TẠP A-HÀM QUYỂN 38
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Tôn giả Thiện Sanh[2]
vừa mới cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chánh tín xuất gia học đạo, sống
không nhà; đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên.
Khi ấy Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo, nên biết thiện nam tử Thiện Sanh
này có hai chỗ đoan nghiêm[3]:
Một là cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chánh tín, xuất gia học đạo, sống
không nhà; hai là đã tận trừ các hữu lậu, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát, hiện tại tự biết tác chứng[4]:
‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, tự
biết không còn tái sanh đời sau nữa.’”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Tịch tĩnh,
sạch các lậu,
Tỳ-kheo trang nghiêm
tốt;
Ly dục, đoạn các kết,
Không tái sanh,
Niết-bàn.
Giữ thân sau cùng này,
Hàng phục
giặc ma oán.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Tỳ-kheo[6]
hình tướng xấu xí khó coi, bị các Tỳ-kheo khinh mạn, đến chỗ Phật. Khi ấy
bốn chúng đang vây quanh bên Thế Tôn, thấy Tỳ-kheo này đến, tất cả đều có
ý khinh mạn, liền nói với nhau rằng: “Tỳ-kheo đang đến kia là ai, mà hình
tướng xấu xí, khó coi, bị mọi người khinh mạn vậy?”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của các
Tỳ-kheo nên bảo các Tỳ-kheo:
“Các ông có thấy Tỳ-kheo đang đến, hình tướng thô
xấu, khó coi kia, bị mọi người khinh mạn không?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Vâng, chúng con đã thấy vậy.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đối với Tỳ-kheo này, các ông chớ có khởi ý tưởng
kinh mạn. Vì sao? Vì Tỳ-kheo này đã tận trừ các lậu, những việc cần làm đã
làm xong, đã lìa các gánh nặng, đã đoạn tận các hữu kết, chánh trí, tâm
thiện giải thoát. Này các Tỳ-kheo, các ông chớ xét đoán lầm người, chỉ có
Như Lai mới có khả năng xét đoán người.”
Vị Tỳ-kheo này đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật
rồi ngồi lui qua một bên.
Bấy giờ Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:
“Các ông có thấy Tỳ-kheo này cúi đầu đảnh lễ rồi
ngồi lui qua một bên không?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Vâng, chúng con đã thấy.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đối với Tỳ-kheo này, các ông chớ có ý khinh mạn,...
cho đến các ông chớ xét đoán lầm người, chỉ có Như Lai mới có khả năng
biết được người.”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Chim bay
cùng thú chạy,
Tất cả sợ sư
tử.
Sư tử vua loài
thú,
Không có loài
nào bằng.
Cũng vậy,
người trí tuệ,
Tuy nhỏ nhưng
mà lớn.
Chớ chấp thân
tướng họ,
Mà sanh tâm
khinh mạn.
Nào cần thân to lớn,
Thịt nhiều không trí
tuệ.
Trí tuệ hiền thắng này,
Chính là bậc Thượng sĩ.
Ly dục, đoạn các kết,
Không tái sanh,
Niết-bàn.
Giữ thân sau cùng này,
Hàng phục
các ma quân.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, tại
thành Vương xá. Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa[8]
có được lợi dưỡng từ A-xà-thế[9]
con bà Tỳ-đề-hy, vua nước Ma-kiệt-đà. Hằng ngày cùng đoàn thị tùng với năm
trăm cỗ xe đến chỗ Đề-bà-đạt-đa; hằng ngày đem năm trăm chõ đồ ăn cúng
dường Đề-bà-đạt-đa. Đề-bà-đạt-đa dẫn năm trăm người thành nhóm riêng[10]
nhận sự cúng dường này.
Lúc ấy có nhiều Tỳ-kheo đắp y, ôm bát vào thành
Vương xá khất thực, nghe Đề-bà-đạt-đa có những lợi dưỡng như vậy,...
cho đến nhóm riêng năm trăm người hưởng thụ sự cúng dường này. Khất
thực xong, trở về tinh xá cất y bát, rửa chân xong đến chỗ Phật, đảnh lễ
dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, sáng sớm chúng con đắp y, ôm bát vào
thành Vương xá khất thực, nghe Đề-bà-đạt-đa có lợi dưỡng như vậy,...
cho đến dẫn nhóm riêng năm trăm người hưởng thọ sự cúng dường này.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Các ông chớ nói Đề-bà-đạt-đa đang được lợi dưỡng.
Vì sao? Vì Đề-bà-đạt-đa này, nếu hưởng thọ lợi dưỡng riêng thì đời này tự
hoại và đời sau cũng bị hoại. Ví như cây chuối, lau, tre sanh quả liền
chết, năm sau cũng hư hoại. Cũng lại như vậy, Đề-bà-đạt-đa, nếu thọ nhận
sự cúng dường này, thì đời này bị hoại, đời sau cũng bị hoại. Thí như con
la[11]
mang thai thì chết; cũng như vậy Đề-bà-đạt-đa, nếu thọ nhận các lợi dưỡng
thì đời này bị hoại, đời sau cũng bị hoại. Đề-bà-đạt-đa ngu si kia, sẽ tùy
theo thời gian nhiều ít hưởng thụ lợi dưỡng này, mà phải lâu dài chịu khổ,
không lợi ích. Cho nên, các Tỳ-kheo, nên học như vầy: ‘Dù có lợi dưỡng
đến, tôi cũng không sanh tâm nhiễm trước.’”
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Chuối sanh
quả liền chết,
Lau tre cũng như vậy.
La mang thai thì chết;
Người vì tham mà chết.
Thường làm hạnh phi
nghĩa,
Biết nhiều không khỏi
ngu;
Pháp lành ngày tổn giảm,
Cành khô,
rễ cũng tàn.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, nước Xá-vệ có Thủ Tỳ-kheo[13]
là người dòng họ Thích, mạng chung tại nước Xá-vệ.
Lúc ấy, sáng sớm có nhiều Tỳ-kheo đắp y, ôm bát vào
thành Xá-vệ khất thực, nghe Thủ Tỳ-kheo họ Thích mạng chung ở nước Xá-vệ.
Nghe xong vào thành Xá-vệ khất thực trở về cất y bát, rửa chân xong, đến
chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, sáng sớm hôm nay các Tỳ-kheo đắp y,
ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, nghe Thủ Tỳ-kheo dòng họ Thích mạng
chung ở nước Xá-vệ. Thế nào, bạch Thế Tôn, Thủ Tỳ-kheo mạng chung sẽ sanh
về nơi nào? Thọ sanh thế nào? Đời sau ra sao?”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Thủ Tỳ-kheo này thành tựu ba pháp bất thiện, nên
khi mạng chung sẽ sanh vào địa ngục, đường ác. Những gì là ba pháp bất
thiện? Là tham dục, sân nhuế và ngu si. Ba pháp bất thiện này trói buộc
tâm. Thủ Tỳ-kheo dòng họ Thích sẽ sanh vào địa ngục, đường ác.”
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Tham dục,
sân nhuế, si,
Trói buộc tâm
con người;
Phát từ trong, tự hại.
Như lau, tre ra hoa.
Tâm không tham, nhuế,
si,
Đó gọi là sáng suốt;
Phát từ trong, không
hại,
Đó gọi là thắng xuất.
Cho nên phải lìa tham,
Tăm tối si, sân nhuế;
Tỳ-kheo trí tuệ sáng,
Khổ tận,
Bát-niết-bàn.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Như Thủ Tỳ-kheo, kinh Nan-đà cũng nói như vậy.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Nan-đà con Di mẫu của Phật, thích
mặc áo nhuộm, chải chuốt bóng láng, mang giữ bát tốt, thích bỡn cợt, vừa
đi vừa cười đùa. Lúc ấy có nhiều Tỳ-kheo đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân
Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Nan-đà là con Di mẫu của
Phật[15],
thích mặc áo nhuộm, chải chuốt bóng láng, mang giữ bát tốt, thích bỡn cợt,
vừa đi vừa cười đùa.”
Bấy giờ Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:
“Ông đến chỗ Tỳ-kheo Nan-đà nói Nan-đà rằng: ‘Đại
Sư cho gọi ngươi.’”
Tỳ-kheo kia vâng lời Thế Tôn dạy đến nói với
Nan-đà:
“Thế Tôn cho gọi ông.”
Nan-đà nghe xong liền đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới
chân Phật, ngồi lui qua một bên. Phật bảo Nan-đà:
“Có thật ngươi thích mặc áo nhuộm, chải chuốt bóng
láng, mang giữ bát tốt, thích bỡn cợt, vừa đi vừa cười đùa không?”
Nan-đà bạch Phật:
“Thật vậy, bạch Thế Tôn!”
Phật bảo Nan-đà:
“Ngươi là con Di mẫu của Phật, dòng quý tộc xuất
gia, không nên mặc y phục đẹp, chải chuốt bóng láng, mang giữ bát tốt,
thích bỡn cợt, vừa đi vừa cười đùa. Ngươi nên tự nghĩ như vầy: ‘Ta là con
bà Di mẫu của Phật, dòng quý tộc xuất gia, nên trú ở a-lan-nhã, đi khất
thực, mặc áo phấn tảo, thường nên khen ngợi sự mặc áo phấn tảo, ưa ở chỗ
núi, khe, không tham luyến ái dục.”
Sau khi vâng lời Phật dạy, Nan-đà trú ở a-lan-nhã,
đi khất thực, mặc áo phấn tảo, thường nên khen ngợi sự mặc áo phấn tảo, ưa
ở chỗ núi, khe, không tham luyến ái dục.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Nan-đà,
Ta muốn ngươi,
Tu tập a-lan-nhã;
Đi khất thực từng nhà,
Thân mặc áo phấn tảo.
Thích ở chỗ núi khe,
Không tham
luyến ngũ dục!
Phật nói kinh này xong, Tôn giả
Nan-đà nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Đê-sa[17]
tự nghĩ: “Ta là anh em con cô của Thế Tôn, nên không cần phải cung kính,
không cần quan tâm cấp bậc, cũng cần phải sợ nễ, không chịu để can gián.”
Lúc ấy có nhiều Tỳ-kheo đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi lui
qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Đê-sa tự nghĩ mình là anh em
con cô của Thế Tôn nên không cần cung kính, không cần quan tâm cấp bậc,
cũng không cần sợ nễ, không chịu để can gián.”
Bấy giờ Thế Tôn bảo một vị Tỳ-kheo:
“Ông hãy đến chỗ Tỳ-kheo Đê-sa nói rằng: ‘Đại Sư
cho gọi ngươi.’”
Lúc ấy Tỳ-kheo kia vâng lời Phật dạy đến chỗ
Tỳ-kheo Đê-sa nói:
“Thế Tôn cho gọi ông.”
Tỳ-kheo Đê-sa liền đi đến chỗ phật, cúi đầu lễ Phật
và lui ngồi một bên. Phật bảo Đê-sa:
“Có thật ông nghĩ rằng: ‘Ta là anh em con cô của
Thế Tôn nên không cần cung kính, không cần dè dặt, không phải sợ nễ, không
chịu để can gián’ chăng?” Tỳ-kheo Đê-sa bạch Phật:
“Thật vậy, bạch Thế Tôn!”
Phật bảo Tỳ-kheo Đề-sa:
“Ông không nên nghĩ thế. Ông phải nghĩ rằng: ‘Ta là
anh em con cô của Thế Tôn nên phải cung kính, sợ nễ, nhẫn chịu sự can
gián.’”
Lúc ấy Thế Tôn liền nói kệ:
Lành thay,
ngươi Đê-sa!
Lìa sân nhuế
là tốt;
Chớ sanh tâm
sân hận.
Người sân giận
không tốt.
Nếu hay lìa
sân mạn,
Tu hành tâm
khiêm hạ;
Sau đó ở nơi Ta,
Tu tập các
phạm hạnh.
Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo
Đê-sa nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Tỳ-xá-khư Bát-xà-lê Tử[19]
tụ họp ở nhà cúng dường[20],
thuyết pháp cho số đông các Tỳ-kheo, ngôn từ hoàn hảo, giọng tốt trong
trẻo cú vị rõ ràng, chính xác, lời nói phù hợp với trí tuệ; thính giả
thích nghe, lời nói lưu loát, hiển bày ý nghĩa sâu xa, khiến các Tỳ-kheo
nhất tâm lắng nghe.
Khi ấy Thế Tôn đang nhập chánh thọ ban ngày[21],
với thiên nhĩ thanh tịnh hơn tai người thường, nghe tiếng thuyết pháp,
Ngài xuất định, đi đến giảng đường, ngồi trước đại chúng và nói với
Tỳ-kheo Tỳ-xá-khư Bát-xà-lê Tử:
“Lành thay, lành thay, Tỳ-xá-khư! Ông có thể ở nơi
nhà cúng dường này mà thuyết pháp cho các Tỳ-kheo, với ngôn từ hoàn hảo,
cho đến, hiển hiện ý nghĩa sâu xa, khiến các Tỳ-kheo chuyên tinh, kính
trọng. Ông hãy thường xuyên thuyết pháp như vậy cho các Tỳ-kheo, khiến các
Tỳ-kheo chuyên tinh kính trọng, nhất tâm ưa nghe, sẽ được ích lợi lâu dài,
sống an lạc.”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói bài kệ:
Nếu không có
thuyết pháp,
Khó phân rõ
ngu, trí.
“Đây ngu! Đây
trí tuệ!”
Không do đâu hiển hiện.
Khéo nói pháp tươi mát,
Nhân thuyết trí rõ ràng.
Thuyết pháp là sáng
chiếu,
Sáng chói
cờ Đại tiên.
Phật nói kinh này xong; Tỳ-xá-khư
Bát-xà-lê Tử nghe những gì Phât dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, đảnh lễ rồi lui.
*
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng
cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có nhiều chúng Tỳ-kheo ở nhà cúng
dường, tụ tập cùng nhau may y. Lúc đó có một Tỳ-kheo trẻ tuổi, xuất gia
chưa bao lâu, mới vào Pháp luật, không muốn phụ giúp các Tỳ-kheo may y.
Bấy giờ các Tỳ-kheo đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh
lễ Phật, lui ngồi một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, ở nhà cúng dường, các Tỳ-kheo tụ tập
may y. Có một Tỳ-kheo trẻ tuổi, xuất gia chưa bao lâu, mới vào Pháp luật,
không muốn phụ giúp các Tỳ-kheo may y.”
Bấy giờ Đức Phật hỏi vị Tỳ-kheo trẻ ấy:
“Có thật ông không muốn giúp đỡ các Tỳ-kheo may y
chăng?”
Tỳ-kheo trẻ kia bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, tùy theo khả năng của con mà con phụ
giúp.”
Thế Tôn khi đó biết được tâm niệm của Tỳ-kheo trẻ
tuổi, mới bảo các Tỳ-kheo:
“Các ông chớ nói với[23]
Tỳ-kheo trẻ này. Vì sao? Vì Tỳ-kheo này được bốn pháp tăng tâm[24],
đang hoàn toàn an trú trong hiện pháp lạc, chẳng phải do cố gắng mà được.
Tỳ-kheo ấy theo bản tâm của mình, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, xuất gia
học đạo, tăng tiến tu học, hiện pháp tự biết tác chứng: ‘Ta, sự sanh đã
dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn
tái sanh đời sau nữa.’”
Khi ấy Thế Tôn liền nói kệ:
Kém nỗ lực,
đức mỏng,
Trí tuệ ít:
không thể
Hướng thẳng
đến Niết-bàn,
Thoát khỏi
gông phiền não.
Hiền nhân trẻ
tuổi này,
Sớm được chỗ
thượng sĩ;
Lìa dục tâm
giải thoát,
Niết-bàn dứt
tái sanh.
Giữ thân tối
hậu này,
Hàng phục
các ma quân.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Tỳ-kheo tên Thượng Tọa[26],
sống một mình tại một nơi, cũng thường hay khen ngợi người sống một mình,
đi khất thực một mình, khất thực xong trở về một mình và một mình ngồi
thiền tư.
Bấy giờ, trong chúng có nhiều Tỳ-kheo đi đến chỗ
Phật, cúi đầu đảnh lễ, rồi lui ngồi một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, có Tôn giả tên là Thượng Tọa sống
một mình, cũng thường hay khen ngợi người sống một mình, đi khất thực một
mình, khất thực xong trở về một mình và một mình ngồi thiền tư.”
Khi đó Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:
“Ông hãy đến chỗ Tỳ-kheo Thượng Tọa nói rằng: ‘Đại
Sư cho gọi thầy.’”
Tỳ-kheo ấy vâng lời Phật dạy, đến nói lời như trên
với Tỳ-kheo Thượng Tọa, Tỳ-kheo Thượng Tọa vâng lời đi đến chỗ Phật, cúi
đầu lễ Phật, rồi lui ngồi một bên. Thế Tôn bảo Tỳ-kheo Thượng Tọa:
“Ông có thật sống một mình nơi chỗ vắng, khen ngợi
người sống một mình, đi khất thực một mình, ra khỏi làng một mình, ngồi
thiền tư một mình chăng?”
Tỳ-kheo Thượng Tọa bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, thật như vậy.”
Phật bảo Tỳ-kheo Thượng Tọa:
“Này Tỳ-kheo, ông như thế nào sống một mình, khen
ngợi người sống một mình, một mình đi khất thực, một mình trở về chỗ ở và
một mình ngồi thiền tư?”
Tỳ-kheo Thượng Tọa bạch Phật:
“Con chỉ ở một mình nơi vắng vẻ, khen ngợi người
sống một mình, đi khất thực một mình, ra khỏi làng một mình, ngồi thiền tư
một mình.”
Phật bảo Tỳ-kheo Thượng Tọa:
“Ông là kẻ sống một mình, Ta không nói là chẳng
phải sống một mình. Nhưng lại có lối sống một mình thắng diệu hơn. Sao gọi
là lối sống một mình thắng diệu? Đó là Tỳ-kheo phía trước thì khô cằn,
phía sau thì diệt tận, ở giữa thì không tham hỷ[27].
Đó là Bà-la-môn tâm không còn do dự, đã xả ưu hối, lìa các hữu ái, đoạn
các kết sử. Đây gọi là sống một mình không có lối sống nào thắng diệu hơn
nữa.”
Khi ấy Phật nói kệ:
Chiếu sáng
khắp tất cả,
Biết khắp các thế gian;
Chẳng chấp tất cả pháp,
Lìa hết tất cả ái.
Người này sống an lạc,
Ta nói là
độc trụ.
Phật nói kinh này xong, Tôn giả
Thượng Tọa nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ làm lễ cáo từ.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Tôn giả Tăng-ca-lam[29]
du hành nhân gian ở Câu-tát-la, tới nước Xá-vệ, rừng cây Kỳ-đà, trong vườn
Cấp cô độc. Tỳ-kheo Tăng-ca-lam kia có vợ cũ đang ở trong nước Xá-vệ, nghe
tin Tỳ-kheo Tăng-ca-lam du hành trong nhân gian từ Câu-tát-la đến nước
Xá-vệ, trong rừng Kỳ-đà, vườn Cấp cô độc. Nghe vậy, liền mặc y phục đẹp,
trang điểm hoa anh lạc, ôm con đi thẳng đến Kỳ-hoàn, đến trước phòng
Tỳ-kheo Tăng-ca-lam.
Trong lúc Tôn giả Tăng-ca-lam ra khỏi phòng đi kinh
hành ngoài đất trống, người vợ cũ kia tiến đến trước mặt Tôn giả và nói:
“Đứa bé này còn nhỏ quá, anh bỏ con thơ đi tu, ai
sẽ nuôi dưỡng nó?”
Tỳ-kheo Tăng-ca-lam không nói chuyện với nàng.
Người vợ ba lần nói như vậy, Tỳ-kheo cũng không nói gì. Người vợ lại nói:
“Tôi đã nói cho anh biết ba lần như vậy mà anh
chẳng nói với tôi, chẳng ngó ngàng tới, bây giờ tôi sẽ bỏ đứa bé này.”
Người vợ liền bỏ đứa nhỏ ngay đầu đường kinh hành
mà đi và nói:
“Này Sa-môn, đây là con của ông! Ông hãy tự nuôi
nấng. Nay tôi bỏ đi!”
Tôn già Tăng-ca-lam cũng chẳng nhìn đến đứa bé.
Người vợ ấy lại nói:
“Sa-môn này chẳng để ý gì đến đứa nhỏ. Chắc có lẽ
ông đã được chỗ khó được của bậc Tiên nhân. Lành thay! Sa-môn chắc hẳn đã
được giải thoát.”
Thiếu phụ không toại nguyện đành ôm con đi.
Bấy giờ, Thế Tôn đang nhập chánh thọ ban ngày, với
thiên nhĩ siêu việt hơn người thường, Ngài nghe được những lời của người
vợ cũ của Tôn giả Tăng-ca-lam, liền nói kệ:
Việc đến
chẳng hoan hỷ,
Đi cũng chẳng lo buồn;
Với thế gian hòa hợp,
Giải thoát chẳng nhiễm
trước.
Ta nói Tỳ-kheo kia,
Chân thật Bà-la-môn;
Việc đến chẳng hoan hỷ,
Đi cũng chẳng lo buồn.
Không nhiễm cũng không
ưu,
Hai tâm đều vắng lặng;
Ta nói Tỳ-kheo này,
Là chân
Bà-la-môn.
Phật nói kinh này xong, Tôn giả
Tăng-già-lam nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ làm lễ rồi đi.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây
Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả A-nan một mình ở chỗ vắng tự suy
nghĩ: “Có ba thứ mùi hương chỉ bay theo chiều gió, không thể bay theo
ngược chiều gió. Những gì là ba? Đó là mùi hương rễ cây, mùi hương thân
cây và mùi hương của hoa. Hoặc lại có mùi hương nào bay theo chiều gió,
cũng bay theo ngược gió, cũng bay vừa thuận gió ngược gió chăng?”
Suy nghĩ như thế, buổi chiều hôm đó sau khi từ
thiền tịnh dậy, A-nan đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ Phật và lui đứng
một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con một mình ở chỗ vắng tự nghĩ
thầm: ‘Có ba thứ mùi hương chỉ bay theo chiều gió, không thể bay theo
ngược gió. Những gì là ba? Đó là mùi hương rễ cây, mùi hương thân cây, mùi
hương của hoa. Hoặc có mùi hương nào bay theo chiều gió, cũng bay theo
ngược gió, cũng bay vừa thuận gió vừa ngược gió chăng?’”
Phật bảo Tôn giả A-nan:
“Đúng thế! Đúng thế! Có ba loại mùi hương chỉ bay
theo chiều gió, không thể bay theo ngược gió. Đó là hương thơm rễ cây,
hương thơm của cây, hương thơm của hoa. Này A-nan, cũng có mùi hương bay
theo chiều gió, bay theo ngược gió và cũng bay theo thuận gió ngược gió.
Này A-nan, hương bay theo chiều gió, bay theo ngược gió và cũng bay theo
thuận gió ngược gió, đó là: Có thiện nam tử hay người thiện nữ nào sống ở
thành ấp, tụ lạc, thành tựu pháp chân thật, suốt đời không sát sanh, không
trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Người thiện nam,
người thiện nữ như vậy đều được người lành trong tám phương, cùng phương
trên, phương dưới, thảy đều tán thán rằng: ‘Ở phương kia, làng kia, có
người thiện nam, người thiện nữ trì giới thanh tịnh, thành tựu pháp chân
thật, suốt đời không sát sanh... cho đến không uống rượu.’ Này
A-nan, đây gọi là thứ hương hoa bay theo chiều gió, bay theo ngược chiều
gió và cũng bay theo thuận gió ngược gió.”
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Chẳng phải
hương cành, hoa,
Có thể bay
ngược gió.
Chỉ có hương
tịnh giới,
Của thiện nam, thiện nữ;
Ngược, thuận bay các
phương,
Không đâu không nghe
biết.
Đa-ca-la[31],
Chiên-đàn,
Ưu-bát-la, Mạt-lợi;
So sánh các mùi hương,
Giới hương là hơn hết.
Hương thơm như
Chiên-đàn,
Lan tỏa có giới hạn;
Chỉ có hương giới đức,
Xông ngát tận cõi trời.
Hương thơm của tịnh
giới,
Chánh thọ, chẳng phóng
dật;
Chánh trí và giải thoát,
Ma đạo không thể vào.
Đây là đạo an ổn,
Đạo này rất thanh tịnh;
Hướng thẳng diệu thiền
định,
Bứt dây
trói của ma.
Phật nói kinh này xong, Tôn giả
A-nan nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ làm lễ rồi đi.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hành trong nhân gian ở nước
Ma-kiệt-đề, cùng với một ngàn vị Tỳ-kheo. Xưa kia họ là những người xuất
gia bện tóc[33],
nay đều đắc quả A-la-hán, các lậu đã tận, việc làm đã xong, xả bỏ các gánh
nặng, chóng được tự lợi, sạch các hữu kết, chánh trí thiện giải thoát.
Phật cùng các Tỳ-kheo đi đến tại rừng Trượng lâm, tháp Thiện kiến[34].
Bình-sa[35]
vua nước Ma-kiệt-đề, nghe Thế Tôn du hành trong nhân gian tại nước
Ma-kiệt-đề, đến trong rừng Trượng lâm, tháp Thiện kiến. Vua cùng với các
tiểu vương, quần thần và đoàn tùy tùng, xe cộ một muôn hai ngàn chiếc,
ngựa một muôn tám ngàn, người đi bộ theo đông vô số, các Bà-la-môn, gia
chủ trong nước Ma-kiệt-đề đều đi theo.
Nhà vua rời khỏi thành Vương xá đi đến chỗ Thế Tôn,
cung kính cúng dường. Tới đầu đường, vua xuống đi bộ. Lúc tiến vào đến cửa
trong, vua dẹp bỏ năm thứ nghi trượng, giở mão, dẹp bỏ lọng, quạt, dao
gươm, cởi giày da. Vua đến trước Phật, sửa lại y phục tề chỉnh, trật vai
áo bên phải, đảnh lễ Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng, tự xưng danh tánh và
bạch Phật:
“Thế Tôn, con là Bình-sa, vua nước Ma-kiệt-đề.”
Phật bảo Bình-sa vương:
“Đại vương, ngài là Bình-sa. Mời Đại vương an tọa.”
Bình-sa vương lại lễ dưới chân Phật, từ tốn ngồi
xuống một bên. Lúc bấy giờ Uất-bề-la Ca-diếp[36]
cũng đang ngồi tại đấy. Trong khi đó các gia chủ Bà-la-môn nghĩ rằng: “Có
phải Đại Sa-môn này theo Uất-bề-la Ca-diếp tu phạm hạnh hay là Uất-bề-la
Ca-diếp theo Đại Sa-môn tu phạm hạnh?”
Thế Tôn biết được tâm niệm của các gia chủ, Ngài
liền nói kệ hỏi:
Uất-bề-la
Ca-diếp,
Nơi đây thấy
lợi gì,
Bỏ sự phụng
thờ xưa,
Thờ lửa và các
việc?
Nay hãy nói
nghĩa kia.
Nguyên do
bỏ thờ lửa.
Uất-bề-la Ca-diếp nói kệ bạch Phật:
Tiền tài
thức ăn ngon,
Nữ sắc, quả
ngũ dục;
Quán sát vị
lai thọ,
Đều vô cùng
nhơ nhớp.
Thế nên đều
ném bỏ,
Sự thờ lửa
trước kia.
Thế Tôn lại nói kệ hỏi:
Ông chẳng
đắm thế gian,
Năm dục tiền,
vị, sắc...;
Sao lại bỏ
trời, người?
Ca-diếp,
tùy nghĩa nói.
Ca-diếp lại nói kệ đáp Thế Tôn:
Thấy đạo lìa
hữu dư,
Lối Vô dư tịch
diệt,
Vô sở hữu, bất
trước,
Không đường
khác, đạo khác.
Thế nên đều
ném bỏ,
Lối tu thờ lửa
trước,
Đại hội[37]
đều thọ trì,
Phụng thờ
nước, hoặc lửa.
Ngu si chìm trong đó.
Chí cầu đạo giải thoát.
Mù, không mắt
trí tuệ,
Hướng sanh,
già, bệnh, chết.
Chẳng thấy con
đường chánh,
Trọn lìa nẻo
sanh tử.
Nay mới nhờ
Thế Tôn,
Được thấy đạo
vô vi,
Lực mà Đại
long nói,
Được qua bên
bờ kia.
Mâu-ni rộng
cứu giúp,
An úy vô lượng
chúng,
Nay mới biết
Cù-đàm,
Bậc siêu
xuất chân đế.
Đức
Phật lại nói kệ khen Ca-diếp:
Lành thay!
Này Ca-diếp,
Trước suy xét
phi ác,
Kế phân biệt
tìm cầu,
Mới đến
nơi tốt dẹp.
“Này Ca-diếp, ông nên có lòng an úy
tâm đồ chúng của ông.”
Khi ấy Uất-bề-la Ca-diếp liền nhập
chánh thọ, do sức thần túc, hướng về phương Đông, bay lên hư không, hiện
ra bốn thứ thần biến: đi, đứng, nằm, ngồi. Vào trong lửa tam-muọâi, toàn
thân rỗng sáng tỏa ra sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, pha lê, sắc hồng. Trên
thân ra nước, dưới thân ra lửa, trở lại thiêu đốt thân. Trên thân ra nước
để rưới nước lên thân. Hoặc trên thân ra lửa để đốt thân kia; dưới thân
tuôn nước để tưới ướt thân. Hiện bày các thứ thần thông biến hóa xong,
Ca-diếp cúi đầu lễ Phật và bạch:
“Bạch Thế Tôn, Phật là Thầy của
con, con là đệ tử.”
Phật bảo Ca-diếp:
“Ta là Thầy ông. Ông là đệ tử. Ông
hãy bình an ngồi xuống đi.”
Tôn giả Uất-bề-la Ca-diếp ngồi lại
chỗ cũ. Các gia chủ Bà-la-môn xứ Ma-kiệt-đề đều nghĩ thầm: “Uất-bề-la
Ca-diếp đã quyết định ở nơi Đại Sa-môn tu hành phạm hạnh.”
Phật nói kinh này xong, Bình-sa vua
xứ Ma-kiệt-đề, cùng các gia chủ Bà-la-môn nghe những gì Phật dạy, đều hoan
hỷ, tùy hỷ, làm lễ rồi cáo từ.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật trú tại thành Vương
xá, trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, có Đà-phiêu Ma-la Tử[39],
quê cũ ở thành Vương xá, lo việc Tăng chúng, phân chia thức ăn uống và các
vật dụng: giường nằm, chỗ ngồi,... và xếp đặt phiên thứ, sai thỉnh rất chu
đáo. Lúc đó, có Tỳ-kheo Từ Địa[40]
trải qua ba lần nhận thức ăn thô dở. Trong khi ăn lòng cảm thấy khó chịu,
cay đắng nghĩ thầm: “Quái lạ thay! Khổ thay! Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử
chắc cố tình đem thức ăn dở để là xúc não ta, khiến ta khi ăn cảm thấy cực
khổ. Ta phải làm sao gây bất lợi cho y mới được?”
Tỳ-kheo Từ Địa có một cô em gái là
Tỳ-kheo-ni tên Mật-đa-la[41]
đang ở trong chúng Tỳ-kheo-ni nơi vườn nhà vua thuộc thành Vương xá.
Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la đi đến chỗ Tỳ-kheo Từ Địa, cúi đầu lễ chân Từ Địa rồi
đứng một bên. Tỳ-kheo Từ Địa không nhìn đến cũng không mở lời.
Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la nói với
Tỳ-kheo Từ Địa:
“A-lê[42],
vì sao không ngó ngàng và chẳng nói chuyện với tôi?”
Tỳ-kheo Từ Địa nói:
“Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử nhiều
lần đem thức ăn thô dở để làm xúc não tôi, khiến tôi khi ăn cảm thấy cực
khổ. Còn cô thì cứ bỏ mặc tôi.”
Tỳ-kheo-ni nói:
“Làm gì bây giờ?”
Tỳ-kheo Từ Địa nói:
“Cô hãy đến Thế Tôn bạch như vầy:
‘Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử là kẻ phi pháp, không ra gì, đã
cùng con làm điều trái phạm, phạm tội Ba-la-di’. Tôi sẽ làm chứng và nói:
‘Bạch Thế Tôn, đúng như lời em gái con đã nói’.”
Tỳ-kheo-ni nói:
“A-lê, làm sao tôi lại đem tội
Ba-la-di để vu báng cho Tỳ-kheo phạm hạnh?”
Tỳ-kheo Từ Địa bảo:
“Nếu cô không làm như thế, tôi và
cô từ nay chấm dứt tình anh em. Cô đừng lui tới đây để chuyện trò, thăm
hỏi nhau nữa.”
Tỳ-kheo-ni im lặng một hồi, suy
nghĩ rồi nói:
“A-lê khiến tôi làm như thế, tôi sẽ
vâng theo lời dạy.”
Tỳ-kheo Từ Địa bảo:
“Cô hãy đợi tôi đi đến Thế Tôn
trước, cô sẽ đi theo sau.”
Tỳ-kheo Từ Địa đi đến chỗ Phật, cúi
đầu đảnh lễ rồi lui đứng một bên. Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la đi theo sau, đảnh
lễ Phật rồi lui ngồi một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, một việc không đẹp
thay! Thật phi lý thay[43]!
Đà-phiêu Ma-la Tử đã làm điều phi phạm hạnh với con, phạm tội Ba-la-di!”
Tỳ-kheo Từ Địa lại bạch Phật:
“Như lời nói của em gái con, trước
đây con đã biết.”
Bấy giờ, Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử
đang ở giữa đại chúng.
Khi ấy Thế Tôn bảo Tỳ-kheo
Đà-phiêu-ma-la Tử:
“Ông có nghe lời nói này không?”
Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử bạch:
“Bạch Thế Tôn, con đã nghe.”
Phật bảo Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử:
“Hôm nay ông như thế nào?”
Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử bạch
Phật:
“Như Thế Tôn đã biết! Như Thiện Thệ
đã biết!”
Phật bảo Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử:
“Ông nói như Thế Tôn đã biết, nay
chẳng hợp thời. Bây giờ ông có nhớ thì nói nhớ, không nhớ thì nói không
nhớ.”
Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử bạch:
“Con không tự nhớ.”
Trong lúc đó Tôn giả La-hầu-la đang
đứng phía sau cầm quạt hầu Phật, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, không đẹp thay! Thật
phi lý thay! Tỳ-kheo-ni này nói: ‘Tôn giả Đà-phiêu Ma-la Tử cùng với con
làm điều phi phạm hạnh’. Tỳ-kheo Từ Địa lại nói: ‘Bạch Thế Tôn, đúng thế!
Trước đây con đã biết như em con đã nói.’”
Phật bảo La-hầu-la:
“Bây giờ, Ta hỏi La-hầu-la, tùy ý
ngươi đáp lời Ta. Nếu Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la đến nói với Ta rằng: ‘Thật
không đẹp thay! Thật phi lý thay! La-hầu-la cùng con làm điều phi phạm
hạnh, phạm tội Ba-la-di.’ Tỳ-kheo Từ Địa lại bạch với Ta: ‘Thưa đúng như
vậy, trước đây con đã biết, như lời em gái con nói.’ Ngươi sẽ làm thế
nào?”
La-hầu-la bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, nếu con nhớ con sẽ
nói nhớ, nếu không nhớ sẽ nói không nhớ.”
Phật bảo La-hầu-la:
“Này người ngu si, ngươi còn nói
được những lời này, huống chi Đà-phiêu Ma-la Tử là Tỳ-kheo thanh tịnh, cớ
sao không nói được những lời như vậy?”
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Đối với Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử,
hãy để ức niệm[44].
Với Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la, hãy diệt tránh bằng tự xác nhận[45].
Với Tỳ-kheo Từ Địa, Tăng sẽ tích cực giáo giới can gián và khiển trách:
‘Ngươi thấy gì? Thấy ở đâu? Do nhân duyên gì đến để thấy?’”
Thế Tôn dạy như vậy xong, Ngài rời
chỗ ngồi đứng lên, vào phòng tọa thiền. Khi ấy các Tỳ-kheo để cho Tỳ-kheo
Đà-phiêu tự ức niệm. Với Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la, cho pháp diệt tránh bằng tự
nhận. Với Tỳ-kheo Từ Địa, Tăng tích cực giáo giới can gián và khiển trách:
‘Ngươi thấy gì? Thấy ở đâu? Do nhân duyên gì đến để thấy?’ Trong khi can
ngăn như thế, Tỳ-kheo Từ Địa nói rằng: “Đà-phiêu Ma-la Tử không làm chuyện
phi phạm hạnh; không phạm Ba-la-di. Đà-phiêu Ma-la Tử đã ba phen cho tôi
thức ăn tệ, đáng sợ, khiến tôi khi ăn cảm thấy cực khổ, nên tôi đối với
Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử mà có sự thiên vị, giận hờn, ngu si, sợ hãi, nên
cố ý nói như thế. Nhưng thật sự Đà-phiêu Ma-la Tử là người thanh tịnh, vô
tội.”
Chiều hôm ấy, Thế Tôn từ thiền định
ra, đến trước đại chúng trải tòa, ngồi xuống.
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, chúng con đã cho
Tỳ-kheo Đà-phiêu Ma-la Tử tự ức niệm. Với Tỳ-kheo-ni Mật-đa-la cho pháp
diệt tránh bằng tự nhận. Với Tỳ-kheo Từ Địa thì tích cực giáo giới can
gián. Tỳ-kheo ấy nói rằng: ‘Đà-phiêu Ma-la Tử thanh tịnh vô tội’.”
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Vì sao ngu si, chỉ vì việc ăn
uống, mà cố ý vọng ngữ?”
Lúc ấy, Thế Tôn liền nói kệ:
Nếu hay xả
một pháp,
Biết mà cố
vọng ngữ;
Chẳng kể gì
đời sau,
Điều ác nào
chẳng làm.
Thà ăn viên
sắt nóng,
Như lửa than
cháy hừng;
Không vì phạm
giới cấm,
Ăn của thí
cho Tăng.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn trúc
Ca-la-đà, tại thành Vương xá. Bấy giờ, Tôn giả Đà-phiêu Ma-la Tử đi đến
chỗ Phật, cúi đầu lễ Phật, rồi lui đứng một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con xin vào
Bát-niết-bàn ở trước Phật.”
Thế Tôn im lặng, Tôn giả ba lần
bạch như vậy. Phật bảo Đà-phiêu Ma-la Tử:
“Các pháp hành hữu vi đều như vậy
cả.”
Khi ấy, Tôn giả Đà-phiêu Ma-la Tử
liền ở trước Phật nhập tam-muội, bằng chánh thọ như vậy, hướng về phương
Đông, Tôn giả bay lên hư không hiện bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, nhập
vào tam-muội lửa, dưới thân phát ra lửa, cả thân rỗng sáng; ánh sáng chiếu
khắp các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, pha lê, hồng. Dưới thân ra lửa, trở
lại thiêu thân. Trên thân ra nước rưới ướt trên thân. Hoặc trên thân ra
lửa thiêu đốt thân, dưới thân ra nước rưới ướt trên thân. Khắp cả mười
phương hiện bày các sự biến hóa xong, Tôn giả liền ở trong hư không, trong
thân phát ra lửa tự thiêu thân vào Vô dư Niết-bàn, tiêu tận, tịch diệt,
khiến không còn sót một mảy bụi, ví như trong hư không thắp cây đèn, dầu,
tim đều hết. Đà-phiêu Ma-la Tử ở trong hư không đã nhập diệt, thân tâm đều
bặt hết cũng như thế.
Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:
Ví như đốt
hòn sắt,
Lửa bừng sáng
rực rỡ;
Sức nóng dần
dần tắt,
Nào biết đi về
đâu?
Cũng thế, sự
giải thoát,
Vượt bùn lầy
phiền não;
Đã cắt đứt các
dòng,
Nào biết đi về
đâu?
Chóng đắc dấu
bất động,
Nhập Vô dư
Niết-bàn.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật trú tại nước
Ương-cù-đa-la[48]
du hành nhân gian. Khi đi qua trong rừng Đà-bà-xà-lê-ca[49],
Ngài gặp những người chăn bò, người chăn dê, người nhặt củi, cỏ và các
người làm việc khác. Họ trông thấy Thế Tôn đang đi trên đường, đều vội
vàng bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, chớ đi theo con
đường này. Phía trước có tên cướp Ương-cù-lợi-ma-la[50]
chuyên môn khủng bố người.”
Đức Phật nói với các người này:
“Ta không sợ.”
Nói xong, Ngài cứ theo đường mà đi.
Họ nói ba lần, Đức Phật vẫn cứ đi. Từ xa Phật trông thấy
Ương-cù-lợi-ma-la, tay cầm dao chạy thẳng đến. Thế Tôn dùng thần lực hiện
thân đi từ từ khiến cho Ương-cù-lợi-ma-la chạy như bay cũng không kịp.
Chạy theo đến mệt đuối, Ương-cù-lợi-ma-la từ xa nói với Thế Tôn:
“Đứng lại, đứng lại, chớ đi!”
Thế Tôn vừa đi vừa đáp:
“Ta luôn dừng. Ngươi không tự dừng
đó thôi.”
Lúc ấy Ương-cù-lợi-ma-la nói kệ:
Sa-môn vẫn
rảo nhanh,
Lại nói ‘Ta
luôn dừng.’
Nay tôi mệt,
dừng nghỉ.
Sao nói
‘Ngươi chẳng dừng’?
Thế Tôn lại nói kệ đáp:
Ương-cù-lợi-ma-la,
Ta nói Ta
thường dừng:
Với tất cả
chúng sanh,
Đã dừng mọi
đao trượng.
Ông khủng bố
chúng sanh,
Nghiệp ác
không chịu dừng.
Với tất cả côn
trùng,
Ta dứt dùng
đao gậy.
Với côn trùng
bé nhỏ,
Ông bức bách
đe dọa;
Cố tạo nghiệp
hung ác,
Trọn chẳng lúc
nào thôi.
Ta đối tất cả
thần[51],
Dừng thôi mọi
đao, trượng.
Ông đối với
các thần,
Luôn làm khổ,
bức bách.
Tạo tác ác
nghiệp đen,
Đến nay không
dừng nghỉ.
Ta dừng nơi
pháp nghỉ,
Tất cả không
phóng dật.
Ông chẳng thấy
Bốn đế,
Nên chẳng
dừng buông lung.
Ương-cù-lợi-ma-la nói kệ bạch Phật:
Lâu mới thấy
Mâu-ni,
Nên theo đường
chạy đuổi;
Nay nghe lời
vi diệu,
Sẽ bỏ điều ác
xưa.
Nói ra như thế
rồi,
Liền buông bỏ
đao gậy;
Dập đầu dưới
chân Phật,
Xin cho con
xuất gia.
Phật đầy lòng
từ bi,
Đại Tiên tràn
thương xót;
Gọi Tỳ-kheo,
thiện lai!
Xuất gia
thọ cụ túc.
Ương-cù-lợi-ma-la sau khi xuất gia,
thường một mình ở chỗ vắng, chuyên tâm tư duy lý do khiến thiện gia nam tử
cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chánh tín xuất gia, học đạo, sống không
nhà, tinh tấn tu phạm hạnh, hiện tại tự biết tác chứng: ‘Ta, sự sanh đã
dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn
tái sanh đời sau nữa.’ Lúc ấy Ương-cù-lợi-ma-la đắc quả A-la-hán, giác
ngộ, giải thoát, hỷ lạc, Tôn giả liền nói kệ:
Vốn mang tên
‘Bất Hại’[52]
Mà lại sát hại
nhiều.
Nay được tên
‘Kiến Đế’,
Xa lìa sự tổn,
sát.
Thân không
giết, không hại,
Miệng ý cũng
như thế;
Nên biết ‘chân
bất sát’,
Chẳng bức bách
chúng sanh.
Rửa sạch tay
vấy máu,
Gọi là Ương
ma-la;
Trôi nổi giữa
dòng sâu,
Tam quy làm
dừng bặt.
Quy y Tam bảo
xong,
Xuất gia được
cụ túc;
Thành tựu được
tam minh,
Điều Phật dạy
đã làm.
Chăn trâu,
dùng gậy đánh,
Nài voi, dùng
móc sắt;
Chẳng dùng đến
gươm đao,
Thật huấn
luyện trời, người.
Dao bén nhờ đá
mài,
Tên thẳng nhờ
lửa ấm;
Chặt gậy nhờ
búa rìu,
Tự chế, nhờ
trí tuệ.
Nơi dòng đời
ân ái,
Chánh niệm mà
vượt ra.
Người tuổi trẻ
xuất gia,
Siêng tu lời
Phật dạy;
Sẽ soi sáng
thế gian,
Như mây tan
trăng hiện.
Người tuổi trẻ
xuất gia,
Siêng tu lời
Phật dạy;
Nơi dòng đời
ân ái,
Người trước
kia phóng dật,
Sau đó hay tự
kiểm;
Sẽ soi sáng
thế gian,
Như mây tan
trăng hiện.
Người trước
kia phóng dật,
Sau này hay tự
kiểm;
Chánh niệm mà
siêu xuất.
Nếu thoát các
nghiệp ác,
Chánh thiện
hay khiến diệt;
Sẽ soi sáng
thế gian,
Như mây tan
trăng hiện.
Trước người
tạo nghiệp ác,
Chánh niệm hay
khiến diệt;
Nơi dòng đời
ân ái,
Chánh niệm hay
siêu xuất.
Tôi đã làm
nghiệp ác,
Chắc hướng đến
đường ác;
Đã nhận lấy
báo ác,
Nợ trước vay
đã trả.
Nếu người oán
ghét tôi,
Được nghe
Chánh pháp này;
Được pháp nhãn
thanh tịnh,
Tôi tu hạnh
nhẫn nhục.
Chẳng còn khởi
tranh cãi,
Nhờ ân lực của
Phật;
Tôi hiền lành,
nhẫn nhục,
Cũng thường
khen ngợi nhẫn.
Tùy thời được
nghe pháp,
Nghe rồi
tu hành theo.
Phật nói kinh này xong,
Ương-cù-lợi-ma-la nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn trúc
Ca-la-đà, tại thành Vương xá. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo kia, lúc sáng sớm đi
ra bên bờ sông Tháp-bổ[54],
cởi y phục để trên bờ, xuống sông tắm rửa. Tắm xong, lên bờ, khoác sơ một
cái y đợi thân khô.
Khi ấy có một Thiên tử từ thân tỏa
ra ánh sáng, chiếu sáng bên sông Tháp-bổ, bảo Tỳ-kheo rằng:
“Ông trẻ tuổi xuất gia, tươi trắng,
tóc đen, đang ở vào lứa tuổi tráng thịnh đẹp đẽ. Đáng nên hưởng thụ ngũ
dục, trang nghiêm chuỗi ngọc, xức dầu thơm, đeo tràng hoa, tự vui sướng
với năm dục. Nhưng sao bây giờ lại trái với người thân, quay lưng với thế
tục, khiến họ phải khóc lóc biệt ly; cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chánh
tín xuất gia học đạo, sống không nhà? Sao lại bỏ cái vui hiện tiền mà tìm
cái lợi phi thời[55]?”
Tỳ-kheo đáp:
“Tôi không xả bỏ cái lạc hiện tại,
để tìm cầu cái lạc phi thời. Thật sự chính tôi đang xả bỏ cái lạc phi
thời, được lạc hiện tiền.”
Thiên tử hỏi Tỳ-kheo:
“Thế nào là xả bỏ cái lạc phi thời,
được lạc hiện tiền?”
Tỳ-kheo đáp:
“Như Thế Tôn nói, dục là phi thời[56],
vị ngọt ít mà khổ nhiều; ít lợi nhiều nạn. Tôi nay trong các pháp hiện
thực đã lìa sự thiêu đốt, chẳng đợi thời tiết, hay tự thông đạt, hiện tiền
quán sát, duyện tự tâm mà tri giác[57].
Này Thiên tử, như thế gọi là xả bỏ cái lạc phi thời, được niềm lạc hiện
tiền.”
Thiên tử lại hỏi Tỳ-kheo:
“Điều mà Như Lai nói là thế nào,
rằng dục là phi thời, ít vui, nhiều khổ? Điều mà Như Lai nói là thế nào,
rằng lợi lạc trong đời hiện tại,... cho đến, tự giác tri?”
Tỳ-kheo đáp:
“Tôi trẻ tuổi xuất gia, không thể
nói rõ hết ý nghĩa Chánh pháp luật của Như Lai. Thế Tôn đang ở trong vườn
Trúc, khu Ca-lan-đà gần đây. Ngài có thể đến hỏi Thế Tôn điều nghi ngờ.
Thế Tôn sẽ nói, tùy sự ghi nhớ mà lãnh thọ.”
Thiên tử lại nói:
“Này Tỳ-kheo, nơi chỗ Như Lai đang
có nhiều chư Thiên oai lực vây quanh. Tôi trước chưa hỏi, không dễ gì đến
được. Tỳ-kheo, nếu có thể vì tôi bạch trước Thế Tôn, tôi sẽ đi theo.”
Tỳ-kheo đáp:
“Tôi sẽ vì ngài đi đây.”
Thiên tử thưa với Tỳ-kheo:
“Vâng, Tôn giả đi, tôi đi theo sau
Tôn giả.”
Tỳ-kheo đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ
Phật, lui đứng một bên; tường thuật lại đầy đủ cuộc vấn đáp với Thiên tử
cho Thế Tôn nghe và bạch:
“Bạch Thế Tôn, vị Thiên tử này nếu
là người thành thật chốc lát sẽ đến, nếu không thành thật sẽ không đến.”
Lúc ấy vị Thiên tử kia từ xa nói
vọng lại với Tỳ-kheo:
“Tôi đã ở đây. Tôi đã ở đây.”
Bây giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Chúng sanh
theo ái tưởng[58],
Do ái tưởng mà
trụ.
Vì chẳng biết
rõ ái,
Nên thần
chết tùy tiện[59].
Phật bảo Thiên tử:
“Ông giải thích bài kệ này rồi mới
có thể hỏi.”
Thiên tử bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con không hiểu.
Thưa Thiện Thệ, con không hiểu.”
Đức Phật nói kệ và bảo Thiên tử:
Nếu biết ái
được yêu,
Ở đó không
sanh yêu.
Người không có
sự này,
Người khác
không thể nói[60].
Phật bảo Thiên tử:
“Ông hiểu nghĩa này rồi có thể hỏi
câu khác.”
Thiên tử bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con không hiểu.
Thưa Thiện Thệ, con không hiểu.”
Đức Phật lại nói kệ:
Ai thấy:
bằng, hơn, kém,
Ắt có ngôn
luận sanh.
Ba việc chẳng
khuynh động:
Không yếu
mền, trung, thượng[61].
Phật bảo Thiên tử:
“Hiểu được nghĩa này thì có thể
hỏi.”
Thiên tử bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con không hiểu. Thưa
Thiện Thệ, con không hiểu.”
Đức Phật lại nói kệ:
Đoạn ái và
danh sắc,
Trừ mạn, không
ràng buộc;
Tịch diệt,
dừng sân nhuế,
Lìa kết, bặt
dục vọng.
Chẳng thấy nơi
trời, người,
Đời này và
đời khác.
Phật bảo Thiên tử:
“Ông hiểu nghĩa này rồi mới nên
hỏi.”
Thiên tử bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Thưa
Thiện Thệ, con đã hiểu.”
Đức Phật nói kinh này xong, Thiên
tử nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ biến mất.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn
Trúc, khu Ca-lan-đà, tại thành Vương xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo kia[63]
cuối đêm đến bên bờ sông Tháp-bổ, cởi y phục để trên bờ, xuống sông tắm
rửa, tắm xong lên bờ khoác sơ một cái y đợi thân khô. Khi ấy có một Thiên
tử từ thân tỏa ra ánh sáng, chiếu sáng bên sông Tháp-bổ, bảo Tỳ-kheo rằng:
“Tỳ-kheo! Tỳ-kheo! Đây là gò mả[64],
ban đêm bốc khói, ban ngày bốc lửa. Người Bà-la-môn kia thấy vậy, nói
rằng: ‘Hãy phá cái gò mả này đi. Đào lên là người trí, hãy cầm lấy gươm
đao.’
“Lại thấy con rùa lớn[65].
Bà-la-môn thấy rồi nói: ‘Trừ đi con rùa này. Đào lên là người trí, hãy cầm
lấy gươm đao.’
“Lại thấy có cái cù lâu[66],
Bà-la-môn thấy rồi nói: ‘Trừ đi cái cù lâu này. Đào lên là người trí, hãy
cầm lấy gươm đao.’
“Lại thấy có miếng thịt[67].
Bà-la-môn thấy rồi nói: ‘Trừ đi miếng thịt này. Đào lên là người trí, hãy
cầm lấy gươm đao.’
“Lại thấy chỗ giết chóc[68].
‘Trừ đi chỗ giết chóc này. Đào lên là người trí, hãy cầm lấy gươm đao.’
“Lại thấy cái lăng-kỳ[69],
Bà-la-môn thấy rồi nói: ‘Trừ đi cái lăng-kỳ này. Đào lên là người trí, hãy
cầm lấy gươm đao.’
“Lại thấy có hai đường. Bà-la-môn
thấy rồi nói: ‘Trừ đi hai đường này. Đào lên là người trí, hãy cầm lấy
gươm đao.’
“Lại thấy có một cánh cửa.
Bà-la-môn thấy rồi nói: ‘Trừ đi cánh cửa này. Đào lên là người trí, hãy
cầm lấy gươm đao.’
“Lại thấy có con rồng lớn[70].
Bà-la-môn thấy rồi nói: ‘Dừng lại, chớ bỏ qua con rồng to. Phải nên cung
kính.’
“Này Tỳ-kheo, ông hãy đem luận này
đến hỏi Thế Tôn. Như lời Phật dạy, ông theo đó thọ trì. Vì sao? Vì trừ Như
Lai ra, tôi không thấy ai trong thế gian này, chư Thiên, Ma, Phạm, Sa môn,
Bà-la-môn nào, mà đối với luận này có tâm ưa thích. Trừ các đệ tử, hay
những người nghe từ tôi rồi nói lại.”
Bấy giờ, vị Tỳ-kheo sau khi nghe
luận này từ Thiên tử ấy, liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ Phật, rồi lui
ngồi một bên. Tỳ-kheo đem các luận của Thiên tử kia hỏi Thế Tôn:
“Bạch Thế Tôn, thế nào là gò mả?
Thế nào là đêm thì bốc khói? Thế nào là ngày thì lửa cháy? Thế nào là
Bà-la-môn? Thế nào là đào lên? Thế nào là người trí? Thế nào là gươm đao?
Thế nào là con rùa lớn? Thế nào là cù lâu? Thế nào là miếng thịt? Thế nào
là chỗ giết chóc? Thế nào là lăng-kỳ? Thế nào là hai đường? Thế nào là
cánh cửa? Thế nào là con rồng lớn?”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Gò mả là cái thân sắc gồm sắc đại
thô phù của chúng sanh, bẩm thọ di thể của cha mẹ, ăn uống, y phục che
chở, tắm rửa trau chuốt, nuôi dưỡng. Tất cả đều là pháp biến hoại, ma
diệt. Ban đêm bốc khói nghĩa là giữa đêm có người thức dậy tùy giác tùy
quán[71].
Ban ngày lửa cháy nghĩa là thực hành theo lời dạy tạo các nghiệp thân,
miệng[72].
Bà-la-môn nghĩa là Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Đào lên, nghĩa là
nỗ lực tinh tấn. Người trí nghĩa là đa văn Thánh đệ tử. Gươm đao là gươm
đao trí tuệ. Con rùa lớn nghĩa là năm cái[73].
Cù lâu[74]
nghĩa là phẫn hận. Khúc thịt là bỏn xẻn tật đố. Giết chóc nghĩa là công
năng năm dục[75].
Lăng-kỳ nghĩa là vô minh. Hai đường là nghi hoặc. Cánh cửa là ngã mạn. Con
rồng to là bậc Lậu tận A-la-hán.
“Như vậy, này Tỳ-kheo, những gì Đại
Sư cần làm cho đệ tử, do thương yêu, nghĩ tưởng đến, vì lợi ích mà an ủi.
Đối với ông, việc Ta đã làm rồi. Các ông nên làm những việc cần làm. Hãy ở
chỗ vắng trong rừng, trong nhà trống, chỗ núi non, nơi hẻo lánh, trong
hang núi v.v... trải cỏ hoặc lá cây để ngồi, tư duy thiền định, không khởi
buông lung, chớ để sau này phải hối tiếc. Đó là giáo huấn của Ta.”
Phật liền nói kệ:
Nói thân là gò
mả,
Giác, quán đêm
bốc khói;
Nghiệp là lửa
ban ngày.
Bà-la-môn:
Chánh giác.
Tinh tấn: chăm
khai quật,
Người trí tuệ
sáng suốt,
Dùng gươm bén
trí tuệ.
Bậc thăng
tiến, chán lìa.
Năm cái là rùa
to,
Phẫn hận là cù
lâu;
Xan tật là
khúc thịt,
Năm dục, nơi
giết chóc.
Vô minh là
lăng-kỳ,
Nghi hoặc là
hai đường;
Cánh cửa hiện
ngã mạn,
Rồng, La-hán
lậu tận.
Cứu cánh dứt
các luận,
Nên Ta nói như
vậy.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Lộc
uyển, trú xứ của Tiên nhân, tại nước Ba-la-nại. Bấy giờ, sáng sớm Thế Tôn
đắp y ôm bát vào thành Ba-la-nại khất thực. Lúc ấy có một Tỳ-kheo khác vì
không trụ tâm, tâm tán loạn, không gìn giữ các căn. Tỳ-kheo kia sáng sớm
đắp y ôm bát vào thành Ba-la-nại khất thực, từ xa trông thấy Thế Tôn vội
thu nhiếp các căn nhìn thẳng mà đi. Thế Tôn nhìn thấy Tỳ-kheo kia nhiếp
trì các căn, nhìn thẳng rảo bước đi, thấy rồi. Phật vào thành. Khất thực
xong, Ngài trở về tinh xá cất y, bát, rửa chân xong, vào phòng tọa thiền.
Chiều hôm ấy, sau khi từ thiền tịnh
dậy, Ngài vào trong Tăng chúng, trải tọa cụ ngồi trước đại chúng, bảo các
Tỳ-kheo:
“Sáng nay Ta đắp y, ôm bát vào
thành Ba-la-nại khất thực thấy có một vị Tỳ-kheo vì không trụ tâm nên tâm
tán loạn, các căn buông thả, cũng đắp y, ôm bát vào thành khất thực.
Tỳ-kheo ấy từ xa thoáng trông thấy Ta liền vội vàng tự nhiếp trì, đây là
ai vậy?”
Khi ấy vị Tỳ-kheo kia từ chỗ ngồi
đứng lên sửa lại y phục, đến trước Phật, trật vai áo bên hữu, chắp tay
bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con sáng sớm vào
thành khất thực tâm tán loạn, không thu nhiếp các căn, con đang đi thoáng
thấy Thế Tôn từ xa, con liền tự thúc liễm tâm, nhiếp trì các căn.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Lành thay! Lành thay! Ông thấy Ta
rồi, có thể tự thúc liễm tâm và nhiếp trì các căn. Này Tỳ-kheo, pháp này
phải nên như vậy. Nếu thấy Tỳ-kheo cũng nên tự nhiếp trì. Nếu lại thấy
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cũng nên nhiếp trì các căn như vậy sẽ được
lợi ích, an ổn, khoái lạc, lâu dài.”
Bấy giờ, trong chúng có một Tỳ-kheo
khác nói kệ khen ngợi:
Với tâm kia mê
loạn,
Không chuyên
trụ hệ niệm;
Sáng sớm mang
y bát,
Vào thành ấp
khất thực.
Dọc đường thấy
Đại Sư,
Đầy oai đức,
dung nghi;
Vui mừng sanh
tàm quý,
Liền nhiếp trì
các căn.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
*
[1].
Ấn Thuận, “Tụng viii. Tám chúng. 17. Tương ưng Tỳ-kheo”, gồm hai mươi
hai kinh: 1165-1186; Đại Chánh, kinh 1062-1083. Quốc Dịch, quyển 32,
“Tụng vii. Kệ. 1. Tương ưng Tỳ-kheo”, hai phẩm, hai mươi hai kinh.
Phật Quang, quyển 38, kinh 1050-1068. Pāli, S. 21. 5.
Sujāto. Biệt dịch, No 100(1).
[2].
Thiện Sanh
善生.
Pāli:
Sujāto.
[3].
Hán: nhị xứ đoan nghiêm
二處端嚴.
Pāli; ubhayena… sobhati, sáng chói với hai điều.
[4].
Hán: tự tri tác chứng
自知作證.
Pāli:
sayaṃ abhiññā sacchikatvā,
bằng thắng trí mà tự mình chứng nghiệm (chứng ngộ).
[5].
Pāli, S. 21. 6.
Bhaddi.
Biệt dịch, No 100(2).
[6].
Pāli: [Lakuṇḍaka-]Bhdddiya.
[7].
Pāli, S. 17. 36.
Ratha.
Cf. A. 4. 68.
Davadatta.
Biệt dịch, No 100(3)
[8].
Đề-bà-đạt-đa
提婆達多. Pāli: Devadatta.
[9].
Ma-kiệt-đà vương A-xà-thế Tỳ-đề-hy-tử
摩竭陀王阿闍世毘提希子.
Pāli:
Ajātasattu-kumāro,
Vương tử Ajātasattu, chưa làm vua.
[10].
Biệt chúng 別眾;
một số Tỳ-kheo trong Tăng tách thành nhóm riêng sinh hoạt biệt lập.
Bản Pāli không có chi tiết này.
[11].
Hán: cự hư 駏驉
; giống thú hình như ngựa (Từ hải). Pāli: assatara, giống lừa lai
ngựa.
[12].
Biệt dịch, No 100(4).
[13].
Thủ Tỳ-kheo
手比丘. Biệt dịch: Tượng Thủ Tỳ-kheo. Pāli, hoặc
Hattha (tay), hoặc Hatthi (voi).
[14].
Pāli, S. 21. 8. Nando. Biệt dịch, No 100(5);
Cf. No 125(18.6).
[15].
Nan-đà Phật di mẫu
難陀佛姨母子.
Pāli:
Nando Bhagavato
mātucchāputto.
[16].
Pāli, S.21.9. Tisso. Biệt dịch, No 100(7).
[17].
Đê-sa 低沙.
Pāli: āyasmā Tisso Bhagavato pitucchāputto, Tôn giả Tissa, con
trai của Bá mẫu của Thế Tôn.
[18].
Pāli, S. 21. 7.
Visākho;
cf. A. 4. 48.
Visākho.
Biệt dịch, No 100(8).
[19].
Tỳ-xá-khư Bát-xà-lê Tử
毘舍佉般闍梨子.
Pāli: Visākho pañcālaputto.
[20].
Cúng dường đường
供養堂.
Pāli:
upaṭṭhānasālā,
giảng đường hay thị giả đường, hay nhà khách.
[21].
Trú chánh thọ
晝正受. Đây chỉ sự nghỉ trưa. Bản Pāli:
sāyaṇhasamayaṃ patisallāna.
[22].
Pāli, S. 21. 4. Navo. Biệt dịch, No 100(9).
[23].
Pāli:
mā … etassa bhikkhuno
ujjhāyittha, các ông chớ hiềm trách
Tỳ-kheo này.
[24].
Bốn pháp tăng tâm
四增心法;
hay bốn tăng thượng tâm. Pāli:
catunaṃ jhānānaṃ
ābhicetasikānaṃ, bốn thiền tăng
thượng tâm.
[25].
Pāli, S. 21. 10.
Theranāmo.
Biệt dịch, No 100(10).
[26].
Danh viết Thượng Tọa
名曰[02]上坐 .
Pāli: Theranāmako.
[27].
Pāli: yaṃ atītaṃ taṃ
pahīnaṃ, yaṃ anāgataṃ paṭinissaṭṭhaṃ, paccuppannesu
attabhāvapaṭilābhesu chandarāgo suppaṭivinīto,
cái gì đã qua thì đoạn tận, cái gì chưa
đến khước từ, trong những lợi dưỡng cho bản thân thì khéo chế ngự tham
dục.
[28].
Pāli, Cf. Ud. 1.8.
Bodhi-vagga.
Biệt dịch, No 100(11).
[29].
Tăng-ca-lam
僧迦藍. Pāli: Saṅgāmaji.
[30].
Quốc Dịch, “1. Tương ưng Tỳ-kheo, phẩm 2”. Pāli, A. 3. 79.
Gandha. Biệt dịch, No 100(12), No 116,
No 117, No 125(23.5).
[31].
Đa-ca-la 多迦羅.
Pāli:
tagara,
cây cam tùng, cách hương.
[32].
Pāli, Cf. Luật tạng, Mv.1.22 (Seniya Bimbisàra). Biệt dịch, N0100(13).
[33].
Oanh phát xuất gia
縈髮出家.
Pāli:
jaṭila.
Đây chỉ các anh em Uruvela-Kassapa (Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) và các đệ
tử của họ.
[34].
Thiện kiến lập chi-đề Trượng lâm
善建立支提杖林.
Pāli:
Laṭṭivane Suppaṭṭha-cetiya.
[35].
Ma-kiệt-đề vương Bình-sa
摩竭提王瓶沙.
Pāli:
rājā Magadho Seniyo Bimbíāro.
[36].
Uất-bề-la Ca-diếp
鬱鞞羅迦葉.
Pāli: Uruvela-Kassapa.
[37].
Đại hội, chỉ đại tế đàn.
[38].
Pāli, Cf., Luật tạng, Tiểu phẩm, Cv. 4. 4. 4. Biệt dịch, No
100(14).
[39].
Đà-phiêu Ma-la Tử
陀驃摩羅子.
Pāli: Dabba Mallaputta.
[40].
Từ Địa 慈地.
Pāli: Mettiya-bhummajaka.
[41].
Mật-đa-la 蜜多羅.
Pāli: Mettiyā.
[42].
A-lê 阿梨;
Ấn Thuận đọc là A-xà-lê (Pāli:
ācariya),
tức Hán dịch là Giáo thọ sư hay Quỹ phạm sư. Nhưng đây là phiên âm từ
Skt.
ariya
(Pāli:
ayya):
“Thưa Ngài/ Thưa Đức Ông” từ xưng hô của người nhỏ đối với người lớn.
[43].
Hán: bất thiện bất loại
不善不類,
Pāli:
nacchannaṃ nappaṭỉūpaṃ.
[44].
Luật Tỳ-kheo: đây chỉ pháp diệt tránh, bằng ức niệm tỳ-ni; Pāli:
sati-vinayo.
[45].
Luật Tỳ-kheo: chỉ pháp diệt tránh bằng tự ngôn trị; Pāli:
paṭiññātakara.
[46].
Pāli, Cf. Ud. 8. 9.
Pāṭaḷigāmiya-vagga.
[47].
Pāli, Cf. M. 86.
Aṅgulimāla-sutta.
Biệt dịch, No 100(16). No 125(38.6).
[48].
Ương-cù-đa-la
央瞿多羅. Bản Pāli, tại Savatthi.
[49].
Đà-bà-xà-lê-ca
陀婆闍梨迦.
Pāli: Dhavajālikā (?).
[50].
Ương-cù-lợi-ma-la
央瞿利摩羅.
Pāli: Aṅgulimāla.
[51].
Thần 神.
Đoạn kệ này không có Pāli tương đương. Đây chắc
là dịch từ
bhūta,
quỷ thần, cũng chỉ các loại thảo mộc.
[52].
Bất Hại 不害.
Pāli: Ahimsa, tên do cha mẹ đặt.
[53].
Pāli, S.1. 20.
Samidhi.
Biệt dịch, No 100(17)
[54].
Tháp-bổ hà 搨補河.
Pāli: Tapodā, tên hồ lớn ngoại thành Vương xá.
[55].
Pāli:
mā sandiṭṭikaṃ hitvā kālikaṃ
anudhāvī’ti, chớ xả bỏ cái hiện thực, mà
chạy theo cái lệ thuộc thời gian. Chỉ sự tu tập đòi hỏi nhiều thời
gian. Bản Hán đọc
akālika,
do tách âm cuối của từ đi trước,
hitvā
=
ā+a.
[56].
Pāli:
kālikā hi āvuso kāmā,
dục vọng vốn lệ thuộc thời gian.
[57].
Pāli:
sandiṭṭhiko ayaṃ dhammo
akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī ti,
‘Pháp này (của Phật) là hiện thực
(được thấy ngay hiện tại), không lệ thuộc thời gian, hãy đến để
thấy (là pháp thực chứng), có khả năng hướng dẫn (đến
Niết-bàn), được chứng biết từ nội tâm bởi kẻ Trí’.
[58].
Ái tưởng 愛想.
Pāli:
akkheyyasaññino sattā,
chúng sanh có tưởng về danh (tên gọi người và vật).
[59].
Pāli:
akkheyyaṃ apariññāya,
yogamāyanti maccuno, do không biết rõ
danh nên bị Tử thần trói đi.
[60].
Pāli:
akkheyyañca pariññāya,
akkhātāraṃ na maññati; tañca tassa na hoti, yena naṃ vajjā na tassa
atthi, do biết rõ cái bị gọi tên, nó
không suy tưởng đến tên gọi. Ai không có điều này, người đó không có
lầm lỗi.
[61].
Pāli:
tīsu vidhāsu avikampamāno,
samo visesī ti na tassa hoti, ai không
dao động trong ba sự này, người đó không có ý nghĩ hơn, kém.
[62].
Pāli, Cf. M. 23.
Vammīka.
Biệt dịch, No 100(18), No 125(39.9).
[63].
Pāli: Tôn giả Kumārakassapa, sống trong rừng Andhavana (Ám lâm).
[64].
Hán: khâu trũng
丘塚.
Pāli:
vammīka,
ổ kiến hay gò mối.
[65].
Bản Pāli, đào lần đầu, thấy cái then cửa (laṅgi).
[66].
Cù lâu 氍氀.
Không hiểu ý. Pāli, đào lên lần thứ hai:
uddhumāyika, thây sình (hay con nhái).
[67].
Nhục đoạn 肉段.
Pāli, lần thứ ba:
dvidhāpatha,
hai con đường.
[68].
Đồ sát xứ 屠殺處.
Pāli, lần thứ tư:
caṅgavāraṃ,
chiếc thuyền (khúc gỗ được moi ruột).
[69].
Lăng-kỳ 楞耆.
Pāli: laṅgi, cái then cửa. Bản Pāli, lần thứ năm: kummo, con rùa.
[70].
Đại long 大龍.
Pāli:
nāga,
con rắn hổ mang.
[71].
Tùy giác tùy quán
隨覺隨觀
. Pāli:
anuvitakketi anuvicāreti,
suy tầm, suy tưởng.
[72].
Pāli:
rattiṃ anuvitakketvā
anuvcāretvā divā kammante payojeti kāyena vācāya,
sau khi ban đêm suy tầm, suy tưởng, ban ngày thực hiện công việc bằng
thân hay miệng.
[73].
Tức năm triền cái. Bản Pāli, con rùa, chỉ cho năm thủ uẩn.
[74].
Bản Pāli:
uddhumāyika.
[76].
Biệt dịch, No 100(19).