.
Nơi đó đáng sợ
hãi.
Lìa tất cả hỷ
lạc,
Vất bỏ mọi tối
tăm;
Vì diệt tận
tác chứng,
An trụ lìa các lậu.
Biết rõ ngươi ác ma,
Hãy mau
chóng tự diệt.
Bấy giờ Ma Ba-tuần tự nghĩ:
“Tỳ-kheo-ni A-lạp-tỳ này đã biết rõ tâm ta.” Rồi buồn bã không vui,
liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Tô-ma[5]
ở trong tinh xá chúng Tỳ-kheo-ni tại vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm,
Tỳ-kheo-ni Tô-ma đắp y, ôm bát, vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, trở về
tinh xá, cất y bát, rửa chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai phải, vào rừng
An-đà tọa thiền.
Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Hôm nay Sa-môn Cù-đàm
đang ở nước Xá-vệ, vườn Cấp cô độc, có đệ tử là Tỳ-kheo-ni Tô-ma, ở trong
tinh xá chúng Tỳ-kheo-ni, tại vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm, đắp y, ôm
bát, vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, trở về tinh xá, cất y bát, rửa
chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai phải, vào rừng An-đà tọa thiền. Nay ta
nên đến đó làm trở ngại.” Liền biến thành thiếu niên tướng mạo đoan chánh,
đến chỗ Tỳ-kheo-ni Tô-ma hỏi rằng:
“A-di muốn đi đâu?”
Đáp:
“Hiền giả, ta muốn đi đến chỗ thật xa.”
Lúc ấy, Ma Ba-tuần liền nói kệ:
Chỗ ở của
Tiên nhân,
Nơi đó khó đến
được.
Trí bằng hai ngón tay[6],
Chẳng thể
đến nơi đó.
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Tô-ma tự nghĩ:
“Người này là ai mà muốn khủng bố ta? Là người hay phi nhân? Hay là người
gian giảo?” Nghĩ vậy rồi, cô liền biết rõ đây là ác ma muốn nhiễu loạn,
liền nói kệ:
Tâm nhập vào
chánh thọ[7],
Thân nữ có làm
sao?
Khi trí tuệ phát sanh,
Liền được pháp Vô
thượng.
Đối với tưởng nam, nữ,
Nếu tâm không xa lìa,
Người đó nghe
theo ma,
Ngươi nên đến
đó nói.
Lìa xa tất cả
khổ,
Vất bỏ mọi tối
tăm;
Mau diệt tận
chứng đắc,
An trụ các lậu sạch.
Biết rõ ngươi ác ma,
Hãy mau
chóng tự diệt.
Bấy giờ Ma Ba-tuần tự nghĩ:
“Tỳ-kheo-ni Tô-ma này đã biết rõ tâm ta.” Rồi buồn bã không vui,
liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Cát-ly-xá Cù-đàm-di[9]
ở trong tinh xá chúng Tỳ-kheo-ni. Sáng sớm đắp y, ôm bát, vào thành Xá-vệ
khất thực. Ăn xong, trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân xong, lấy tọa cụ
vắt lên vai, vào rừng An-đà, kiết già phu tọa, nhập chánh thọ ban ngày,
dưới bóng cây.
Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Hôm nay Sa-môn Cù-đàm
đang ở nước Xá-vệ, vườn Cấp cô độc, có đệ tử là Tỳ-kheo-ni Cát-ly-xá
Cù-đàm-di, ở trong tinh xá chúng Tỳ-kheo-ni, tại vườn vua nước Xá-vệ. Sáng
sớm đắp y ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, trở về tinh xá, cất y
bát, rửa chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào rừng An-đà, kiết già phu
tọa, nhập chánh thọ ban ngày, dưới một bóng cây. Nay ta hãy đến đó làm trở
ngại.” Liền hóa thành thiếu niên, dung mạo đoan chánh, đến chỗ Tỳ-kheo-ni
Cát-ly-xá Cù-đàm-di nói kệ:
Có phải
người chôn con,
Mặt buồn rầu
khóc lóc?
Một mình dưới
bóng cây,
Muốn tìm
nam tử nào?
Khi ấy Tỳ-kheo-ni Cát-ly-xá tự
nghĩ: “Là ai mà muốn khủng bố ta? Là người hay phi nhân? Hay là người gian
xảo?” Nghĩ vậy rồi, cô liền biết rõ đây là ác Ma Ba-tuần đến nhiễu loạn
ta. Biết là ma rồi, liền nói kệ:
Con cái,
cùng biên tế[10],
Tất cả đều mất
hết.
Đây biên tế nam tử[11],
Đã vượt tướng nam tử.
Không não, không lo sầu,
Phật dạy làm, đã làm;
Tất cả lìa ưu khổ,
Bỏ tất cả tối tăm.
Đã diệt tận tác chứng,
Hết các lậu,
an ổn.
Đã biết ngươi
ma xấu,
Hãy mất đi
khỏi đây.
Bấy giờ Ma Ba-tuần tự nghĩ:
“Tỳ-kheo-ni Cát-ly-xá Cù-đàm-di đã biết rõ tâm ta.” Rồi buồn lo khổ não,
liền biến mất.
*
Tôi
nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp
cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-la-sắc[13]
ở trong tinh xá chúng Tỳ-kheo-ni tại vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm đắp y,
ôm bát, vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, trở về tinh xá, cất y bát, rửa
chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào rừng An-đà, ngồi dưới một bóng cây,
nhập chánh thọ ban ngày.
Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Hôm nay
Sa-môn Cù-đàm đang ở nước Xá-vệ, vườn Cấp cô độc, có đệ tử là Tỳ-kheo-ni
Ưu-bát-la-sắc, ở trong tinh xá chúng Tỳ-kheo-ni, tại vườn vua nước Xá-vệ.
Sáng sớm đắp y ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, trở về tinh xá,
cất y bát, rửa chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai vào rừng An-đà, ngồi dưới
một bóng cây, nhập chánh thọ ban ngày. Nay ta hãy đến đó làm trở ngại.”
Liền hóa thành thiếu niên, dung mạo đoan chánh, đến chỗ Tỳ-kheo-ni
Ưu-bát-la-sắc nói kệ:
Cây kiên cố[14]
hoa đẹp,
Nương nghỉ
dưới bóng cây;
Một mình không
bè bạn,
Không sợ
người khác sao?
Khi ấy Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-la-sắc tự
nghĩ: “Đây là những người nào mà muốn khủng bố ta? Là người hay phi nhân?
Hay là người gian xảo?” Suy nghĩ như vậy, biết rõ đây ắt là ác ma muốn
nhiễu loạn ta chăng? Liền nói kệ:
Giả sử có
trăm nghìn,
Đều là người
gian xảo;
Như ác ma các
người,
Có đi đến chỗ
tôi.
Cũng không
động lông tóc.
Không sợ
ngươi, ác ma.
Ma lại nói kệ:
Nay ta vào
bụng ngươi,
Sẽ ở trong nội tạng;
Hoặc giữa hai lông mày,
Ngươi
không thể thấy ta.
Lúc ấy, Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-la-sắc
lại nói kệ:
Tâm tôi có
sức lớn,
Khéo tu tập
thần thông;
Đã giải thoát
ràng buộc,
Không sợ
ngươi, ác ma.
Ta đã nhổ ba cấu,
Cội gốc của khủng bố;
Trụ vào đất an ổn,
Đối quân ma không sợ.
Đối tất cả ái hỷ,
Xa lìa mọi tối tăm;
Đối tịch diệt đã chứng,
Các lậu hết, an trụ.
Biết rõ ngươi, ác ma,
Hãy biến
khỏi nơi này.
Bấy giờ Ma Ba-tuần tự nghĩ:
“Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-la-sắc đã biết rõ tâm ta.” Rồi ôm lòng sầu lo,
liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Thi-la[16]
ở tại tinh xá với chúng Tỳ-kheo-ni trong vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm,
Tỳ-kheo đắp y, ôm bát, vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, trở về tinh xá,
cất y bát, rửa chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào rừng An-đà, ngồi
dưới một bóng cây, nhập chánh thọ ban ngày.
Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Hôm nay Sa-môn Cù-đàm
đang ở nước Xá-vệ, vườn Cấp cô độc, có đệ tử là Tỳ-kheo-ni Thi-la, ở tại
tinh xá với chúng Tỳ-kheo-ni, trong vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm đắp y,
ôm bát, vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, trở về tinh xá, cất y bát, rửa
chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào rừng An-đà, ngồi dưới một bóng cây,
nhập chánh thọ ban ngày. Nay ta nên đến đó gây chướng nạn.” Liền biến
thành thiếu niên, dung mạo đoan chánh, đến trước Tỳ-kheo-ni Thi-la nói kệ:
Chúng sanh
sanh làm sao?
Ai là người
tạo nó?
Chúng sanh khởi chỗ nào?
Và rồi đi
về đâu?
Khi ấy Tỳ-kheo-ni Thi-la tự nghĩ:
“Đó là người nào mà muốn khủng bố ta? Là người hay không phải người? Là
người gian xảo?” Nghĩ vậy rồi, biết rõ đó là ác ma muốn gây chướng nạn,
liền nói kệ:
Ngươi bảo có
chúng sanh,
Đó là thấy của
ma.
Chỉ có uẩn
trống rỗng,
Không có ai chúng sanh.
Nhiều thanh gỗ hợp lại,
Đời gọi nó là xe;
Các uẩn do duyên hợp,
Tạm gọi là chúng sanh.
Sanh này là khổ sanh,
Trụ cũng là khổ trụ;
Không pháp nào sanh khổ,
Khổ sanh, khổ tự diệt.
Xả tất cả ưu khổ,
Xa lìa mọi tối tăm;
Đối tịch diệt, đã chứng,
Các lậu hết, an trụ.
Đã biết ngươi, ác ma,
Hãy biến
khỏi nơi này.
Bấy giờ, Ma Ba-tuần tự nghĩ:
‘Tỳ-kheo-ni Thi-la đã biết rõ tâm ta.’ Nên ôm lòng lo lắng, liền
biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Tỳ-la[18]
ở tại tinh xá với chúng Tỳ-kheo-ni trong vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm,
đắp y, ôm bát, vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong trở về tinh xá, cất y
bát, rửa chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào rừng An-đà, ngồi dưới một
bóng cây, nhập chánh thọ ban ngày.
Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Hôm nay Sa-môn Cù-đàm
đang ở nước Xá-vệ, vườn Cấp cô độc, có đệ tử là Tỳ-kheo-ni Tỳ-la, ở tại
tinh xá với chúng Tỳ-kheo-ni, trong vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm đắp y,
ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong trở về tinh xá, cất y bát, rửa
chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào rừng An-đà, ngồi dưới một bóng cây,
nhập chánh thọ ban ngày. Nay ta nên đến đó gây chướng nạn.” Liền hóa thành
thiếu niên, dung mạo đoan chánh, đến chỗ Tỳ-kheo-ni Tỳ-la, nói kệ:
Làm sao tạo hình[19]
này?
Ai là người tạo nó?
Hình này khởi từ đâu?
Hình này
đến chỗ nào?
Khi ấy Tỳ-kheo-ni Tỳ-la tự nghĩ:
“Đây là người nào mà muốn khủng bố ta? Là người hay không phải người? Hay
là người gian xảo?” Nghĩ như vậy, liền biết rõ ác Ma Ba-tuần muốn làm
nhiễu loạn, liền nói kệ:
Hình này không
tự tạo,
Cũng không
người khác tạo.
Nhân duyên hợp
mà sanh,
Duyên tan tức biến diệt.
Như đời gieo hạt giống,
Nhờ đất đai mà sanh;
Đủ đất, nước, lửa, gió.
Ấm giới nhập cũng thế;
Nhân duyên hòa hợp sanh.
Duyên lìa thì biến diệt.
Xả tất cả ưu khổ,
Xa lìa mọi tối tăm.
Đối tịch diệt, đã chứng,
Các lậu hết, an trụ.
Vì biết ngươi, ác ma,
Hãy biến
khỏi nơi này.
Bấy giờ Ma Ba-tuần tự nghĩ:
“Tỳ-kheo-ni Tỳ-la đã biết rõ tâm ta.” Nên sanh lòng lo lắng, liền
biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Tỳ-xà-da[21]
ở tại tinh xá với chúng Tỳ-kheo-ni trong vườn vua nước Xá-vẹâ. Sáng sớm
đắp y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong trở về tinh xá, cất y
bát, rửa chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào rừng An-đà, ngồi dưới một
bóng cây, nhập chánh thọ ban ngày.
Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hôm nay Sa-môn Cù-đàm
đang ở nước Xá-vệ, vườn Cấp cô độc, có đệ tử là Tỳ-kheo-ni Tỳ-xà-da, ở tại
tinh xá với chúng Tỳ-kheo-ni, trong vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm đắp y,
ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong trở về tinh xá, cất y bát, rửa
chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào rừng An-đà, ngồi dưới một bóng cây,
nhập chánh thọ ban ngày. Nay ta nên đến đó gây chướng nạn.’ Liền hóa thành
thiếu niên, dung mạo đoan chánh, đến trước cô, nói kệ:
Nay cô còn tuổi trẻ,
Tôi cũng còn trẻ tuổi;
Nơi này, cùng ở chung,
Tạo năm thứ âm nhạc.
Để cùng nhau vui hưởng,
Thiền tư để làm gì?
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Tỳ-xà-da tự nghĩ: ‘Đây là những
người nào mà muốn khủng bố ta? Là người hay không phải người? Hay là người
gian xảo? Nghĩ vậy rồi, biết rõ đây là ác Ma Ba-tuần muốn nhiễu loạn, liền
nói kệ:
Ca múa, các
nghệ thuật,
Các thứ cùng
vui chơi;
Nay đều cho
ngươi hết,
Ta chẳng cần
đến chúng.
Nếu chánh thọ
vắng lặng,
Thì ngũ dục
trời, người;
Tất cả đều cùng cho,
Ta cũng không cần chúng[22].
Bỏ tất cả vui vẻ,
Xa lìa mọi tối tăm;
Đã tác chứng, tịch diệt,
Các lậu hết, an trụ.
Đã biết ngươi, ác ma,
Hãy tự
biến khỏi đây.
Bấy giờ Ma Ba-tuần tự nghĩ:
‘Tỳ-kheo-ni Tỳ-xà-da đã biết rõ tâm ta.’ Nên trong lòng ôm lo lắng,
liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Giá-la[24]
ở tại tinh xá với chúng Tỳ-kheo-ni trong vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm đắp
y, ôm bát, vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, trở về tinh xá, cất y bát,
rửa chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào rừng An-đà, ngồi dưới một gốc
cây, nhập chánh thọ ban ngày.
Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hôm nay Sa-môn Cù-đàm
đang ở nước Xá-vệ, vườn Cấp cô độc, có đệ tử là Tỳ-kheo-ni Giá-la, ở tại
tinh xá với chúng Tỳ-kheo-ni, trong vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm đắp y,
ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong trở về tinh xá, cất y bát, rửa
chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai vào rừng An-đà, ngồi dưới một bóng cây,
nhập chánh thọ ban ngày. Nay ta nên đến đó gây chướng nạn.’ Liền hóa thành
thiếu niên, dung mạo đoan chánh, đến trước Tỳ-kheo-ni Giá-la nói kệ:
Biết thọ
sanh là vui[25],
Sanh hưởng thụ
ngũ dục[26].
Ai đã truyền
dạy cô,
Khiến chán
lìa thọ sanh?
Khi ấy Tỳ-kheo-ni Giá-la tự nghĩ: ‘Đây là người nào
mà muốn khủng bố ta? Là người hay không phải người? Hay là người gian xảo?
mà đến đây muốn nhiễu loạn,’ liền nói kệ:
Có sanh ắt
có chết,
Sanh thì chịu
các khổ:
Roi vọt, các
khổ não,
Duyên sanh có
tất cả.
Hãy đoạn tất
cả khổ,
Siêu việt hết
thảy sanh;
Tuệ nhãn quán
Thánh đế,
Những gì
Mâu-ni nói:
Khổ khổ và khổ
tập,
Diệt tận lìa
các khổ;
Tu tập tám
Thánh đạo,
An ổn đến
Niết-bàn.
Pháp Đại Sư
bình đẳng,
Tôi hâm mộ
pháp này;
Vì tôi biết
pháp này,
Không thích thọ sanh
nữa.
Lìa tất cả buồn vui,
Xả bỏ mọi tối tăm;
Đã tác chứng tịch diệt,
Phiền não hết, an trụ.
Biết rõ ngươi, ác ma,
Hãy biến
khỏi nơi này.
Bấy giờ Ma Ba-tuần tự nghĩ:
‘Tỳ-kheo-ni Giá-la đã biết rõ tâm ta.’ Trong lòng ôm lo lắng, liền
biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Ưu-ba-giá-la[28]
ở tại tinh xá với chúng Tỳ-kheo-ni trong vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm đắp
y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong trở về tinh xá, cất y bát,
rửa chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào rừng An-đà, ngồi dưới một bóng
cây, nhập chánh thọ ban ngày.
Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hôm nay Sa-môn Cù-đàm
đang ở nước Xá-vệ, vườn Cấp cô độc, có đệ tử là Tỳ-kheo-ni Ưu-ba-giá-la, ở
tại tinh xá với chúng Tỳ-kheo-ni, trong vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm đắp
y ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, ăn xong trở về tinh xá, cất y bát, rửa
chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai vào rừng An-đà ngồi dưới bóng một gốc
cây, nhập chánh thọ ban ngày. Nay ta hãy đến đó gây chướng nạn.’ Liền hóa
thành thiếu niên, dung mạo đoan chánh, đến chỗ Tỳ-kheo-ni Ưu-ba-giá-la nói
kệ:
Trên cõi Tam
thập tam,
Diệm-ma,
Đâu-suất-đà;
Hóa lạc, Tha
tự tại,
Nguyện
được sanh về đó.
Khi ấy Tỳ-kheo-ni Ưu-ba-giá-la tự
nghĩ: “Đây là những người nào mà muốn khủng bố ta? Là người hay không phải
người? Hay là người gian xảo?” Tự nghĩ đã biết rõ đây ắt là ác ma muốn
nhiễu loạn, liền nói kệ:
Trên cõi Tam
thập tam,
Diệm-ma,
Đâu-suất-đà;
Hóa lạc, Tha
tự tại,
Trên các cõi
trời ấy.
Không lìa hành
hữu vi[29],
Nên bị Ma
khống chế;
Tất cả các thế gian,
Đều là tụ các hành.
Tất cả các thế gian,
Đều là pháp dao động;
Tất cả các thế gian,
Lửa khổ thường cháy
mạnh.
Tất cả các thế gian,
Đều khởi dậy khói bụi.
Không động cũng không
lay;
Không tập cận phàm phu;
Không rơi vào đường ma;
Ở nơi đó an
vui;
Lìa tất cả ưu
khổ,
Xả bỏ mọi tối
tăm.
Đã tác chứng
tịch diệt,
Các lậu hết, an trụ.
Đã biết ngươi, ác ma,
Hãy biến
khỏi nơi này.
Bấy giờ Ma Ba-tuần tự nghĩ:
‘Tỳ-kheo-ni Ưu-ba-giá-la đã biết rõ tâm ta’, trong lòng ôm lo, lặng lẽ
biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Thi-lợi-sa-giá-la[31]
ở tại tinh xá với chúng Tỳ-kheo-ni trong vườn vua nước Xá-vệ. Sáng sớm đắp
y, ôm bát, vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong trở về tinh xá, cất y bát,
rửa chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào rừng An-đà, ngồi dưới một bóng
cây, nhập chánh thọ ban ngày.
Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hôm nay Sa-môn Cù-đàm
đang ở nước Xá-vệ, vườn Cấp cô độc, có đệ tử là Tỳ-kheo-ni
Thi-lợi-sa-giá-la, ở tại tinh xá với chúng Tỳ-kheo-ni, trong vườn vua nước
Xá-vệ. Sáng sớm đắp y ôm bát, vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong trở về
tinh xá, cất y bát, rửa chân xong, lấy tọa cụ vắt lên vai, vào rừng An-đà,
ngồi dưới một bóng cây, nhập chánh thọ ban ngày. Nay ta nên đến đó gây
chướng nạn.’ Liền hóa thành thiếu niên, dung mạo đoan chánh, đến chỗ
Tỳ-kheo-ni Thi-lợi-sa-giá-la nói rằng:
“A-di! Cô thích đạo giáo[32]
nào?”
Tỳ-kheo-ni đáp:
“Tôi không thích bất cứ đạo giáo nào.”
Lúc ấy, Ma Ba-tuần liền nói kệ:
Cô chấp nhận
chỗ nào,
Cạo tóc làm
Sa-môn;
Mình đắp y ca-sa,
Mà làm tướng xuất gia;
Đối các đạo không thích,
Mà sống ôm
ngu si?
Khi ấy Tỳ-kheo-ni Thi-lợi-sa-giá-la
tự nghĩ: ‘Đây là những người nào mà muốn khủng bố ta? Là người hay không
phải người? Hay là người gian xảo? Nghĩ vậy rồi, tự biết rõ là ác Ma
Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn, liền nói kệ:
Các đạo
ngoài Pháp này,
Bị các kiến
trói buộc.
Bị các kiến
trói rồi,
Thường bị ma
khống chế.
Nếu sanh nhà
họ Thích,
Không ai bằng
Đại Sư;
Hay dẹp các ma oán,
Không bị chúng chế phục.
Thanh tịnh thoát tất cả,
Đạo nhãn quan sát khắp;
Trí nhất thiết ắt biết,
Tối thắng lìa các lậu.
Ngài Đại Sư của ta.
Ta chỉ thích pháp Ngài.
Ta vào pháp Ngài rồi,
Được xa lìa, vắng lặng.
Lìa tất cả ái hỷ,
Xả bỏ mọi tối tăm;
Đã tác chứng, tịch diệt,
Các lậu hết, an trụ.
Đã biết ngươi, ác ma,
Hãy biến
khỏi nơi này.
Bấy giờ Ma Ba-tuần tự nghĩ:
‘Tỳ-kheo-ni Thi-lợi-sa-giá-la đã biết rõ tâm ta.’ Trong lòng ôm lo
lắng, liền biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở bên bờ hồ Yết-già[34],
tại nước Chiêm-bà.
Bấy giờ, ngày thứ mười lăm của tháng, vào lúc
bố-tát, Thế Tôn ngồi trước đại chúng. Khi trăng vừa mới mọc, lúc ấy ở
trong chúng có Tôn giả Bà-kỳ-xá[35],
nghĩ như vầy: “Bây giờ, ta muốn ở trước Thế Tôn, đọc kệ khen về thí dụ mặt
trăng”. Nghĩ vậy xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, làm lễ
Phật rồi chắp tay bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con có điều muốn nói. Bạch Thiện
Thệ, con có điều muốn nói.”
Phật bảo Bà-kỳ-xá:
“Muốn nói thì cứ nói.”
Lúc ấy Tôn giả Bà-kỳ-xá liền ở trước Phật nói kệ:
Như trăng
treo hư không,
Trong sáng không mây
che;
Ánh sáng trong vằng vặc,
Chiếu khắp cả mười
phương.
Như Lai cũng như vậy,
Trí tuệ soi thế gian;
Công đức nổi tiếng thơm,
Lan tỏa
khắp nơi nơi.
Khi Tôn giả Bà-kỳ-xá nói kệ xong,
các Tỳ-kheo nghe lời Tôn giả nói đều rất hoan hỷ.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở bên bờ hồ Yết-già, tại nước
Chiêm-bà. Bấy giờ, Tôn giả A-nhã Kiều-trần-như ở lâu nơi a-luyện-nhã thanh
vắng, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, áp mặt lên chân Phật mà nói
rằng:
“Lâu quá con không gặp Thế Tôn! Lâu quá con không
gặp Thiện Thệ!”
Khi ấy, Tôn giả Bà-kỳ-xá đang ở trong chúng hội,
nghĩ như vầy: “Bây giờ, ta sẽ đến trước mặt Tôn giả A-nhã Kiều-trần-như
khen ngợi bằng thí dụ Thượng tọa.” Nghĩ vậy xong, từ chỗ ngồi đứng dậy,
sửa lại y phục, làm lễ Phật, rồi chắp tay bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con có điều muốn nói. Bạch Thiện
Thệ, con có điều muốn nói.”
Phật bảo Bà-kỳ-xá:
“Muốn nói gì thì cứ nói.”
Lúc ấy, Tôn giả Bà-kỳ-xá liền nói kệ:
Thượng tọa
của Thượng tọa[37],
Tôn giả
Kiều-trần-như;
Đã độ, đã vượt
qua,
Được an lạc, chánh thọ.
Ở nơi a-luyện-nhã,
Luôn vui nơi viễn ly.
Điều đệ tử cần làm,
Chánh pháp Đại Sư dạy[38].
Tất cả đều mở bày,
Chánh thọ, không phóng
dật;
Sức đức lớn ba minh,
Trí tha tâm sáng tỏ;
Thượng tọa
Kiều-trần-như,
Hộ tài sản Phật pháp;
Bằng cung kính tăng
thượng,
Cúi đầu lễ
chân Phật.
Khi Tôn giả Bà-kỳ-xá nói kệ xong,
các Tỳ-kheo nghe lời Tôn giả nói đều rất hoan hỷ.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở bên bờ hồ Yết-già, tại nước
Chiêm-bà. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất cùng với các Tỳ-kheo hội họp tại
nhà cúng dường. Tôn giả vì họ mà thuyết pháp, cú vị đầy đủ, biện tài đơn
giản, dễ hiểu, ưa nghe; thông suốt không gián đoạn, hiển bày nghĩa sâu.
Các Tỳ-kheo này chuyên thích đến nghe; một lòng lắng nghe, tôn kính ghi
nhớ. Lúc ấy, Tôn giả Bà-kỳ-xá đang ngồi giữa pháp hội, tự nghĩ: ‘Ta sẽ ở
trước mặt Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ tán thán.’ Nghĩ vậy xong, liền đứng
dậy chắp tay bạch:
“Tôn giả Xá-lợi-phất, tôi có điều muốn xin nói.”
Xá-lợi-phất bảo:
“Tùy sở thích mà nói.’
Tôn giả Bà-kỳ-xá liền nói kệ:
Khéo nói
pháp tóm lược,
Khiến ai cũng
hiểu rộng;
Ưu-bà-đề-xá
hiền[40],
Giữa đại chúng
tuyên dương.
Đang lúc ngài
nói pháp,
Từ cổ phát
tiếng hay[41];
Âm thanh ái niệm vui,
Tiếng thư thả điều hòa.
Ai nghe cũng ưa thích,
Chuyên nhớ
không dời đổi.
Khi Tôn giả Bà-kỳ-xá nói những lời
này, các Tỳ-kheo nghe những gì Tôn giả nói đều rất hoan hỷ.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại thành Vương xá, gần núi
Na-già[43]
cùng với năm trăm Tỳ-kheo câu hội, đều là bậc A-la-hán các lậu đã hết,
việc cần làm đã làm, đã lìa bỏ các gánh nặng, chóng được lợi mình, dứt hết
các hữu kết, chánh trí, tâm khéo giải thoát.
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên quan sát tâm của đại
chúng, thấy tất cả đều đã giải thoát tham dục. Khi ấy Tôn giả Bà-kỳ-xá ở
giữa đại chúng, nghĩ như vầy: ‘Bây giờ, ta nên ở trước Thế Tôn và Tỳ-kheo
Tăng nói kệ tán thán.’ Nghĩ vậy xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y
phục, chắp tay bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con có điều muốn nói. Bạch Thiện
Thệ, con có điều muốn nói.”
Phật bảo Bà-kỳ-xá:
“Tùy sở thích mà nói.”
Lúc ấy, Tôn giả Bà-kỳ-xá liền nói kệ:
Vô Thượng
Sĩ, Đạo Sư,
Trụ sườn núi
Na-già;
Cùng năm trăm
Tỳ-kheo,
Thân kính
phụng Đạo Sư.
Tôn giả Đại
Mục-liên,
Thần thông
thấu rõ hết;
Quán sát tâm
đại chúng,
Thảy đều lìa tham dục.
Độ đầy đủ như vậy[44],
Mâu-ni qua bờ kia;
Mang thân này sau chót,
Nay con
cúi đầu lễ.
Khi Tôn giả Bà-kỳ-xá những lời này,
các Tỳ-kheo nghe những gì Tôn giả nói, đều rất hoan hỷ.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu
Ca-lan-đà, tại thành Vương xá[46].
Bấy giờ, Phật kiết hạ an cư cùng với năm trăm Tỳ-kheo đều là bậc A-la-hán
các lậu đã hết, việc cần làm đã làm, đã lìa các bỏ gánh nặng, dứt trừ hữu
kết, chánh trí, tâm khéo giải thoát; chỉ trừ một Tỳ-kheo là Tôn giả A-nan,
được Thế Tôn ký thuyết, ngay trong đời hiện tại Tôn giả sẽ đắc vô tri
chứng[47].
Bấy giờ, ngày mười lăm[48],
vào giờ thực thọ[49],
Thế Tôn trải tòa ngồi trước đại chúng, rồi bảo các Tỳ-kheo:
“Ta là Bà-la-môn đắc Bát-niết-bàn, mang thân sau
cùng, là Đại Y Sư, nhổ những gai nhọn. Ta là Bà-la-môn đắc Bát-niết-bàn,
mang thân sau cùng, là Vô Thượng Y Sư, nhổ những gai nhọn. Các ông là con,
từ miệng Ta sanh ra, từ pháp hóa sanh, được gia tài pháp. Hãy để Ta tự tứ[50].
Chớ để cho thân, khẩu, ý Ta có điều đáng hiềm trách.”
Lúc ấy Tôn giả Xá-lợi-phất ở giữa đại chúng đứng
dậy, sửa lại y phục, đảnh lễ chắp tay bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn vừa nói rằng: ‘‘Ta là
Bà-la-môn đắc Bát-niết-bàn, mang thân cuối cùng, là Đại Y Sư, nhổ những
mũi nhọn. Các ông là con, sanh ra từ miệng Ta, được hóa sanh từ pháp, được
gia tài pháp. Hãy để Ta tự tứ. Chớ để cho thân, khẩu, tâm ý[51]
Ta có điều đáng hiềm trách.’
“Bạch Thế Tôn, chúng con không thấy thân, khẩu và
tâm ý của Thế Tôn có điều gì đáng hiềm trách. Vì sao? Vì Thế Tôn, với
người không thể điều phục có thể khiến điều phục, người không tịch tĩnh có
thể khiến tịch tĩnh, người không an nghỉ[52]
có thể khiến an nghỉ, người không Bát-niết-bàn có thể khiến Bát-niết-bàn.
Như Lai biết đạo, Như Lai nói đạo, Như Lai hướng đạo. Các đệ tử sau đó
thành tựu, tùy thuận đạo tôn sùng đạo, vâng theo lời dạy của Đạo sư sống
đúng như những lời chỉ dạy, chánh hướng, hân lạc chân như thiện pháp. Đối
với Thế Tôn con không thấy thân hành, khẩu hành, ý hành có điều gì đáng
hiềm trách. Nay đối trước Thế Tôn, xin chỉ cho con các tội được thấy, được
nghe, được nghi, hoặc thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách?”
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Ta không thấy ông có các tội được thấy, được nghe,
được nghi và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách. Vì sao? Vì
Xá-lợi-phất, ông trì giới, đa văn, thiểu dục, tri túc, tu hạnh viễn ly,
tinh cần phương tiện, chánh niệm, chánh thọ, trí tuệ nhanh nhạy[53],
trí tuệ sáng suốt sắc bén, trí tuệ giải thoát, trí tuệ yểm ly, trí tuệ
lớn, trí tuệ rộng, trí tuệ sâu, trí tuệ không ai bằng, thành tựu trí tuệ
bảo[54];
khai thị, chỉ giáo, soi sáng, hoan hỷ; và thường cũng tán thán việc khai
thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ, mà vì chúng sanh thuyết pháp
chưa từng mỏi mệt. Thí như thái tử thứ nhất của Chuyển luân Thánh vương
đáng thọ lễ quán đảnh; nhưng chưa quán đảnh mà đang ở vào nghi pháp quán
đảnh như pháp của vua cha, những gì người đã chuyển cũng sẽ theo đó mà
chuyển. Nay ông cũng như vậy, là trưởng tử của Ta, gần được thọ quán đảnh,
nhưng chưa quán đảnh mà đang ở vào nghi pháp. Những gì Ta đã chuyển, ông
cũng theo đó chuyển và đạt được vô sở khởi; hết các hữu lậu, tâm khéo giải
thoát. Cũng vậy, đối với ông, Ta không thấy có các tội được thấy, được
nghe, được nghi và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách.”
Xá-lợi-phất bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, nếu con không có các tội được thấy,
được nghe, được nghi và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách; vậy thì
năm trăm Tỳ-kheo này có không các tội được thấy, được nghe, được nghi và
thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách?”
Phật đáp:
“Đối với năm trăm Tỳ-kheo này, Ta cũng không thấy
các tội được thấy, được nghe, được nghi và thân, khẩu, ý có điều gì đáng
hiềm trách. Vì sao? Vì năm trăm Tỳ-kheo này đều là A-la-hán, các lậu đã
hết, những việc cần làm đã làm xong, đã bỏ gánh nặng, đoạn các kết sử,
chánh trí, tâm khéo giải thoát. Trừ một Tỳ-kheo, đó là Tôn giả A-nan, Ta
ký thuyết cho A-nan đối trong hiện pháp sẽ đắc vô trí chứng. Cho nên, năm
trăm Tỳ-kheo, Ta không thấy họ có các tội được thấy, được nghe, được nghi
và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm trách.”
Xá-lợi-phất bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, năm trăm Tỳ-kheo này đã không có các
tội được thấy, được nghe, được nghi và thân, khẩu, ý có điều gì đáng hiềm
trách hết. Vậy trong đây có bao nhiêu Tỳ-kheo được Tam minh? Có bao nhiêu
Tỳ-kheo được Câu giải thoát? Có bao nhiêu Tỳ-kheo được Tuệ giải thoát?”
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Trong năm trăm Tỳ-kheo này, chín mươi Tỳ-kheo được
Tam minh; chín mươi Tỳ-kheo được Câu giải thoát; những vị còn lại được Tuệ
giải thoát. Này Xá-lợi-phất, những Tỳ-kheo này đã lìa khỏi mọi dao động,
không có ai là vỏ ngoài, mà đều là lõi thật cứng chắc.”
Khi ấy Tôn giả Bà-kỳ-xá ở giữa hội chúng tự nghĩ:
“Nay ta sẽ ở trước Thế Tôn và hội chúng nói kệ tán thán sự hoài thọ.” Nghĩ
vậy xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, lễ Phật, gối phải quỳ
sát đất chắp tay bạch:
“Bạch Thế Tôn, con có điều muốn nói. Bạch Thiện
Thệ, con có điều muốn nói.”
Phật bảo Bà-kỳ-xá:
“Cứ nói theo những gì muốn.”
Lúc ấy, Bà-kỳ-xá liền nói kệ:
Ngày mười
lăm thanh tịnh,
Chúng kia năm
trăm người;
Đoạn trừ tất
cả kết,
Đại Tiên diệt
tận hữu.
Thanh tịnh tập
thân cận,
Thanh tịnh rộng giải
thoát;
Không còn thọ các hữu,
Sanh tử đã đoạn hẳn.
Việc cần làm đã làm,
Đã hết tất cả lậu;
Mây ngũ cái đã trừ,
Nhổ rễ gai ái dục.
Sư tử không sợ hãi,
Lìa tất cả hữu dư;
Giết kẻ thù là hữu,
Siêu việt cảnh hữu dư.
Các oán địch hữu lậu,
Thảy đều đã tiềm phục.
Giống như Chuyển luân
vương,
Bao dung[55]
các quyến thuộc[56].
Tâm từ rộng tuyên hóa,
Mọi thần dân vâng theo.
Hay phục địch
ma oán,
Là Đạo Sư Vô
Thượng.
Tâm kính tín
phụng thờ,
Ba minh, lão, tử diệt;
Là chân tử của pháp,
Không lo lắng dao động.
Nhổ sạch gai phiền não,
Kính lễ
Đấng Nhật Thân.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu
Ca-lan-đà, tại thành Vương xá.
Bấy giờ, Tôn giả Ni-câu-luật Tướng[58]
ở chỗ hoang dã nơi ở của cầm thú[59].
Tôn giả Bà-kỳ-xá xuất gia chưa lâu mà có những oai nghi như vầy: sống
nương vào thành ấp, làng xóm. Sáng sớm đắp y, ôm bát vào thành ấp, làng
xóm đó khất thực, khéo bảo vệ thân mình, giữ gìn các căn môn, nhiếp tâm
cột niệm. Ăn xong, trở về trú xứ, cất y bát, rửa chân xong, vào thất tọa
thiền, giây lát xả thiền. Không chấp đắm khất thực, nhưng vị kia[60]
không tùy thời giáo thọ, giáo giới, nên tâm không an lạc, giống như sống
trong chỗ thâm sau, chung quanh bị che kín.
Rồi, Tôn giả Bà-kỳ-xá suy nghĩ: “Ta không được lợi,
khó được, chứ không phải dễ được! Ta không được tùy thời giáo thọ, giáo
giới, nên tâm không an lạc, giống như sống trong chỗ thâm sau, chung quanh
bị che kín. Nay ta nên nói kệ tán thán sự nhàm chán của mình.” Liền nói
kệ:
Phải bỏ vui,
không vui,
Cùng tất cả giác tham[61];
Không gầy dựng xòm giềng[62],
Lìa nhiễm gọi Tỳ-kheo.
Với sáu giác tâm tưởng[63],
Rong ruổi nơi thế gian;
Che giấu ác bất thiện,
Không thể lột bỏ vỏ.
Nơi tâm vui ô uế,
Đó không gọi Tỳ-kheo.
Trói buộc bởi hữu dư[64],
Cùng thấy, nghe, hiểu,
biết.
Với người giác ngộ dục[65],
Nơi kia không còn nhiễm.
Người không nhiễm như
vậy,
Thì đó là Mâu-ni.
Đại địa và hư không,
Các sắc tượng thế gian;
Chúng là pháp biến diệt,
Vắng lặng tự quyết định.
Tu tập lâu pháp khí,
Mà được
tam-ma-đề;
Không xúc,
không dối nịnh,
Tâm này rất
chuyên chú.
Thánh kia
Niết-bàn lâu,
Cột niệm
đợi thời diệt[66].
Khi Tôn giả nói kệ tự nhàm chán, xa
lìa; tâm tự khai giác đối với những điều không vui, sau khi đã khai giác
rồi thì tâm trụ hân hoan.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp
cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả A-nan-đà sáng sớm đắp
y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, cùng với bạn là Tôn giả Bà-kỳ-xá. Lúc
này Tôn giả Bà-kỳ-xá thấy một cô gái rất xinh đẹp. Thấy rồi, tâm tham dục
khởi lên. Lúc đó Tôn giả Bà-kỳ-xá suy nghĩ: “Hôm nay ta gặp bất lợi, bị
khổ, không được vui. Nay ta đã gặp thiếu nữ xinh đẹp này, tâm tham dục
sanh khởi. Bây giờ để sanh tâm yểm ly, ta hãy làm bài kệ.” Liền nói kệ:
Bị tham dục
che khuất,
Hừng hực thiêu
tâm ta.
Xin Tôn giả A-nan,
Vì tôi diệt lửa tham.
Khởi lòng từ thương xót,
Phương
tiện vì tôi nói.
Tôn giả A-nan nói kệ đáp:
Vì tưởng kia
điên đảo,
Hừng hực thiêu
tâm người.
Đối tịnh tưởng
xa lìa,
Nuôi lớn lòng tham dục.
Nên tu quán bất tịnh,
Thường nhất tâm chánh
thọ;
Diệt nhanh lửa tham dục,
Chớ để thiêu tâm thầy.
Quán sát kỹ các hành,
Khổ, không, cùng phi
ngã;
Buộc niệm quán thân
chánh,
Tu tập nhiều yểm ly.
Đối vô tướng, tu tập,
Diệt trừ sử kiêu mạn;
Đối mạn được hiện quán,
Rốt ráo
đối mé khổ.
Sau khi Tôn giả A-nan nói những lời
này, Bà-kỳ-xá nghe những gì Tôn giả nói, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có gia chủ thỉnh Phật và chúng Tăng về nhà
họ thọ thực. Sau khi đã đến nhà họ rồi, chỉ có Tôn giả Bà-kỳ-xá vì gặp
ngày trực, ở lại giữ tinh xá, nên để dành phần ăn.
Bấy giờ, một số đông phụ nữ của gia chủ ra khỏi tụ
lạc, đi đến tinh xá. Bà-kỳ-xá thấy các thiếu nữ có dung mạo đoan chánh,
liền khởi tâm tham dục. Lúc này, Tôn giả lại nghĩ: “Hôm nay ta bất lợi,
không được lợi, bị khổ, không được vui. Thấy thiếu nữ nhan sắc đoan chánh
kia, liền khởi lòng tham dục. Bây giờ, ta phải làm kệ yểm ly.” Nghĩ xong,
liền nói kệ:
Ta đã được
xuất ly,
Xuất gia, sống không
nhà;
Tham dục đuổi theo ta,
Như trâu nhớ lúa mạ.
Phải như con đại tướng,
Sức mạnh cầm cung lớn;
Bắn phá trận trùng điệp,
Một người diệt cả nghìn.
Mâu-ni Đấng Nhật Thân,
Trước mặt được nghe nói;
Hướng thẳng đạo
Niết-bàn,
Tâm quyết trụ an lạc.
Không buông lung như
vậy,
Trụ chánh thọ vắng lặng;
Đối tâm ta không ai
Huyễn hoặc, hay lừa dối.
Quyết định khéo quán
sát,
Đối chánh pháp, an trụ;
Dù cho vô số lượng,
Muốn đến mê hoặc ta.
Những ác ma
như vậy,
Không thể
gặp được ta.
Khi Tôn giả Bà-kỳ-xá nói kệ xong,
tâm được an trụ.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp
cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Bà-kỳ-xá tự cho trí
tuệ của mình có khả năng nói hay, rồi đối với những vị[70]
phạm hạnh thông minh khác sanh tâm kiêu mạn, sau đó liền tự tâm nghĩ: ‘Ta
bất lợi, sẽ không được lợi, bị khổ không được vui, ta tự cho mình có trí
tuệ, mà đối với những người phạm hạnh thông minh khác khinh mạn. Bây giờ
ta nên nói kệ sanh lòng yểm ly’, liền nói kệ:
Cù-đàm không
kiêu mạn,
Đoạn mạn khiến
vô dư;
Không khởi
giác tưởng mạn,
Chớ thoái lùi
sanh hối.
Đối người
không che giấu,
Sát mạn rơi
địa ngục[71];
Chánh định hay
trừ ưu,
Thấy đạo trụ
Chánh đạo.
Tâm này được
hỷ lạc,
Thấy đạo tự
thâu giữ;
Cho nên biện
không ngại,
Thanh tịnh lìa
chướng cái.
Đoạn trừ tất
cả mạn,
Khởi minh tất
cả nơi;
Đối Tam minh,
chánh niệm,
Thần túc
tha tâm trí.
Khi Tôn giả Bà-kỳ-xá nói kệ sanh
lòng yểm ly rồi, tâm được thanh tịnh.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp
cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Bà-kỳ-xá ở giảng
đường Lộc tử mẫu, vườn phía Đông nước Xá-vệ, một mình tư duy, sống không
phóng dật, chuyên tu tự nghiệp, đạt được Tam minh, tự thân tác chứng. Khi
ấy, Tôn giả Bà-kỳ-xá tự nghĩ: ‘Ta một mình ở chỗ vắng tư duy, sống không
phóng dật, chuyên tu tự nghiệp, để được Tam minh, tự thân tác chứng. Bây
giờ, ta nên nói kệ tán thán Tam minh’. Liền nói kệ:
Trước, tâm
dục cuồng hoặc[73],
Đi khắp nhà,
khắp xóm;
Du hành, gặp
thấy Phật,
Dạy ta pháp
thù thắng.
Đấng Cù-đàm
thương xót,
Vì ta nói
chánh pháp.
Nghe pháp được
tịnh tín,
Xả phi gia, xuất gia.
Nghe Ngài nói pháp rồi,
An trụ nơi pháp giáo.
Cần phương tiện buộc
niệm,
Kiên cố thường kham
năng.
Tam minh đã đạt được,
Lời Phật dạy đã làm.
Thế Tôn khéo hiển bày,
Đấng Nhật Chủng diễn
nói.
Vì chúng sanh mù lòa,
Mở cửa xuất yếu kia;
Khổ khổ và nhân khổ,
Khổ diệt hết, tác chứng.
Bát Thánh lìa đường khổ,
An lạc đến
Niết-bàn;
Nghĩa lành, cú
vị lành,
Phạm hạnh
không ai hơn.
Thế Tôn khéo
hiển bày,
Niết-bàn
cứu chúng sanh.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp
cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ nói về bốn pháp cú[75].
Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà giảng nói. Những gì là
bốn?
Pháp Hiền
thánh khéo nói,
Đây là điều
tối thượng.
Ái ngữ chẳng
phải không,
Đây là điều
thứ hai.
Nói thật chẳng
hư vọng,
Đây là lời thứ
ba;
Thuyết pháp
không nói khác[76],
Đây là
điều thứ tư.
“Này các Tỳ-kheo, đó gọi là nói về
bốn cú pháp.”
Khi ấy, Tôn giả Bà-kỳ-xá ở giữa hội
chúng tự nghĩ: ‘Thế Tôn ở giữa bốn chúng nói về bốn cú pháp. Ta phải dùng
bốn cách để khen ngợi, xưng tán và tùy hỷ.’ Liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa
lại y phục, lễ Phật, rồi chắp tay bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con có điều muốn
nói. Bạch Thiện Thệ, con có điều muốn nói.”
Phật dạy:
“Tùy theo sở thích mà nói.”
Lúc ấy, Tôn giả Bà-kỳ-xá liền nói
kệ:
Nếu ai khéo
nói pháp,
Đối mình không
bức não,
Cũng không
khủng bố người,
Thì đó là khéo
nói.
Điều người ái
ngữ thuyết,
Nói làm người
hoan hỷ;
Không khiến họ
làm ác,
Thì đó là ái
thuyết.
Nói thật, biết cam lộ,
Nói thật, biết vô
thượng.
Nói pháp, nói nghĩa
thật,
Chỗ Chánh sĩ kiến lập.
Như pháp Phật đã nói,
Đạo Niết-bàn
an ổn;
Diệt trừ tất
cả khổ,
Đó gọi
khéo nói pháp.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trên sườn núi
Na-già, thành Vương xá, cùng với một nghìn Tỳ-kheo đều là bậc A-la-hán,
hết sạch các hữu lậu, việc cần làm đã làm xong, đã lìa các gánh nặng, đã
được lợi mình, hết các hữu kết, chánh trí, tâm khéo giải thoát. Bấy giờ,
Tôn giả Bà-kỳ-xá đang ở giữa nghĩa địa trong Hàn lâm, thành Vương xá, suy
nghĩ rằng: ‘Nay Thế Tôn đang ở trên sườn núi Na-già, thành Vương xá cùng
với một nghìn Tỳ-kheo đều là bậc A-la-hán, hết các hữu lậu, việc cần làm
đã làm xong, đã lìa các gánh nặng, chóng được lợi mình, hết các hữu kết,
chánh trí, tâm khéo giải thoát. Nay, ta nên đến đó tán thán Thế Tôn và các
Tỳ-kheo Tăng.’ Nghĩ vậy xong, Tôn giả Bà-kỳ-xá liền đi đến chỗ Phật, cúi
đầu lễ dưới chân, ngồi lui qua một bên, nói kệ:
Đấng Đạo Sư
Vô Thượng,
Trụ bên núi
Na-già;
Nghìn Tỳ-kheo
quyến thuộc,
Phụng sự Đức
Như Lai.
Pháp Đại Sư
rộng nói,
Đạo Niết-bàn
thanh lương;
Chuyên nghe pháp thanh
bạch,
Mà Đấng Chánh Giác nói.
Đấng Chánh Giác tôn
kính,
Ở ngay giữa đại chúng;
Là Đại long đức rợp,
Là Thượng thủ Tiên nhân.
Nổi kín mây công đức,
Mưa khắp chúng Thanh
văn;
Xuất chánh thọ ban ngày,
Đến phụng sự Đại Sư.
Đệ tử Bà-kỳ-xá,
Cúi đầu
xin đảnh lễ.
“Bạch Thế Tôn, con có điều muốn
nói. Bạch Thiện Thệ, con có điều muốn nói.”
Phật bảo Bà-kỳ-xá:
“Tùy những gì ông nói, đừng suy
nghĩ trước.”
Lúc ấy, Bà-kỳ-xá liền nói kệ:
Ba-tuần khởi
ác mọn,
Ngầm chế khiến
diệt ngay;
Thường ngăn
chặn các ma,
Khiến tự hiểu
biết lỗi.
Quán sát mở
trói buộc,
Phân biệt pháp thanh
bạch;
Sáng soi như nhật
nguyệt,
Làm vua các dị đạo.
Chứng ngộ trí siêu xuất,
Diễn nói pháp đệ nhất.
Ra các dòng phiền não,
Nói về đạo vô lượng.
Đối cam lộ, kiến lập,
Kiến đế, pháp chân thật;
Tùy thuận đạo như vậy,
Khó gặp Thầy như vậy.
Kiến lập đạo cam lộ,
Kiến đế, sùng viễn ly;
Thế Tôn khéo thuyết
pháp,
Trừ ấm cái cho người.
Thấy rõ đối các pháp,
Theo học
để điều phục.
Tôn giả Bà-kỳ-xá nói kệ này rồi,
các Tỳ-kheo nghe những gì Tôn giả nói, đều rất hoan hỷ.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Lộc uyển, nơi ở của
các Tiên nhân, nước Ba-la-nại. Bấy giờ, Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói về pháp
tương ưng bốn Thánh đế. Đó là: Đây là Khổ Thánh đế, đây là Khổ tập Thánh
đế, đây là Khổ diệt Thánh đế, đây là Khổ diệt đạo tích Thánh đế.
Khi ấy, Tôn giả Bà-kỳ-xá ở giữa hội chúng tự nghĩ:
‘Nay ta nên đến trước Thế Tôn tán thán về ví dụ nhổ mũi tên.’ Nghĩ như vậy
rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục, chắp tay bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con có điều muốn nói. Bạch Thiện
Thệ, con có điều muốn nói.”
Phật bảo Bà-kỳ-xá:
“Tùy sở thích mà nói.”
Lúc ấy, Tôn giả Bà-kỳ-xá liền nói kệ:
Con nay kính
lễ Phật,
Thương xót mọi
chúng sanh.
Thứ nhất nhổ
tên nhọn,
Cách trị các
bệnh, khéo.
Thầy thuốc Ca-lộ-y[79],
Thầy thuốc Ba-hầu-la[80];
Và thầy Chiêm-bà-kỳ[81],
Thầy Kỳ-bà[82]
chữa bệnh.
Hoặc có bệnh hơi khỏi,
Gọi là trị bệnh hay;
Sau đó bệnh phát lại,
Bệnh kéo dai đến chết.
Đại Y Vương, Chánh Giác,
Khéo cho thuốc chúng
sanh;
Trừ các khổ, rốt ráo,
Không còn thọ các hữu.
Cho đến trăm nghìn thứ,
Na-do-tha số bệnh;
Phật đều chữa trị hết,
Rốt ráo thoát khỏi khổ.
Các ông thuốc nếu họp,
Con ắt sẽ bảo họ;
Được thuốc pháp cam lộ,
Tùy sở thích mà uống.
Đệ nhất nhổ tên nhọn,
Khéo hiểu biết các bệnh;
Tối thượng trong chữa
trị,
Con đảnh
lễ Cù-đàm.
Sau khi Tôn giả Bà-kỳ-xá nói những
lời này, các Tỳ-kheo nghe những gì Tôn giả Bà-kỳ-xá nói, đều rất hoan hỷ.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu
Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, Tôn giả Ni-câu-luật Tưởng ở nơi hoang
dã chỗ ở của cầm thú, bị bệnh thật là nặng. Tôn giả Bà-kỳ-xá là người nuôi
bệnh, chăm sóc, cung phụng. Nhưng Tôn giả Ni-câu-luật Tưởng vì bệnh tật
nặng quá, nên đã Bát-niết-bàn. Khi ấy Tôn giả Bà-kỳ-xá tự nghĩ: ‘Hòa
thượng của ta Niết-bàn là Hữu dư Niết-bàn hay là Vô dư Niết-bàn? Nay ta
nên tìm cầu tướng này.’
Sau khi Tôn giả Bà-kỳ-xá cúng dường xá-lợi Tôn giả
Ni-câu-luật Tưởng xong, mang y bát đi về thành Vương xá. Lần lượt đến
thành Vương xá, cất y bát, rửa chân xong, rồi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ
dưới chân, ngồi lui qua một bên, nói kệ:
Nay con lễ
Đại Sư,
Đẳng Chánh
Giác không giảm[84];
Ở trong hiện pháp này,
Đoạn tất cả lưới nghi.
Tỳ-kheo ở khoáng dã,
Mạng chung Bát-niết-bàn;
Oai nghi nhiếp các căn,
Đức lớn nêu ở đời;
Được Thế Tôn đặt tên,
Gọi Ni-câu-luật Tưởng.
Nay con hỏi Thế Tôn,
Người bất động giải
thoát;
Siêng năng cần phương
tiện,
Vì con nói công đức.
Con là họ Thích-ca,
Đệ tử pháp Thế Tôn;
Ngoài ra còn muốn biết,
Những gì Đạo Nhãn nói.
Chúng con đang ở đây,
Tất cả đều muốn nghe;
Thế Tôn là Đại Sư,
Cứu thế gian vô thượng.
Đại Mâu-ni dứt nghi,
Trí tuệ đã đầy đủ;
Đạo nhãn thần chiếu
khắp,
Ánh sáng hiển bốn chúng.
Giống như Thiên đế
Thích,
Chiếu trời Tam thập tam;
Các tham dục nghi hoặc,
Đều từ vô minh khởi.
Nếu được gặp Như Lai,
Thì diệt mất không còn.
Đạo nhãn thần Thế Tôn,
Là Tối thượng thế gian.
Diệt trừ lỗi chúng sanh,
Như gió thổi bụi bay;
Tất cả các thế gian,
Phiền não che giấu mất.
Còn lại đều không có,
Mắt sáng như của Phật;
Tuệ quang chiếu khắp cả,
Khiến đồng đại tinh tấn.
Cúi xin Đấng Đại Trí,
Nên vì chúng ký thuyết;
Phát âm thanh vi diệu,
Chúng con một lòng nghe.
Diễn nói lời dịu dàng,
Các thế gian nghe khắp;
Giống như nóng, khát,
bức,
Tìm kiếm nước mát mẻ.
Như Phật, biết không
giảm,
Chúng con
cũng mong biết.
Tôn giả Bà-kỳ-xá lại nói kệ:
Nay nghe
Đấng Vô Thượng,
Ký thuyết công
đức kia;
Không uổng tu
phạm hạnh,
Con nghe rất hoan hỷ.
Nói tùy thuận như
thuyết,
Đệ tử thuận Mâu-ni;
Cắt dây dài sanh tử,
Và dây trói hư, huyễn.
Vì nhờ gặp Thế Tôn,
Nên đoạn trừ các ái;
Qua khỏi bờ sanh tử,
Không còn
thọ các hữu.
Phật nói kinh này xong, Tôn giả
Bà-kỳ-xá nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, làm lễ ra về.
*
[1].
Đại Chánh quyển 45. Quốc Dịch, quyển 39,
“Tụng vii. Kệ. 7. Tương ưng Tỳ-kheo-ni”. Ấn Thuận, “Tụng viii. Tám
chúng. 23. Tương ưng Tỳ-kheo-ni”, mười kinh: 1298-1307 (Đại Chánh:
1198-1207). Phật Quang, quyển 45. –Pāli, S. 5. 1.
Āḷavikā. Cf. Theri 57-59.
Biệt dịch, №100(214).
[2].
A-lạp-tỳ
阿臈毘.
Pāli: Āḷavikā bhikkhunī.
[3].
An-đà lâm
安陀林.
Pāli: Andhavana.
[4].
Pāli, S. 5. 2. Somā. Cf. Theri 60-62.
Biệt dịch, №100(215).
[5].
Tô-ma Tỳ-kheo-ni
蘇摩比丘尼.
Pāli: Somā bhikkhunī.
[6].
Nhị chỉ trí
二指智.
Pāli: dvaṅgulapaññā, trí tuệ bằng hai ngón
tay. Chỉ trí tuệ người nữ. SA. i. 190:
yasmā vā dvīhi aṅgulehi kappāsavaṭṭiṃ gahetvā suttaṃ kantati,
“Bởi vì (người nữ) dùng hai ngón tay nắm mép vải rồi khâu chỉ.”
[7].
Pāli:
cittamhi susamāhite, khi tâm nhập chánh định.
[8].
Pāli, S. 5. 3. Gotamì. Biệt dịch,
№100(216).
[9].
Cát-ly-xá Cù-đàm-di
吉離舍瞿曇彌.
Pāli: Kisāgotamī.
[10].
Pāli: accanta, tận cùng, không còn gì
nữa. Bản Hán hiểu là ananta: không biên tế.
[11].
Hán sát nghĩa đen Pāli:
purisā etad antikā, “Những
người đàn ông, đã chấm dứt”.
[12].
Pāli, S. 5. 5.
Upalavaṇṇā. Cf. Theri.
230-233. Biệt dịch, №100(217).
[13].
Ưu-bát-la-sắc
優缽羅色;
Hán thường được biết qua tên Liên Hoa Sắc. Pāli:
Upalavaṇṇā.
[14].
Kiên cố thọ
堅固樹;
cây sa-la; nhưng bản Hán đọc là sara: kiên cố, thay vì sàla.
[15].
Pāli, S. 5. 10. Vajirā. Biệt dịch,
№100(218).
[16].
Thi-la Tỳ-kheo-ni
尸羅比丘尼.
Pāli: Vairā bhikkhunī.
[17].
Pāli, S. 5. 9. Selà. Biệt dịch, №100(219).
[18].
Tỳ-la Tỳ-kheo-ni
毘羅比丘尼.
Pāli: Selā
bhikkhumī.
[19].
Hán: hình
形.
Pāli: bimba, hình
bóng, ảnh tượng.
[20].
Pāli, S. 5. 4.
Vijayā. Cf. Theri.
139-140. Biệt dịch, №100(220).
[21].
Tỳ-xà-da
Tỳ-kheo-ni
毘闍耶比丘尼, Pāli:
Vijayā bhikkhunī.
[22].
Tham chiếu Pāli:
ye ca rūpūgatā sattā, ye ca arūpaṭṭhāyino; yā ca
santā samapatti, sabbattha vihato tamo’ ti,
“Chúng sanh sanh sắc giới; chúng sanh
hành vô sắc; và chánh thọ tịch tĩnh; ở tất cả nơi ấy, bóng tối bị tiêu
diệt”.
[23].
Pāli, S. 5. 6.
Cālā.
Biệt dịch, №100(221).
[24].
Giá-la Tỳ-kheo-ni
遮羅比丘尼.
Pāli:Cālā bhikkhunī.
[25].
Giác thọ sanh vi lạc
覺受生為樂.
Bản Pāli: kiṃ nu jātiṃ na rocesi,
“Sao cô không thích sự thọ sanh?”
[26].
Trong bản Pāli, câu này được hiểu là trả
lời của Cālā: jāto kāmāni bhuñjati.
[27].
Pāli, S. 5. 7. Upacālā. Cf. Theri.
197-198, 200-201. Biệt dịch, №100(222).
[28].
Ưu-ba-giá-la
優波遮羅.
Pāli: Upacālā bhikkhunī.
[29].
Bản Pāli:
kāmabandhanabaddhā te,
“chúng bị trói bởi sợi dây ái dục”.
[30].
Pāli,
S.
5. 8. Sīsupacālā.
Biệt
dịch,
№100(223).
[31].
Thi-lợi-sa-giá-la
尸利沙遮羅比丘尼.
Pāli:
Sīsupacālā bhikkhunī.
[32].
Pāli:
pāsaṇḍa, đạo giáo, giáo
phái. Đây chỉ các giáo phái ngoài Phật giáo.
[33].
Quốc Dịch, quyển 39, nửa sau, Tụng vii.
Kệ. 8. Tương Bà-kỳ-xá, hai phẩm. Ấn Thuận, 24. Tương ưng Bà-kỳ-xá, 16
kinh (Đại Chánh quyển 45, kinh 1208-1211; quyển 36, kinh 993-994). –
Pāli,
S.
8. 11. Gaggarā.
Cf.
Thera.
1252. Biệt
dịch,
№100(224).
[34].
Yết-già
揭伽.
Pāli: Gaggarā pokkhaṇi.
[35].
Bà-kỳ-xá
婆耆舍.
Pāli: Vaṅgīsa.
[36].
Pāli, S. 8. 9.
Koṇḍañña. Thera.
1246-1248. Biệt dịch, №100(225).
[37].
Pāli:
Buddhānubuddho so thero,
“Ngài
là
vị
Thượng
tọa
giác
ngộ
theo
sau Đức Phật”.
[38].
Pāli:
yam sāvekena pattabbaṃ, satthusāsanakārinā,
điều mà đệ tử cần đạt đến, vị thực hành
giáo pháp của Đạo Sư.
[39].
Pāli, S. 8. 10. Sāriputta. Thera.
1231-1233. Biệt dịch, №100(226).
[40].
Ưu-bà-đề-xá
優婆提舍;
Pāli: Upatissa, tên
của ngài Xá-lợi-phất.
[41].
Pāli:
sāḷikāyivā nigghosa,
tiếng
phát
ra
như
chim
sāli.
[42].
Pāli, S. 8. 10. Moggallāna. Thera.
1240-1251. Biệt dịch, №100(227).
[43].
Na-già
那伽.
Bản Pāli: Isigilipasse Kāḷasilāyaṃ,
trong hang Đá đen, trên sườn núi Isigili.
[44].
Pāli:
evaṃ sabbaṅgasampannaṃ,
thành tựu tất cả chi phần như vậy. SA.i.284:
evaṃ sabbaguṇasampannaṃ,
thành tựu tất cả công đức như vậy.
[45].
Pāli, S. 8. 7.
Pavāraṇā. Thera.
1234-1237. Biệt dịch, №100(228); №125 (32.5); №26(121); №61~ 63.
[46].
Bản
Pāli:
Sāvatthiyaṃ.
[47].
Vô
tri
chứng
無知證.
Có lẽ Pāli: diṭṭheva dhamme aññaṃ sacchikarissati,
sẽ chứng đắc chánh trí ngay hiện pháp. Nhưng bản Hán đọc là
aññāṇa:
vô tri (không biết) thay vì
aññā (chánh trí, chỉ quả
A-la-hán).
[48].
Hán
dịch:
thập
ngũ
nhật
nguyệt
(hay
nguyệt
nhật),
để
chỉ
ngày
thứ
15 của
nửa tháng. Pāli:
paṇṇarasa.
[49].
Thực
thọ
食受.
Không đoán được từ gốc. Với ý nghĩa tương tự, đoạn dưới Hán dịch là
hoài thọ 懷受.
Quốc Dịch, quyển 29, cht.64, đây chỉ giờ tự tứ; Pāli:
pavāraṇā.
[50].
Đương
hoài
thọ
ngã
當懷受我;
Hán dịch không rõ nghĩa. Nhưng theo ngữ cảnh, đây là lời tự tứ, đề
nghị Tỳ-kheo khác nêu khuyết điểm của mình. So sánh đoạn Pāli tương
đương: handa dāni, bhikkhave, pavāremi vo;
na me kiñci garahatha kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā ti,
“Nay, này các Tỳ-kheo, Ta mong các ông
hãy nói lên; chớ để hiềm trách Ta điều gì về thân và khẩu”.
[51].
Trong bản Pāli, chỉ tự tứ những điều liên
hệ thân và khẩu, kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā.
[53].
Khen
ngợi
các
trí
tuệ
của
Xá-lợi-phất:
tiệp
tật
trí
tuệ,
minh
lợi
trí
tuệ,
xuất
yếu
trí tuệ, yểm ly trí tuệ, đại trí tuệ,
quảng trí tuệ, thâm trí tuệ, vô tỷ trí tuệ, trí bảo thành tựu
捷疾智慧明利智慧出要智慧厭離智慧大智慧廣智慧深智慧無比智慧智寶成就. So sánh
Pāli: paṇḍitapañño, tvaṃ sāriputta,
mahāpañño... putthupañño .. hāsapañño … javanapañño … tikkhapañño …
nibbedhikapañño, tvaṃ, sāriputta.
[54].
Tống-Nguyên-Minh
đọc
là
thật
實.
Ấn
Thuận,
Quốc
Dịch,
Phật
Quang
đều
đọc
là bảo
寶.
[56].
Pāli:
cakkavattī yathā rājā,
amaccaparivārito,
như Chuyển luân vương được vây quanh bởi các đại thần.
[57].
Pāli, S. 8. 2. Arati. Thera. 1214-1218.
Biệt dịch, №100(229).
[58].
Ni-câu-luật Tướng
尼拘律相.
Bản Cao-ly đọc là tướng
相.
Tống-Nguyên-Minh đọc là tưởng
想.
Pāli: Nīgrodhakappa, Hòa thượng của Vaṅgīsa.
[59].
Bản Pāli:
Āḷaviyaṃ Āggāḷave cetiye,
trong miếu Āggāḷava, ở Āḷavi. Bản Hán hiểu Āḷavi là danh từ chung chứ
không phải địa danh.
[60].
Chỉ
Tôn
giả
Ni-câu-luật
Tướng.
Trong
bản
Pāli,
đoạn
này
nói,
Nīgodhakappa sau khi khất thực về, vào
thất, đóng cửa cho đến chiều hôm sau. Vì vậy, Vaígìsa buồn rầu, vì
không được Thầy quan tâm giáo giới.
[61].
Tham giác
貪覺
. Pāli: gehasikaṃ
vitakkaṃ, tâm tư thế
tục.
[62].
Hán: ư lân vô sở tác
於鄰無所作.
Pāli: vanathaṃ na kareyya kuhiñca,
không tạo rừng tham ái bất cứ ở đâu.
[63].
Lục giác tâm tưởng
六覺心想.
So Pāli: saṭṭhi nissitā savitakkā, puthū
janatāya adhammaṃ niviṭṭā, y chấp nơi sáu mươi
loại tầm cầu, phàm phu bị dính
chặt vào phi pháp. Theo Sớ giải, với sáu cảnh, mỗi
cảnh có mười tầm cầu phi pháp.
[64].
Hữu dư
有餘;
đây chỉ hữu dư y, phiền não làm sở y cho thọ sanh. Pāli:
upadhi janā gadhitāse,
chúng sanh bị trói chặt vào hữu y.
[65].
Pāli:
vinodaya
chadam,
đã
đoạn
dục.
[66].
Pāli: santaṃ
padaṃ ajjhagamā muni paṭicca parinibbuto kaṅkhati kālan’ti,
“đã đi đến con đường tịch tĩnh, Đấng Mâu-ni y trên Niết-bàn mà chờ
mệnh chung.
[67].
Pāli, S. 8. 4. Ānanda.
Biệt dịch, №100(230); No 125(35.9).
[68].
Pāli, S. 8. 1. Nikkhanta. Thera.
1209-1213. Biệt dịch, №100(250).
[69].
Pāli, S. 8. 3. Pesalà-atimaĩĩanà. Thera.
1219-1222. Biệt dịch, №100(251).
[70].
Nguyên bản: ư pháp
於法;
theo đoạn dưới, nên sửa lại là ư bỉ
於彼.
[71].
Pāli:
mānahatā nirayaṃ papatanti, những người hành
kiêu mạn đọa địa ngục. Mānahata, mạn mang đi, bản Hán đọc là mānahana,
mạn giết hại.
[72].
Quốc Dịch, phẩm 2. Pāli, S. 8. 12.
Vaṅgīsa. Thera. 1253-1262. Biệt dịch, №100(252).
[73].
Pāli:
kāveyyamattā
… pubbe,
khi
xưa,
ta
đam
mê
làm
thơ.
[74].
Pāli, S. 8. 5. Subhāsitā. Thera.
1227-1230; Sn. 3. 3. Subhāsita-sutta, Biệt dịch, №100 (253).
[75].
Tứ pháp cú
四法句.
Pāli: catūhi aṅgehi samannāgatā vācā
subhāsitā, lời được khéo nói gồm có bốn chi.
[76].
Pāli: dhamma bhàịe nàdhammaư taư, nói
pháp chứ không phải phi pháp.
[77].
Pāli, Parosahassa. Thera. 1238-1245.
[78].
Biệt dịch, №100(254).
[82].
Kỳ-bà
瞻婆耆.
Pāli: Jīvaka-komārabhacca,
thái y của vua Tần-bà-sa-la (Bimbisāra).
[83].
Pāli, Thera. 1263-1279; Sn. 2. 12.
Vaṅgīsa-sutta. Biệt dịch, №100(255).
[84].
Bản Cao-ly đọc là diệt
滅.
Tống-Nguyên-Minh đọc là giảm
減.