TẠP A-HÀM QUYỂN 6
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
trú ở tại núi Ma-câu-la[2].
Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà[3],
vào buổi chiều, sau khi xuất thiền, đến chỗ Phật, lạy sát chân Phật, rồi
ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Như Thế Tôn
nói, ‘hữu lưu’[4].
Vậy, thế nào gọi là hữu lưu? Và thế nào gọi là hữu lưu diệt[5]?”
Phật bảo La-đà:
“Hay thay câu
hỏi của ông! Ta sẽ vì ông mà nói. Nói hữu lưu, tức là, những kẻ phàm phu
ngu si, không học, không biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt
tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc.
Vì không biết như thật nên, đối với sắc lại ái lạc, tán thán, chấp chặt,
đắm nhiễm. Do duyên ái lạc sắc nên có thủ; duyên thủ nên có hữu; duyên hữu
nên có sanh; duyên sanh nên có già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não tăng
trưởng; như vậy là tập khởi của thuần một khối khổ lớn. Đối với thọ,
tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đó gọi là hữu lưu.
“Đa văn Thánh
đệ tử biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị
ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc. Do biết như thật
nên, đối với sắc kia không khởi ái lạc, tán thán, chấp chặt, đắm nhiễm. Vì
không ái lạc, tán thán, chấp chặt, đắm nhiễm nên, sắc ái diệt; do ái diệt
nên thủ diệt; do thủ diệt nên hữu diệt; do hữu diệt nên sanh diệt; do sanh
diệt nên già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não thuần một tụ khổ lớn như vậy
diệt. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đó gọi là những lời
dạy của Như Lai về hữu lưu và hữu lưu diệt.”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
trú ở tại núi Ma-câu-la[7].
Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà[8],
vào buổi chiều, sau khi xuất thiền, đến chỗ Phật, lạy sát chân Phật, rồi
ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch, như Thế
Tôn nói, ‘Biến tri[9]
sắc; biến tri thọ, tưởng, hành, thức.’ Bạch Thế Tôn, vậy thế nào là biến
tri sắc; biến tri thọ, tưởng, hành, thức?”
Phật bảo La-đà:
“Hay thay câu
hỏi của ông! Ta sẽ vì ông mà nói. Đối với sắc mà ưu, bi, khổ, não hết, ly
dục, diệt, tịch tĩnh; thì đó gọi là biến tri sắc. Đối với thọ, tưởng,
hành, thức mà ưu, bi, khổ, não hết, ly dục, diệt, tịch tĩnh; thì đó gọi là
biến tri thọ, tưởng, hành, thức.”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
trú ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.
Khi ấy, có một
số đông chúng xuất gia ngoại đạo đến chỗ Tôn giả, cùng thăm hỏi nhau rồi,
ngồi lui qua một bên, hỏi Tôn giả La-đà:
“Vì sao thầy
theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”
Tôn giả La-đà
trả lời:
“Vì tôi muốn
đoạn trừ khổ, nên theo Thế Tôn xuất gia tu phạm hạnh.”
Lại hỏi:
“Thầy vì muốn
đoạn trừ những thứ khổ nào, nên phải theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm
hạnh?”
La-đà trả lời:
“Vì muốn đoạn
trừ cái khổ về sắc, nên theo Thế Tôn xuất gia tu phạm hạnh. Vì muốn đoạn
trừ cái khổ về thọ, tưởng, hành, thức nên theo Thế Tôn xuất gia tu phạm
hạnh.”
Khi các xuất gia
ngoại đạo nghe Tôn giả nói những lời như vậy, thì tâm họ không vui, liền
từ chỗ ngồi đứng dậy mắng chửi rồi bỏ đi.
Bấy giờ, Tôn giả
La-đà biết các xuất gia ngoại đã ra đi rồi, liền tự nghĩ: ‘Vừa rồi, ta đã
nói những lời như vậy, há không hủy báng Thế Tôn chăng? Nói như đúng như
thuyết chăng? Nói đúng như pháp, hay là thuận thứ của pháp chăng? Sẽ không
bị người khác đến nạn vấn, chỉ trích, làm cho bế tắc chăng?”
Vào buổi chiều,
sau khi xuất thiền, Tôn giả La-đà đến chỗ Phật, làm lễ dưới chân Phật, rồi
ngồi sang một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:
“Bạch Thế Tôn,
những gì con đã nói không lỗi lầm chăng? Không hủy báng Thế Tôn chăng? Nói
như đúng như thuyết chăng? Nói đúng như pháp, hay là thuận thứ của pháp
chăng? Sẽ không bị người khác đến nạn vấn, chỉ trích, làm cho bế tắc
chăng?”
Phật bảo La-đà:
“Những gì thầy
nói đều là lời thật, không hủy báng Như Lai, nói như lời dạy của Ta, nói
như pháp, nói pháp và thứ pháp. Vì sao? Này La-đà, vì sắc là khổ, vì muốn
dứt cái khổ này nên xuất gia tu phạm hạnh; và đối với thọ, tưởng, hành,
thức là khổ, vì muốn dứt những cái khổ này nên xuất gia tu phạm hạnh.”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.
Khi ấy, có một
số đông chúng xuất gia ngoại đạo, đến chỗ Tôn giả La-đà, cùng nhau thăm
hỏi rồi ngồi lui qua một bên, hỏi La-đà:
“Vì những lý do
gì mà thầy theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”
La-đà trả lời:
[12]Khi các ngoại
đạo nghe La-đà nói những lời như vậy, tâm không vui, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy trách mắng rồi ra đi.
Bấy giờ vào
buổi chiều, sau khi xuất thiền, La-đà đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật
rồi ngồi lui qua một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:
“Bạch Thế Tôn,
con đã nói những lời như trên, không hủy báng Thế Tôn chăng? Sẽ không
khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc chăng? Nói
không như thuyết, nói không như pháp, nói không theo thuận thứ của pháp
chăng?”
Phật bảo La-đà:
“Những lời
ngươi nói là chân thật, không hủy báng Như Lai, không khiến cho người khác
đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc, nói như thuyết, nói như pháp,
nói theo thuận thứ của pháp. Vì sao? Sắc là khổ. Vì để biết nó là khổ nên
theo Như Lai xuất gia tu phạm hạnh. Thọ, tưởng, hành, thức là khổ. Vì để
biết thức là khổ nên theo Như Lai xuất gia tu phạm hạnh.”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.
Khi ấy, có một
số đông chúng xuất gia ngoại đạo, đến chỗ Tôn giả La-đà, cùng nhau thăm
hỏi rồi ngồi lui qua một bên, hỏi La-đà:
“Vì những lý do
gì mà thầy theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”
La-đà trả lời:
“Vì đối với sắc
muốn dứt hết ưu, bi, khổ, não, ly dục, diệt, tịch tĩnh nên theo Như Lai
xuất gia tu phạm hạnh. Vì đối với thọ, tưởng, hành, thức muốn dứt hết ưu,
bi, khổ, não, ly dục, diệt, tịch tĩnh nên theo Như Lai xuất gia tu phạm
hạnh.”
Khi các xuất
gia ngoại đạo nghe như vậy rồi tâm không vui, liền từ chỗ ngồi đứng dậy
quở mắng rồi ra đi.
Bấy giờ là buổi
chiều, sau khi xuất thiền, La-đà đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi
lui qua một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:
“Bạch Thế Tôn,
con đã nói những lời như trên, không hủy báng Thế Tôn chăng? Sẽ không
khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc chăng? Nói
không như thuyết, nói không như pháp, nói không theo thuận thứ của pháp
chăng?”
Phật bảo La-đà:
“Những lời
ngươi nói là chân thật, không hủy báng Như Lai, không khiến cho người khác
đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc, nói như thuyết, nói như pháp,
nói theo thuận thứ của pháp. Vì sao? Này La-đà, sắc là ưu, bi, khổ, não.
Vì muốn dứt hết nó nên theo Như Lai xuất gia tu phạm hạnh. Thọ, tưởng,
hành, thức là ưu, bi, khổ, não vì muốn dứt hết chúng nên theo Như Lai xuất
gia tu phạm hạnh.”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà[14].
Khi ấy, có một
số đông chúng xuất gia ngoại đạo, đến chỗ Tôn giả La-đà, cùng nhau thăm
hỏi rồi ngồi lui qua một bên, hỏi La-đà:
“Vì những lý do
gì mà thầy theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”
La-đà trả lời:
“Ở nơi sắc thấy
là ngã, ngã sở, ngã mạn, các kết sử trói buộc[15],
muốn dứt bỏ chúng, ly dục, diệt, tịch tĩnh. Ở nơi thọ, tưởng, hành, thức
thấy là ngã, ngã sở, ngã mạn, các kết sử trói buộc, muốn dứt bỏ chúng, ly
dục, diệt, tịch tĩnh, nên theo Thế Tôn xuất gia tu phạm hạnh.”
Khi các xuất
gia ngoại đạo nghe như vậy rồi tâm không vui, liền từ chỗ ngồi đứng dậy
quở mắng rồi ra đi.
Bấy giờ là buổi
chiều, sau khi xuất thiền, La-đà đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi
lui qua một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:
“Bạch Thế Tôn,
con đã nói những lời như trên, không hủy báng Thế Tôn chăng? Sẽ không
khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc chăng? Nói
không như thuyết, nói không như pháp, nói không theo thuận thứ của pháp
chăng?”
Phật bảo La-đà:
“Những lời
ngươi nói là chân thật, không hủy báng Như Lai, không khiến cho người khác
đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc, nói như thuyết, nói như pháp,
nói theo thuận thứ của pháp. Vì sao? Ở nơi sắc thấy là ngã, ngã sở, ngã
mạn, các kết sử trói buộc, vì muốn dứt bỏ chúng, ly dục, diệt, tịch tĩnh.
Ở nơi thọ, tưởng, hành, thức thấy là ngã, ngã sở, ngã mạn, các kết sử trói
buộc, muốn dứt bỏ chúng, ly dục, diệt, tịch tĩnh, nên theo Thế Tôn xuất
gia tu phạm hạnh.”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà[16].
Khi ấy, có một
số đông chúng xuất gia ngoại đạo, đến chỗ Tôn giả La-đà, cùng nhau thăm
hỏi rồi ngồi lui qua một bên, hỏi La-đà:
“Vì những lý do
gì mà thầy theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”
La-đà trả lời:
“Sắc hữu lậu,
chướng ngại, bức xúc, sầu lo; vì để dứt bỏ chúng, ly dục, diệt, tịch tĩnh;
thọ, tưởng, hành, thức hữu lậu, chướng ngại, bức xúc, sầu lo; vì để dứt bỏ
chúng, ly dục, diệt, tịch tĩnh nên theo Như Lai xuất gia tu phạm hạnh.”
Khi các xuất
gia ngoại đạo nghe như vậy rồi tâm không vui, liền từ chỗ ngồi đứng dậy
quở mắng rồi ra đi.
Bấy giờ là buổi
chiều, sau khi xuất thiền, La-đà đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi
lui qua một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:
“Bạch Thế Tôn,
con đã nói những lời như trên, không hủy báng Thế Tôn chăng? Sẽ không
khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc chăng? Nói
không như thuyết, nói không như pháp, nói không theo thuận thứ của pháp
chăng?”
Phật bảo La-đà:
“Những lời
ngươi nói là chân thật, không hủy báng Như Lai, không khiến cho người khác
đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc, nói như thuyết, nói như pháp,
nói theo thuận thứ của pháp. Vì sao? Vì sắc hữu lậu, chướng ngại, bức xúc,
sầu lo; vì để dứt bỏ chúng, ly dục, diệt, tịch tĩnh; thọ, tưởng, hành,
thức hữu lậu, chướng ngại bức xúc, sầu lo; vì để dứt bỏ chúng, ly dục,
diệt, tịch tĩnh nên theo Như Lai xuất gia tu phạm hạnh.”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà[17].
Khi ấy, có một
số đông chúng xuất gia ngoại đạo, đến chỗ Tôn giả La-đà, cùng nhau thăm
hỏi rồi ngồi lui qua một bên, hỏi La-đà:
“Vì những lý do
gì mà thầy theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”
La-đà trả lời:
“Vì mục đích ở
nơi sắc mà đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh đối với tham, nhuế, si; ở nơi
thọ tưởng, hành, thức mà đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh đối với tham,
nhuế, si nên theo Như Lai xuất gia tu phạm hạnh.”
Khi các xuất
gia ngoại đạo nghe như vậy rồi tâm không vui, liền từ chỗ ngồi đứng dậy
quở mắng rồi ra đi.
Bấy giờ là buổi
chiều, sau khi xuất thiền, La-đà đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi
lui qua một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:
“Bạch Thế Tôn,
con đã nói những lời như trên, không hủy báng Thế Tôn chăng? Sẽ không
khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc chăng? Nói
không như thuyết, nói không như pháp, nói không theo thuận thứ của pháp
chăng?”
Phật bảo La-đà:
“Những lời
ngươi nói là chân thật, không hủy báng Như Lai, không khiến cho người khác
đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc, nói như thuyết, nói như pháp,
nói theo thuận thứ của pháp. Vì sao? Vì mục đích ở nơi sắc mà đoạn tận, ly
dục, diệt, tịch tĩnh đối với tham, nhuế, si; ở nơi thọ tưởng, hành, thức
mà đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh đối với tham, nhuế, si nên theo Như
Lai xuất gia tu phạm hạnh.”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà[18].
Khi ấy, có một
số đông chúng xuất gia ngoại đạo, đến chỗ Tôn giả La-đà, cùng nhau thăm
hỏi rồi ngồi lui qua một bên, hỏi La-đà:
“Vì những lý do
gì mà thầy theo Sa-môn Cù-đàm xuất gia tu phạm hạnh?”
La-đà trả lời:
“Ở nơi sắc mà
có dục, ái, hỷ, vì để đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh; ở nơi thọ, tưởng,
hành, thức mà có dục, ái, hỷ, vì để đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh nên
theo Như Lai xuất gia tu phạm hạnh.”
Khi các xuất
gia ngoại đạo nghe như vậy rồi tâm không vui, liền từ chỗ ngồi đứng dậy
quở mắng rồi ra đi.
Bấy giờ là buổi
chiều, sau khi xuất thiền, La-đà đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi
lui qua một bên, đem sự việc trên đó, bạch Phật đầy đủ:
“Bạch Thế Tôn,
con đã nói những lời như trên, không hủy báng Thế Tôn chăng? Sẽ không
khiến cho người khác đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc chăng? Nói
không như thuyết, nói không như pháp, nói không theo thuận thứ của pháp
chăng?”
Phật bảo La-đà:
“Những lời
ngươi nói là chân thật, không hủy báng Như Lai, không khiến cho người khác
đến nạn vấn, chỉ trích dồn vào chỗ bế tắc, nói như thuyết, nói như pháp,
nói theo thuận thứ của pháp. Vì sao? Ở nơi sắc mà có ái, hỷ, vì để đoạn
tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh; ở nơi thọ, tưởng, hành, thức mà có ái, hỷ,
vì để đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh nên theo Như Lai xuất gia tu phạm
hạnh.”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.
Bấy giờ Thế Tôn
nói với La-đà:
“Những gì thuộc
về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài;
hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần, hãy quán sát tất
cả chúng do ma tạo ra; và những gì thuộc về thọ, tưởng, hành, thức, hoặc
quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô,
hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần, hãy quán sát tất cả chúng
đều do ma tạo ra.”
Phật bảo La-đà:
“Sắc là thường
hay vô thường?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
là vô thường.”
Lại hỏi:
“Nếu là vô
thường, thì khổ chăng?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
là khổ.”
Đối với thọ,
tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.
Lại hỏi:
“Này La-đà, nếu
vô thường, khổ là pháp biến dịch, đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy
sắc là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau chăng?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Phật bảo La-đà:
“Nếu đa văn
Thánh đệ tử đối với năm thọ ấm này không thấy là ngã, là ngã sở nên đối
với các pháp thế gian không chấp giữ. Vì không có gì chấp giữ nên không có
gì để dính mắc. Vì không có gì để dính mắc nên tự giác ngộ Niết-bàn: ‘Ta,
sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết
không còn tái sanh đời sau nữa.’”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Bấy giờ có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.
Bấy giớ Thế Tôn
nói với La-đà:
“Những gì thuộc
về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài;
hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng đều
là pháp chết; những gì thuộc về thọ, tưởng, hành, thức, hoặc quá khứ, hoặc
vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc
tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng đều là pháp chết[21].”
Phật bảo La-đà:
“Sắc là thường
hay vô thường?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
là vô thường.”
Lại hỏi:
“Nếu là vô
thường, thì khổ chăng?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
là khổ.”
Đối với thọ,
tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.
Lại hỏi:
“Này La-đà, nếu
vô thường, khổ là pháp biến dịch, đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy
sắc là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau chăng?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Phật bảo La-đà:
“Nếu đa văn
Thánh đệ tử đối với năm thọ ấm này không thấy là ngã, là ngã sở nên đối
với các pháp thế gian không chấp giữ. Vì không có gì chấp giữ nên không có
gì để dính mắc. Vì không có gì để dính mắc nên tự giác ngộ Niết-bàn: ‘Ta,
sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết
không còn tái sanh đời sau nữa.’”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la.
Bấy giờ có
Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn,
nói: ‘chúng sanh’. Vậy thế nào là chúng sanh?”
Phật bảo La-đà:
“Ở nơi sắc mà
nhiễm đắm triền miên, do đó gọi là chúng sanh[23].
Ở nơi thọ, tưởng, hành, thức mà nhiễm đắm triền miên, nên gọi là chúng
sanh.”
Phật bảo La-đà:
“Ta nói, ở nơi
cảnh giới của sắc, hãy phá sập, tiêu diệt. Ở nơi cảnh giới của thọ, tưởng,
hành, thức phá sập, tiêu diệt; đoạn tận ái dục. Ái tận thì khổ tận. Khổ
tận, Ta nói đó là tận cùng biên tế của khổ[24].
“Giống như trong
làng xóm, những trẻ con trai gái chơi đùa, nhóm đất lại tạo thành nhà cửa,
thành quách. Tâm chúng yêu thích, say đắm. Khi tâm yêu thích chưa hết, ước
muốn chưa tan, nhớ nghĩ chưa dứt, thèm khát chưa tiêu, thì tâm chúng luôn
luôn có sự yêu thích, giữ gìn và bảo là thành quách của ta, nhà cửa ta.
Đối với những đống đất kia mà lòng yêu thích hết đi, ước muốn không còn,
nhớ nghĩ đã dẹp, thèm khát đã tan, thì tay xô, chân đạp, khiến cho tiêu
tán. Cũng vậy, này La-đà, đối với sắc mà phá sập, tiêu diệt; đoạn tận ái
dục. Ái tận thì khổ tận. Khổ tận, Ta nói đó là tận cùng biên tế của khổ.”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la.
Bấy giờ có
Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi
lui qua một bên, bạch Phật:
“Lành thay, Thế
Tôn! Vì con mà nói tóm lược pháp yếu. Sau khi nghe pháp rồi, con sẽ ở một
mình nơi vắng vẻ, sống không buông lung, chuyên tâm suy nghĩ về mục đích
mà người con trai của tông tộc[26]
cạo bỏ râu tóc, mình mặc nhiễm y[27],
chánh tín xuất gia học đạo, sống không gia đình, nỗ lực siêng năng tu các
phạm hạnh, ngay trong đời này, tự tri, tự tác chứng, biết rằng: ‘Ta, sự
sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không
còn tái sanh đời sau nữa.’”
Bấy giờ, Phật
bảo La-đà:
“Lành thay!
La-đà có thể ở trước Phật hỏi ý nghĩa này! Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ,
Ta sẽ vì ngươi mà nói.
“La-đà, nên
biết, hữu thân, sự tập khởi của hữu thân, về sự diệt tận của hữu thân, về
con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân. Những gì là hữu thân? Đó là
cho năm thọ ấm: sắc thọ ấm; thọ, tưởng, hành, thức thọ ấm.
“Thế nào là sự
tập khởi của hữu thân? Đó là đương lai hữu ái[28],
câu hữu với tham và hỷ, ái lạc nơi này nơi kia[29].
Đó gọi là sự tập khởi của hữu thân.
“Thế nào là sự
diệt tận của hữu thân? Đương lai hữu ái[30],
câu hữu với tham và hỷ, ái lạc nơi này nơi kia, hoàn toàn bị đoạn trừ, vất
bỏ, nhổ sạch, ly dục, tịch diệt, tĩnh chỉ[31].
Đó gọi là sự diệt tận của hữu thân.
“Thế nào là con
đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân? Là chỉ cho Bát chánh đạo: Chánh
kiến, chánh chí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện,
chánh niệm, chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của hữu
thân. Hữu thân, nên biết: sự tập khởi của hữu thân nên đoạn; sự diệt tận
của hữu thân nên chứng; con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân nên tu.
“Này La-đà, nếu
đa văn Thánh đệ tử, đối với hữu thân hoặc biết, hoặc đoạn; đối với sự tập
khởi của hữu thân hoặc biết, hoặc đoạn; đối với sự diệt tận của hữu thân
hoặc biết, hoặc chứng; đối với con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân
hoặc biết, hoặc tu rồi, thì này La-đà, đó gọi là đoạn trừ ái, xả ly ái,
chuyển đổi kết sử, đình chỉ mạn, chứng đắc vô gián đẳng[32],
cứu cánh biên tế khổ.”
Tỳ-kheo La-đà
nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành, từ chỗ ngồi đứng dậy
làm lễ rồi cáo lui.
Sau khi Đức Thế
Tôn đã dạy như vậy rồi, thì Tỳ-kheo La-đà một mình ở chỗ vắng, chuyên tinh
suy nghĩ về mục đích mà thiện gia nam tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa,
chánh tín, xuất gia, học đạo, sống không gia đình, nỗ lực siêng năng tu
các phạm hạnh, ngay trong đời này, tự tri, tự tác chứng, biết rằng: ‘Ta,
sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết
không còn tái sanh đời sau nữa.’ Thành bậc A-la-hán, tâm khéo giải thoát.
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Khi ấy, có thị giả là Tỳ-kheo La-đà.
Bấy giờ, Thế
Tôn bảo Tỳ-kheo La-đà:
“Tỳ-kheo, những
gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc
ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; hãy quán
sát tất cả chúng đều là ma. Đối với thọ, tưởng, hành, thức, hoặc quá khứ,
hoặc là vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế;
hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; hãy quán sát tất cả chúng đều là
ma.
“Này La-đà, ý
ngươi nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
là vô thường.”
Lại hỏi:
“Vô thường có
phải là khổ chăng?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
là khổ.”
Lại hỏi:
“Nếu vô thường,
khổ là pháp biến dịch, đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy ngã chăng?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
“Đối với thọ,
tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.
“Cho nên này
La-đà, đa văn Thánh đệ tử, đối với sắc sanh tâm nhàm chán; và đối với thọ,
tưởng, hành, thức sanh tâm nhàm chán. Vì đã nhàm chán nên không thích, vì
đã không thích nên giải thoát và giải thoát tri kiến: ‘Ta, sự sanh đã dứt,
phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh
đời sau nữa.’”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Khi ấy, có thị giả là Tỳ-kheo La-đà.
Bấy giờ, Thế
Tôn bảo Tỳ-kheo La-đà:
“Tỳ-kheo, những
gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc
ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần tất cả
chúng đều là ma, tạo tác của ma. Và đối với thọ, tưởng, hành, thức lại
cũng như vậy.”
Phật bảo La-đà:
“Này La-đà, ý
ngươi nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
là vô thường.”
Lại hỏi:
“Vô thường có
phải là khổ chăng?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
là khổ.”
Lại hỏi:
“Nếu vô thường,
khổ là pháp biến dịch, đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy ngã, khác
ngã, hay ở trong nhau không?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
“Vì vậy, này
La-đà, đa văn Thánh đệ tử, đối với sắc nên sanh tâm nhàm chán. Vì đã nhàm
chán nên không thích, vì đã không thích nên giải thoát, giải thoát tri
kiến: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong,
tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Kinh thứ ba cũng như vậy, nhưng có chỗ khác là:
Phật bảo La-đà:
Đa văn Thánh đệ tử ở nơi năm thọ ấm này mà quán sát là chẳng phải ngã,
chẳng phải ngã sở. Khi đã quán sát, thì đối với các pháp trên thế gian đều
không có gì để mà chấp giữ. Vì không có gì để chấp giữ nên không dính mắc,
vì không dính mắc nên tự giác ngộ Niết-bàn: “Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh
đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau
nữa.”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Khi ấy, có thị giả là Tỳ-kheo La-đà.
Bấy giờ, Thế
Tôn bảo Tỳ-kheo La-đà:
“Tỳ-kheo, những
gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc
ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; hãy quán
sát tất cả chúng đều là pháp chết. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng
như vậy.”
Ngoài ra như đã
nói kinh trên.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Khi ấy, có thị giả là Tỳ-kheo La-đà.
Bấy giờ, Thế
Tôn bảo Tỳ-kheo La-đà:
“Tỳ-kheo, những
gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc
ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; hãy quán
sát tất cả chúng đều là pháp đoạn tận[37].
Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.
“Đa văn Thánh
đệ tử quán sát như vậy đối với sắc mà sanh nhàm chán; đối với thọ, tưởng,
hành, thức mà sanh nhàm chán. Vì đã nhàm chán nên không thích, vì không
thích nên giải thoát, giải thoát tri kiến: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh
đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau
nữa.’”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Cũng như kinh “Ta quán sát pháp đoạn tận”, các
kinh tiếp theo cũng vậy, gồm:
[38]
1.
Quán
sát diệt pháp,
2.
Quán
sát khí xả pháp (vứt bỏ),
3.
Quán
sát vô thường pháp,
4.
Quán
sát khổ pháp,
5.
Quán
sát không pháp,
6.
Quán
sát phi ngã pháp,
7.
Quán
sát vô thường-khổ-không-phi ngã pháp,
8.
Quán
sát bệnh pháp,
9.
Quán
sát ung pháp (ung nhọt),
10.
Quán
sát thích pháp (gai nhọn),
11.
Quán
sát sát pháp (giết hại),
12.
Quán
sát sát căn bản pháp,
13.
Quán
sát bệnh, ung (ung nhọt), thích pháp (gai nhọn),
sát (giết hại), sát căn bản.[39]
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Khi ấy có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.
Bấy giờ Đức Thế
Tôn bảo La-đà:
“Những gì là
sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài;
hoặc thô hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; quán sát tất cả
chúng đều là pháp đoạn tận[41].
Đã quán sát như vậy rồi, thì đối với sắc, dục tham được đoạn trừ. Dục tham
đã được đoạn trừ rồi, thì Ta nói đó là tâm khéo giải thoát. Đối với thọ,
tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Cũng vậy, có mười bốn kinh, nội dung như trên.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại núi Ma-câu-la. Khi ấy có Tỳ-kheo thị giả tên là La-đà.
Bấy giờ Đức Thế
Tôn bảo La-đà:
“Những gì là
sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài;
hoặc thô hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; quán sát tất cả
chúng đều là pháp đoạn tận[43].
Đã quán sát như vậy rồi, thì đối với sắc, dục tham được đoạn trừ. Dục tham
đã được đoạn trừ rồi, thì Ta nói đó là tâm khéo giải thoát. Đối với thọ,
tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”
Phật nói kinh
này xong, Tỳ-kheo La-đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói
với các Tỳ-kheo:
“Muốn đoạn trừ
năm thọ ấm, thì phải cầu Đại sư. Những gì là năm? Sắc thọ ấm; thọ, tưởng,
hành, thức thọ ấm. Muốn đoạn trừ năm thọ ấm này, thì phải cầu Đại sư.”
Phật nói kinh
này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Cũng như kinh “Đương đoạn”, các kinh tiếp theo
cũng vậy, có tên như sau:
-
Đương
thổ (hãy nhả ra);
-
Đương
tức (hãy đình chỉ);
-
Đương
xả (hãy xả bỏ).
Cũng như kinh “Cầu Đại sư”, các kinh sau đây có
nội dung tương đồng (có năm mươi
chín kinh):
-
Cầu
Thắng sư (bậc thầy cao cả),
-
Thuận
thứ sư (bậc thầy thuận theo thứ lớp),
-
Giáo
giới giả (người răn dạy),
-
Thắng
giáo giới giả (người răn dạy hơn nhất),
-
Thuận
thứ giáo giới giả (người răn dạy thuận theo thứ lớp),
-
Thông
giả (người thông suốt),
-
Quảng
thông giả (người thông suốt rộng rãi),
-
Viên
thông giả (người thông suốt tròn đầy),
-
Đạo
giả (người dẫn đường),
-
Quảng
đạo giả (người dẫn đường rộng rãi),
-
Cứu
cánh đạo giả (người dẫn đường rốt ráo),
-
Thuyết giả (người thuyết giảng),
-
Quảng
thuyết giả (người thuyết giảng rộng rãi),
-
Thuận
thứ thuyết giả (người thuyết giảng theo thứ lớp),
-
Chánh
giả (người chân chánh),
-
Bạn
giả (người đồng hành),
-
Chân
tri thức giả (bằng hữu chân thật),
-
Thân
giả (người thân cận),
-
Mẫn
giả (người thương xót),
-
Bi
giả (người từ bi),
-
Sùng
nghĩa giả (người sùng nghĩa),
-
An ủy
giả (người an ủi),
-
Sùng
lạc giả (người sùng lạc),
-
Sùng
xúc giả (người sùng xúc),
-
Sùng
an ủy giả (người sùng sự an ủi),
-
Dục
giả (người muốn),
-
Tinh
tấn giả (người tinh tấn),
-
Phương tiện giả (người phương tiện),
-
Cần
giả (người chuyên cần),
-
Dũng
mãnh giả (người dõng mãnh),
-
Cố
giả (người kiên cố),
-
Cường
giả (người mạnh mẽ),
-
Kham
năng giả (người có khả năng),
-
Chuyên giả (người tinh chuyên),
-
Tâm
bất thoái giả (người tâm không thoái lui),
-
Kiên
chấp trì (người giữ gìn chắc chắn),
-
Thường tập giả (người thường tu tập),
-
Bất
phóng dật giả (người không buông lung),
-
Hòa
hiệp giả (người hòa hợp),
-
Tư
lương giả (người suy xét),
-
Ức
niệm giả (người nhớ nghĩ),
-
Giác
giả (người tỉnh giác),
-
Tri
giả (người biết),
-
Minh
giả (người sáng suốt),
-
Tuệ
giả (người trí tuệ),
-
Thọ
giả (người lãnh thọ),
-
Tư
duy giả (người tư duy),
-
Phạm
hạnh giả (người phạm hạnh),
-
Niệm
xứ giả (người có niệm xứ),
-
Chánh
cần giả (người có chánh cần),
-
Như ý
túc (người được như ý túc),
-
Căn
giả (người được căn),
-
Lực
giả (người được lực),
-
Giác
phần giả (người được giác phần),
-
Đạo
phần giả (người được đạo phần),
-
Chỉ
giả (người được chỉ),
-
Quán
giả (người được quán),
-
Niệm
thân giả (người được niệm thân),
-
Chánh
ức niệm (người được chánh ức niệm).
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói
với các Tỳ-kheo:
“Nếu có Sa-môn,
Bà-la-môn nào tập cận với sắc, bị ma chi phối[46],
rơi vào tay ma, theo ước muốn của ma, bị ma trói buộc, không thoát ra khỏi
sợi dây trói của ma. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Nếu
Sa-môn, Bà-la-môn nào không tập cận sắc, thì những Sa-môn, Bà-la-môn ấy
không không bị ma chi phối, không rơi vào tay ma, không chạy theo ước muốn
của ma, sẽ không bị ma trói buộc, thoát sợi dây trói của ma. Đối với thọ,
tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”
Phật nói kinh
này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Cũng như kinh “Tập cận”, các kinh sau đây có nội
dung giống vậy:
-
Tập
trước giả (quen thói đam mê),
-
Vị
giả (hảo vị ngọt),
-
Quyết
định trước giả (đam mê thành tánh cố định),
-
Chỉ
giả (dừng nghỉ),
-
Sử
giả (sai sử),
-
Vãng
giả (đi đến),
-
Tuyển
trạch giả (lựa chọn),
-
Bất
xả (không xả),
-
Bất
thổ (không nhả ra),
“Những Sa-môn,
Bà-la-môn nào như vậy không bị ma chi phối” như nói ở kinh trên. Như đã
nói ở trên.
Một thời, Phật
ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói
với các Tỳ-kheo:
“Nếu Sa-môn,
Bà-la-môn nào không tập cận sắc, thì những Sa-môn, Bà-la-môn ấy không bị
ma chi phối, không rơi vào tay ma, không chạy theo ước muốn của ma, sẽ
không bị ma trói buộc, thoát sợi dây trói của ma. Đối với thọ, tưởng,
hành, thức lại cũng như vậy.”
Phật nói kinh
này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Cho đến “Thổ sắc” lại cũng như vậy[48].
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói
với các Tỳ-kheo:
“Do có cái gì,
do sanh khởi cái gì, do hệ lụy cái gì mà có kiến chấp ngã, khiến cho chúng
sanh bị vô minh che lấp, bị ái cột cổ, phải dong ruổi nơi đường dài, luân
hồi theo sanh tử, lưu chuyển trong sanh tử, không biết biên tế tối sơ là
gì[50]?”
Các Tỳ-kheo
bạch Phật:
“Thế Tôn là gốc
pháp, là con mắt pháp, là sở y của pháp. Lành thay, Thế Tôn! Xin thương
xót mà nói rộng nghĩa này. Sau khi các Tỳ-kheo nghe xong sẽ vâng lời thực
hành.”
Phật bảo các
Tỳ-kheo:
“Hãy lắng nghe
và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà nói.
“Này các
Tỳ-kheo, vì có sắc, sanh khởi sự của sắc, hệ lụy sắc, nơi sắc mà thấy ngã,
khiến cho chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái cột cổ, phải dong ruổi nơi
đường dài, luân hồi theo sanh tử, lưu chuyển trong sanh tử. Đối với thọ,
tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.
“Này các
Tỳ-kheo, sắc là thường hay vô thường?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
là vô thường.”
Lại hỏi:
“Nếu vô thường,
là khổ phải chăng?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
là khổ.”
“Như vậy này
các Tỳ-kheo, nếu vô thường là khổ, thì do có cái khổ này mà sự ấy sanh
khởi, hệ lụy, thấy là ngã, khiến cho chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái
cột cổ, phải dong ruổi nơi đường dài, luân hồi theo sanh tử, lưu chuyển
trong sanh tử. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.
“Cho nên, này
các Tỳ-kheo, những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại;
hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa,
hoặc gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở
trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng
như vậy.
“Cũng vậy, cái
thấy, cái nghe, cái hay, cái biết, cái sở cầu, cái sở đắc, cái được nhớ
nghĩ[51];
tất cả đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi
là chánh tuệ.
“Nếu có kiến
chấp cho rằng có ngã, có thế gian, có đời này, là pháp thường hằng, không
biến dịch, thì tất cả đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở
trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.
“Lại nữa, nếu có
kiến chấp cho rằng không phải cái này là tôi, không phải cái này là của
tôi, không phải là tôi trong tương lai, không phải là của tôi trong tương
lai; thì tất cả chúng cũng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng
ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.
“Nếu đa văn
Thánh đệ tử ở nơi sáu kiến xứ[52]
này mà quán sát chẳng phải là ngã, chẳng phải ngã sở. Quán sát được như
vậy rồi, thì dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Phật, dứt hết mọi sự hồ nghi
đối với Pháp và đối với Tăng. Đó gọi là, Tỳ-kheo, đa văn Thánh đệ tử không
còn trở lại tạo nghiệp thân, miệng, ý để đưa đến ba đường ác; giả sử có
buông lung, Thánh đệ tử cũng nhất định hướng đến giác ngộ, bảy lần qua lại
trời người, rồi cứu cánh biên tế khổ.”
Phật nói kinh
này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói
với các Tỳ-kheo:
Nội dung chi tiết như kinh trên. Sai biệt ở chỗ:
“Nếu đa văn
Thánh đệ tử ở nơi sáu kiến xứ[54]
này mà quán sát chẳng phải là ngã, chẳng phải ngã sở. Quán sát được như
vậy rồi, thì đoạn trừ hồ nghi đối với Khổ, Tập, Diệt, Đạo... cho đến, rồi
cứu cánh biên tế khổ.”
Phật nói kinh
này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói
với các Tỳ-kheo:
Nội dung chi tiết như kinh trên. Sai biệt ở chỗ:
“Nếu đa văn
Thánh đệ tử ở nơi sáu kiến xứ[55]
này mà quán sát chẳng phải là ngã, chẳng phải ngã sở. Quán sát được như
vậy rồi, thì đoạn trừ hồ nghi đối với Phật, Pháp, Tăng, Khổ, Tập, Diệt,
Đạo... cho đến, rồi cứu cánh biên tế khổ.”
Phật nói kinh
này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như
vầy:
Một thời, Phật
ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói
với các Tỳ-kheo:
“Do có cái gì,
do sanh khởi cái gì, do hệ lụy cái gì mà có kiến chấp ngã, khiến cho chúng
sanh bị vô minh che lấp, bị ái cột cổ, phải dong ruổi nơi đường dài, luân
hồi theo sanh tử, lưu chuyển trong sanh tử, không biết biên tế tối sơ là
gì[57]?”
Các Tỳ-kheo
bạch Phật:
“Thế Tôn là gốc
pháp, là con mắt pháp, là sở y của pháp. Lành thay, Thế Tôn! Xin thương
xót mà nói rộng nghĩa này. Sau khi các Tỳ-kheo nghe xong sẽ vâng lời thực
hành.”
Phật bảo các
Tỳ-kheo:
“Hãy lắng nghe
và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà nói.
“Này các
Tỳ-kheo, vì có sắc, sanh khởi sự của sắc, hệ lụy sắc, nơi sắc mà thấy ngã,
khiến cho chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái cột cổ, phải dong ruổi nơi
đường dài, luân hồi theo sanh tử, lưu chuyển trong sanh tử. Đối với thọ,
tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.
“Này các
Tỳ-kheo, sắc là thường hay vô thường?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
là vô thường.”
Lại hỏi:
“Nếu vô thường,
là khổ phải chăng?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn,
là khổ.”
“Như vậy này
các Tỳ-kheo, nếu vô thường là khổ, thì do có cái khổ này mà sự ấy sanh
khởi, hệ lụy, thấy là ngã, khiến cho chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái
cột cổ, phải dong ruổi nơi đường dài, luân hồi theo sanh tử, lưu chuyển
trong sanh tử. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.
“Cho nên, này
các Tỳ-kheo, những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại;
hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa,
hoặc gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở
trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng
như vậy.
“Cũng vậy, cái
thấy, cái nghe, cái hay, cái biết, cái sở cầu, cái sở đắc, cái được nhớ
nghĩ[58];
tất cả đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi
là chánh tuệ.
“Nếu có kiến
chấp cho rằng có ngã, có thế gian, có đời này, là pháp thường hằng, không
biến dịch, thì tất cả đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở
trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.
“Lại nữa, nếu có
kiến chấp cho rằng không phải cái này là tôi, không phải cái này là của
tôi, không phải là tôi trong tương lai, không phải là của tôi trong tương
lai; thì tất cả chúng cũng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng
ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.
“Nếu đa văn
Thánh đệ tử ở nơi sáu kiến xứ[59]
này mà quán sát chẳng phải là ngã, chẳng phải ngã sở. Quán sát được như
vậy rồi, thì dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Phật, dứt hết mọi sự hồ nghi
đối với Pháp và đối với Tăng. Đó gọi là Tỳ-kheo, đa văn Thánh đệ tử không
còn trở lại tạo nghiệp thân, miệng, ý để đưa đến ba đường ác; giả sử có
buông lung, Thánh đệ tử cũng nhất định hướng đến giác ngộ, bảy lần qua lại
trời người, rồi cứu cánh biên tế khổ.”
Phật nói kinh
này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Kinh tiếp theo,
nội dung cũng như vậy, chỉ sai khác ở chỗ: “Dứt hết mọi sự hồ nghi đối với
Khổ-Tập-Diệt-Đạo.”
Kinh thứ ba
cũng như vậy, chỉ khác nhau ở chỗ: “Dứt hết mọi sự hồ nghi đối với
Phật-Pháp-Tăng và dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Khổ-Tập-Diệt-Đạo.”
*
[1].
Đại Chánh, quyển 6. Quốc Dịch xếp vào
Tụng 1. Ấn Thuận xếp vào Tụng 7; “34. Tương ưng La-đà”, tổng thể có
một trăm ba mươi ba kinh, nhưng chỉ có hai mươi hai kinh có nội dung
được truyền. Tương đương Pāli, S. 23. Rādhasamyuttam, Roman iii. 188.
Phật Quang, quyển 6, kinh 113. Quốc Dịch, đồng, kinh 192. Tương đương
Pāli, 23. 3. Bhavaneti.
[2].
Ma-câu-la sơn
摩拘羅山.
(Pāli: Makula), tên núi ở Kiều-thưởng-di.
Bản Pāli nói: Sāvatthinidānam, nhân duyên
ở Sāvatthi.
[3].
La-đà
羅陀.
Pāli: Rādha.
[4].
Hữu lưu
有流,
dòng chảy của hữu hay tồn tại. Bản Pāli:
bhavanetti, lưới của hữu.
[5].
Hữu lưu diệt
有流滅.
Pāli: bhavanettinirodha, sự diệt tận của
lưới hữu.
[6].
Pāli, S. 23. 4. Pariññeyyā.
[7].
Xem cht.2, kinh 111.
[8].
La-đà
羅陀.
Pāli: Rādha.
[9].
Nguyên Hán: đoạn tri
斷知,
chỉ cho sự đoạn trừ phiền não do nhận thức toàn diện về bốn Thánh đế.
Pāli: pariññeyya.
[10].
Không thấy Pāli tương đương.
[11].
Pāli, S. 35. 81. Bhikkhu.
[12].
Tri khổ
知苦.
Pāli: dhukkassa pariññatthaṃ, vì mục đích
biến tri khổ. Xem cht.9, kinh112.
[13].
Không thấy Pāli tương đương.
[14].
Xem cht.2&3, kinh 111.
[15].
Ngã kiến, ngã sở,
ngã mạn sử hệ trước
我見,
我所,
我慢使繫著.
Pāli: ahaṃkāra-mamaṃkāra-mānānusayā, các
tùy miên tác thành phức cảm cái tôi và của tôi.
[16].
Xem cht.2&3, kinh 111.
[17].
Xem cht.2&3, kinh 111.
[18].
Xem cht.2&3, kinh 111.
[19].
Pāli, S. 23. 1. Māro.
[20].
Pāli, S. 23. 12. Māradhamma.
[21].
Ma pháp
死法.
Pāli: māradhamma, ma pháp hay tử pháp, quy
luật của sự chết.
[22].
Pāli, S. 23. 2. Satto.
[23].
Nhiễm trước triền miên
染著纏綿 định nghĩa
từ “chúng sanh”; Pāli: rūpe kho rādha yo chando
yo rāga yā nandi yā taṇhā tatra satto tatra viatto tasmā sattoti
vuccati, ở nơi sắc mà có dục vọng, đam mê, khoái cảm, khát ái;
ở đó đắm nhiễm, ở đó đắm nhiễm triền miên, do đó được gọi là chúng
sanh. Theo đây, chúng sanh, satta, được
coi như là phân từ quá khứ của sajjati:
đắm nhiễm hay cố chấp, bám chặt vào. Thông thường, satta được cho là
danh từ phát sanh của động từ căn as: tồn tại, hiện hữu; nên
satta được hiểu là “cái ở trong trạng thái đang tồn tại.”
[24].
Hán: tác khổ biên
作苦邊.
Pāli: dukkhassa antakaro, chấm dứt sự khổ.
[25].
Pāli, S. 23. 9-19. Chandarāgo.
[26].
Tộc tánh tử
族姓子,
cũng nói là thiện nam tử, hay thiện gia nam tử. Pāli:
kulaputta, con trai của gia tộc; thiện gia
nam tử, hay lương gia tử đệ.
[27].
Nhiễm y
染衣,
áo nhuộm; đây chỉ ca-sa.
[28].
Đương lai hữu ái
當來有愛;
Pāli: taṇhā ponobhavikā, khát ái về đời
sống tương lai, khát vọng tồn tại đời sau.
[29].
Bỉ bỉ ái lạc
彼彼愛樂,
ước muốn sẽ tái sinh vào nơi này hay nơi kia. Pāli:
tatratatrābhinandī
[30].
Trong bản; đương hữu ái, tức
đương lai hữu ái, xem cht.28 trên.
[31].
Pāli (S. iii. 138):
yo tassāyeva taṇhā asesavirāganirodho cāgo paṭinissaggo mutti anālayo,
khát ái ấy hoàn toàn được ly nhiễm, diệt tận, xả bỏ, xả ly, giải
thoát, không chấp tàng.
[32].
Vô gián đẳng, xem cht.18 kinh 105; cht.39
kinh 109.
[33].
Pāli, S. 23. 11. Māro.
[34].
Pāli, S. 23. 23. Māro.
[35].
Pāli, S. 23. 24. Māradhamma.
[36].
Pāli, S.23. 19-22. Khaya.
[37].
Đoạn pháp
斷法.
Pāli: khayadhamma.
[39].
Các kinh này được cho là có nội dung tương đồng với các kinh Pāli S.
23. 20. Vayadhamma; 21. Samudayadhamma; 22. Nirodhadhamma.
[40].
Quốc Dịch, phẩm iv. Phẩm này có tất cả
mười lăm kinh, nhưng chỉ có hai kinh có nội dung được truyền. Còn lại
chỉ có đầu đề. Phật Quang, kinh 130. Pāli, S. 23. 31. Khaya.
[41].
Đoạn pháp
斷法,
có lẽ dư chữ pháp. Trong đây, hai kinh liên tiếp, một kinh nói
về đoạn, một kinh nói đoạn pháp, tương đương Pàli là
S.22. 31. Khaya và S. 22. 32. Khayadhamma.
[42].
Pāli, S. 23. 32. Khayadhamma.
[43].
Xem cht.41 kinh 128.
[44].
Pāli, S. 23. 35-46. Māro, v.v...
[45].
Phật Quang, kinh 133.
[46].
Hán: Tùy ma tự tại
隨魔自在. Pāli: Mārassa
vasaṃ gacchanti, chúng nó đi theo quyền lực của ma.
[47].
Phật Quang, kinh 134.
[48].
Tức là, chiếu theo kinh 131 và các kinh
tiếp theo được liệt kê ở trên, các kinh tiếp theo kinh 132 này có nội
dung tương phản. Nghĩa là, tiếp theo kinh 131 là kinh “Tập trước”, thì
tiếp theo kinh 132 ở đây là “Bất tập trước” cho đến, “Thổ” và tương
phản là “Bất thổ”.
[49].
Quốc Dịch, Tụng 1, “3. Tương ưng Kiến”.
Ấn Thuận xếp vào Tụng 7, “35. Tương ưng kiến,” tổng thể có chín mươi
ba kinh, trong đây chỉ có sáu kinh có nội dung. Tương đương Pāli, S.
24. Diṭṭhisamyuttam, Roman 3. 201. Pāli, S. 24. 2. Etaṃ mamaṃ (cái này
là của tôi).
[50].
Pāli: kismiṃ nu kho
bhikkhave sati kiṃ upādāya kiṃ abhinivissa evaṃ diṭṭhi uajjati: etaṃ
mama eso’ham asmi eso me attā ti, Do cái gì đang hiện hữu, do
chấp thủ cái gì, do tham luyến cái gì, mà khởi lên quan điểm này: “Cái
này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
[51].
Kiến văn giác thức cầu đắc tùy ức
見聞覺識求得隨憶.
Pāli: diṭṭham sutam mutam viññatam tattam
anuvicaritam, cái được thấy, cái được nghe, cái được cảm nhận,
cái được nhận thức, cái sở đắc, cái sở cầu, cái được nhớ nghĩ.
[52].
Lục kiến xứ
六見處,
sáu căn cứ để chấp ngã.
[53].
Phật Quang, kinh 136.
[54].
Xem cht.52, kinh 133 trên.
[55].
Xem cht.52, kinh 133 trên.
[56].
Phật Quang, kinh 138.
[57].
Xem cht.50 kinh 133 trên.
[58].
Xem cht.51, kinh 133 trên.
[59].
Xem cht.52, kinh 133 trên.