TẠP A-HÀM QUYỂN 4
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà
thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ có Bà-la-môn trẻ tuổi tên là Uất-đa-la[2]
đến chỗ Đức Phật. Sau khi chào hỏi xong, lui qua ngồi một bên, bạch Phật
rằng:
“Bạch Thế Tôn, con thường đi khất thực như pháp,
đem cúng dường cho cha mẹ, khiến cho ông bà được an vui, xa lìa khổ. Bạch
Thế Tôn, việc làm của con như vậy có nhiều phước không?”
Phật bảo Uất-đa-la:
“Thật có nhiều phước. Vì sao? Vì nếu có người nào
khất cầu đúng pháp, để cúng dường cha mẹ, làm cho an vui, trừ khổ não, thì
thật là người có phước lớn.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói bài kệ rằng:
Như
ngươi đối cha mẹ,
Cung
kính và cúng dường,
Đời này
lưu tiếng thơm,
Khi
chết được lên trời.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo
nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà
thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ có một Bà-la-môn tuổi trẻ tên là Ưu-ba-ca[4]
đến chỗ Đức Phật. Sau khi chào hỏi xong, lui ngồi qua một bên, bạch Phật
rằng:
“Bạch Cù-đàm, các Bà-la-môn thường hay khen ngợi
đại hội tà thạnh[5].
Còn Sa-môn Cù-đàm có khen ngợi đại hội tế lễ không?”
Phật bảo Ưu-ba-ca:
“Ta không khen ngợi một chiều. Hoặc có đại hội tà
thạnh Ta tán thán. Cũng có đại hội tà thạnh Ta không tán thán.”
Ưu-ba-ca bạch Phật:
“Những đại hội tế lễ nào có thể được khen ngợi và
những đại hội tế lễ nào không được khen ngợi?”
Phật bảo Ưu-ba-ca:
“Nếu có đại hội tế lễ nào mà cột trói cả bầy nghé,
trâu đực, trâu cái, những con dê và những chúng sanh nhỏ bé khác, tất cả
đều bị sát hại; hành hạ áp bức những kẻ nô tỳ, người làm công, đánh đập
bằng chịu roi vọt, làm cho sợ hãi, buồn khổ, khóc la, kêu gào, không hoan
hỷ, không sướng, lao dịch khổ nhọc. Những đại hội tế lễ như vậy, Ta không
khen ngợi, vì chúng gây nên tai nạn lớn.
“Nếu những đại hội tế lễ mà không trói cột các súc
vật, cho đến không khiến chúng sanh phải lao dịch khổ nhọc; những đại hội
tế lễ như vậy được Ta khen ngợi tán thán, vì nó không mang lại tai nạn
lớn.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Đại
hội như tế ngựa,[6]
Gây nên
tai họa lớn;
Các tà
thạnh như vậy,
Đại
tiên không khen ngợi.
Trói cột các
chúng sanh,
Sát hại côn trùng
nhỏ,
Chẳng phải lễ hội
chánh,
Đại tiên không
tùy thuận.
Nếu không hại
chúng sanh,
Không gây các tai
họa,
Thì gọi lễ hội
chánh,
Đại tiên thuận
tán thán.
Bố thí và cúng
dường,
Đúng pháp thiết
đại tế;
Người thí, tâm
thanh tịnh,
Phạm hạnh ruộng
phước tốt;
Những đại hội như
vậy,
Gọi lễ hội
La-hán.
Hội này được quả
lớn,
Chư Thiên đều
hoan hỷ.
Tự mình cung kính
thỉnh,
Tự tay ban phát
cho,
Mình người đều
thanh tịnh;
Cho này được quả
lớn.
Kẻ trí cho như
vậy,
Tín tâm được giải
thoát.
Cõi đời vui,
không tội,
Người trí sanh nơi đó.
Phật nói kinh này xong, Bà-la-môn
Ưu-ba-ca nghe những gì Đức Phật đã dạy, tùy hỷ hoan hỷ, làm lễ mà lui.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà
thuộc nước Xá-vệ. Đức Phật cũng nói đầy đủ như kinh trên[8],
tuy nhiên có sự sai khác nơi bài kệ, Ngài đã nói:
Vô
vi, không các nạn,
Khi tế lễ thanh
tịnh,
Thuận hành theo
như pháp,
Giữ gìn các phạm
hạnh,
Tiếng thơm khắp
thế giới,
Vượt lên trên
phàm tục.
Đối với tế đàn
thiện,
Phật khen ngợi lễ
này.
Bố thí và cúng
dường,
Tế lễ phải tùy
thời,
Tịnh tín, cho
bình đẳng,
Phạm hạnh ruộng
phước tốt,
Người ban cho như
vậy,
Là cúng ruộng
La-hán.
Cho rộng lớn như
vậy,
Chư Thiên sẽ khen
ngợi,
Tự mình cung kính
thỉnh,
Tự tay ban phát
cho,
Mình người đều
thanh tịnh;
Cho này được quả
lớn.
Kẻ trí cho như
vậy,
Tín tâm được giải
thoát.
Cõi đời vui,
không tội,
Người trí sanh nơi đó.
Phật nói kinh này xong, Bà-la-môn
Ưu-ba-ca nghe những gì Đức Phật đã dạy, tùy hỷ hoan hỷ, làm lễ mà lui.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức
Phật ở tại vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ có
Bà-la-môn tuổi trẻ tên là Uất-xà-ca[10]
đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ sát chân Phật, rồi lui ngồi qua một bên, bạch
Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn, người thế tục tại gia nên thực hành
bao nhiêu pháp để được lợi ích hiện tại và an lạc ngay hiện tại[11]?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Có bốn pháp giúp cho người thế tục tại gia được
lợi ích hiện tại và an lạc ngay hiện tại. Đó là: Phương tiện đầy đủ, Thủ
hộ đầy đủ, Thiện tri thức đầy đủ, Chánh mạng đầy đủ.
“Thế nào là Phương tiện đầy đủ[12]?
Người thiện nam tự nuôi sống bằng các nghề nghiệp kỹ xảo, như làm ruộng,
buôn bán, phục vụ vương sự, chép sách, toán thuật, hội họa. Đối với những
nghề nghiệp kỹ xảo đó, luôn tinh tấn siêng năng trau dồi. Đó gọi là Phương
tiện đầy đủ.
“Thế nào là Thủ hộ đầy đủ? Người thiện nam có tiền
bạc, gạo lúa, do nỗ lực mà thu hoạch, tự tay mình làm ra, đúng như pháp mà
có được, tích cực giữ gìn, không để cho vua, giặc, nước, lửa, tước đoạt,
hay trôi, chìm, mất mát. Ngược lại, nếu không khéo giữ gìn sẽ tiêu mất;
hay nếu không lưu tâm đến chúng, thì sẽ bị người khác chiếm lấy, cùng
những tai nạn sẽ làm cho hư hỏng. Đó gọi là người thiện nam khéo thủ hộ.
“Thế nào là Thiện tri thức đầy đủ? Có người thiện
nam không mất điều độ, không buông lung, không dối trá, không hung hiểm.
Những tri thức như vậy, có khả năng khéo léo an ủi; sự sầu khổ chưa sanh
có thể khiến không sanh, sự sầu khổ đã sanh có thể khai mở, tĩnh giác;
những điều vui thích chưa sanh có thể khiến sanh nhanh, những điều vui
thích đã sanh khiến giữ gìn không để mất. Đó gọi là người thiện nam thiện
tri thức đầy đủ.[13]
“Thế nào là Chánh mạng đầy đủ? Người thiện nam có
được những tiền của, trong việc chi thu cân đối, bảo quản chu tất, không
để cho việc nhập nhiều mà xuất ít, hay xuất nhiều mà nhập ít; như người
cầm cân ít thì phải thêm, nhiều thì phải bớt, cho đến lúc nào biết cân
bằng thì mới thôi. Như vậy, người thiện nam đã cân đối được tài vật của
mình trong khi xuất nhập ngang nhau, không khiến cho nhập nhiều xuất ít,
hay xuất nhiều nhập ít. Nếu người thiện nam không có tiền của nhiều mà sử
dụng rộng rãi quá trớn, thì do sự sinh hoạt này mà người ta nói là ‘quả
ưu-đàm-bát không có hạt giống’[14];
ham muốn ngu si, không biết nghĩ đến sau này. Hoặc có người thiện nam dư
dật mà không dám tiêu dùng, mọi người ở gần đều nói: ‘Người ngu si này như
con chó chết đói.’ Cho nên người thiện nam, những tiền của có được, nên tự
mình cân đối, xuất nhập ngang nhau. Đó gọi là Chánh mạng đầy đủ. Như vậy
Bà-la-môn, đây là bốn pháp thành tựu lợi ích hiện tại và an lạc hiện tại.”
Bà-la-môn bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, những người tại gia có bao nhiêu
pháp để có thể làm cho lợi ích đời sau, an lạc đời sau?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Có bốn pháp có thể làm cho lợi ích đời sau, an lạc
đời sau. Đó là: Tín đầy đủ, Giới đầy đủ, Thí đầy đủ, Tuệ đầy đủ.
“Thế nào là có Đức tin đầy đủ? Đối với Như-lai,
người thiện nam có tâm kính tin, gốc rễ tín vững chắc, mà chư Thiên, Ma,
Phạm cùng với loài người[15]
không thể phá hoại. Đó gọi là người thiện nam có Đức tin đầy đủ.
“Thế nào là có Giới đầy đủ? Người thiện nam không
sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Đó
gọi là có Giới đầy đủ.
“Thế nào là có Thí đầy đủ? Người thiện nam với tâm
không vấy bẩn bởi sự keo kiệt, sống đời tại gia mà hành bố thí buông xả[16],
thường tự tay mình cho, vui vẻ tu hạnh thí xả. Đó gọi là người thiện nam
có Thí đầy đủ.
“Thế nào là có Tuệ đầy đủ? Người thiện nam biết như
thật về Khổ Thánh đế; biết như thật về Tập, Diệt, Đạo Thánh đế. Đó gọi là
người thiện nam có Tuệ đầy đủ.
“Nếu người thiện nam nào ở tại gia đình mà thực
hành bốn pháp này, có thể thành tựu lợi ích hiện tại và an lạc hiện tại.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn, lại nói kệ rằng:
Phương tiện[17],
tạo dựng nghiệp,
Tích tụ
phải giữ gìn,
Người thiện nam
thân hữu,
Chánh mạng trong
tự sống.
Tịnh tín, giới
đầy đủ,
Bố thí lìa xan
tật,
Thanh tịnh đường
thăng tiến[18],
Đời sau được an
lạc.
Nếu sống đời tại
gia,
Thành tựu tám
pháp này,
Suy nghiệm lời
Phật dạy,
Những điều Phật
giác tri,
Thì hiện tại an
ổn,
Sống hiện tại hỷ
lạc,
Đời
sau cũng hỷ lạc.
Phật nói kinh này xong, Uất-xà-ca
nghe những gì Đức Phật đã dạy, tùy hỷ hoan hỷ, làm lễ rồi lui.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật từ nước Câu-tát-la du hành trong
nhân gian đến vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ tại nước
Xá-vệ có Bà-la-môn Kiêu Mạn[20],
đang sống tại đây, dòng họ cha mẹ đều thuần tịnh không một tỳ vết nào đáng
bị chê trách;[21]
bảy đời nối tiếp nhau, tất cả đều thuần tịnh; là bậc thầy của các
Bà-la-môn. Ngôn luận thông suốt; điển tịch các luận, có hàng vạn tên, thảy
đều biết rõ; hiểu pháp hơn thua, phân biệt[22]
tự nghĩa,[23]
ghi nhớ từng câu; tướng mạo đoan chánh. Do tự cao về huyết thống, tự cao
về dòng họ, tự cao về tướng mạo, tự cao về sự thông minh, tự cao về sự
giàu sang; ông không kính trọng cha mẹ, các bậc tôn túc, sư trưởng. Khi
ông nghe tin Sa-môn Cù-đàm đã từ nước Câu-tát-la du hành trong nhân gian
đến vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ này, ông liền nghĩ: “Ta
sẽ đến chỗ Sa-môn Cù-đàm này. Nếu Sa-môn có nói gì, ta sẽ cùng Sa-môn bàn
luận. Nếu không nói gì, ta sẽ im lặng ra về.”
Bấy giờ, Bà-la-môn Kiêu Mạn đi xe ngựa trắng, với
các thiếu niên Bà-la-môn theo hầu trước sau, cầm lọng cán vàng, tay ôm
bình vàng, đến gặp Đức Thế Tôn. Khi tới cửa vườn, ông xuống xe đi bộ vào.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn đang nói pháp cho đại chúng vây quanh.[24]
Thế Tôn không hề để ý đến Bà-la-môn Kiêu Mạn. Bà-la-môn Kiêu Mạn tự nghĩ:
“Sa-môn Cù-đàm không để ý đến ta.[25]
Thôi ta nên về.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết tâm niệm của Bà-la-môn
Kiêu Mạn, nên nói kệ rằng:
Kiêu
Mạn đã đến đây,
Bất
thiện lại tăng trưởng.
Trước
vì nghĩa mà đến,
Hãy
tăng trưởng nghĩa ấy.[26]
Bây giờ, Bà-la-môn Kiêu Mạn lại
nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.” Rồi ông sửa soạn hành lễ.[27]
Đức Thế Tôn bảo Bà-la-môn Kiêu Mạn:
“Thôi! Thôi! Không cần phải làm lễ.
Tâm tịnh là đủ rồi[28].”
Lúc ấy, mọi người đều lớn tiếng
xướng rằng:
“Lạ thay! Thế Tôn, là Bậc Đại đức,
Đại lực. Nay, Bà-la-môn Kiêu Mạn này, do tự cao về huyết thống, tự cao về
dòng họ, tự cao về tướng mạo, tự cao về sự thông minh, tự cao về sự giàu
sang; nên không kính trọng cha mẹ, các bậc tôn túc, sư trưởng, mà nay đối
trước Sa-môn Cù-đàm lại khiêm hạ, hạ mình, muốn lễ sát chân Phật.”
Bà-la-môn Kiêu Mạn trước mọi người
lớn tiếng bảo lặng, rồi nói kệ rằng:
Thế nào[29]
chẳng khởi mạn?
Thế nào
khởi cung kính?
Thế nào khéo an
ủi?
Thế
nào khéo cúng dường?
Bấy giờ, Đức Thế Tôn đáp kệ rằng:
Đối
cha mẹ, huynh trưởng,
Hòa
thượng, các sư trưởng,
Cùng
các bậc tôn trọng,
Không
nên sanh kiêu mạn.
Phải
khéo lòng cung kính,
Khiêm
hạ và hỏi thăm,
Tận tâm
mà phụng sự,
Cùng
các việc cúng dường.
A-la-hán lậu tận,
Tâm lìa tham,
nhuế, si,
Chánh trí khéo
giải thoát,
Điều phục tâm
kiêu mạn;
Đối các Hiền
thánh này,
Chắp tay cúi đầu
lễ.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Bà-la-môn Kiêu Mạn thuyết
pháp bằng nhiều cách, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.[30]
Đức Phật nói pháp theo tuần tự, nói về bố thí, trì giới, công đức sanh
thiên, về vị ngọt, sự tai hại của ái dục, về sự phiền não, thanh tịnh, về
xuất yếu viễn ly, về các phần thanh tịnh; nói rộng như vậy.[31]
Như tấm vải trắng sạch, chưa bị nhuộm đen, thấm nhuộm màu nhanh chóng;
Bà-la-môn Kiêu Mạn ngay tại chỗ ngồi hiểu rõ Bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt,
Đạo, chứng đắc hiện quán[32].
Bấy giờ Bà-la-môn Kiêu Mạn, thấy pháp, đắc pháp, biết pháp, chứng nhập
pháp, vượt qua khỏi mọi nghi hoặc, mà không do người khác độ thoát, ở
trong chánh pháp được vô sở úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục,
lễ Phật, rồi chắp tay bạch Phật:
“Nay, con có được phép ở trong chánh pháp, xuất gia
thọ cụ túc chăng?”
Đức Phật bảo Bà-la-môn Kiêu Mạn:
“Nay, ông có thể ở trong chánh pháp xuất gia thọ cụ
túc.”
Bà-la-môn kia liền xuất gia, một mình âm thầm tư
duy về lý do người thiện nam cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chánh tín xuất
gia học đạo, sống không gia đình, cho đến, đắc A-la-hán, tâm khéo giải
thoát.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật từ Câu-tát-la du hành trong nhân
gian đến vườn Cấp cô độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ có Bà-la-môn
Trường Thân tổ chức đại tế đàn[34]
như vầy: đem bảy trăm con trâu đực sắp hàng cột vào trụ, còn những con
trâu cái, trâu con, những con dê tơ, cùng những sanh vật nhỏ bé khác cũng
đều bị trói cột. Rồi sửa soạn các món đồ ăn thức uống để bố thí một cách
rộng rãi. Các nhóm ngoại đạo khác nhau từ nhiều nước khác nhau đều tụ tập
trung đến đại tế đàn này.
Bấy giờ,
Bà-la-môn Trường Thân[35]
nghe Sa-môn Cù-đàm từ Câu-tát-la du hành trong nhân gian đến vườn Cấp cô
độc, cây Kỳ-đà thuộc nước Xá-vệ này, thì tự nghĩ: “Nay, ta tổ chức đại tế
đàn, đem bảy trăm con trâu đực sắp hàng cột vào trụ, cho đến những sanh
vật bé nhỏ khác, tất cả đều bị trói cột. Các nhóm ngoại đạo khác nhau từ
nhiều nước khác nhau đều tụ tập về dự đại tế đàn này. Nay, ta nên đến chỗ
Sa-môn Cù-đàm hỏi về pháp tế tự, chớ để cho các phần số[36]
trong đại tế đàn mà ta tổ chức bị thiếu sót.” Suy nghĩ như vậy rồi, đi xe
ngựa trắng, dẫn theo trước sau nhiều thiếu niên Bà-la-môn, cầm lọng cán
vàng, ôm bình nước vàng, ra khỏi thành Xá-vệ, đến chỗ Đức Thế Tôn, cung
kính thừa sự. Khi đến cổng tinh xá, ông xuống xe, đi bộ đến trước Phật.
Sau khi chào hỏi xong, ông lui ngồi qua một bên, bạch Phật rằng:
“Bạch Cù-đàm, nay tôi muốn tổ chức lễ hội lớn tế
lễ, với bảy trăm con trâu đực sắp hàng cột vào trụ, cho đến các loài sanh
vật nhỏ bé khác, tất cả đều bị trói cột. Các nhóm ngoại đạo khác nhau từ
nhiều nước khác nhau đều tụ tập về dự đại tế đàn này. Nay, tôi lại nghe
Cù-đàm từ Câu-tát-la du hành trong nhân gian đã đến vườn Cấp cô độc, cây
Kỳ-đà thuộc nước Xá-vệ, nên tôi đến đây để thỉnh vấn Cù-đàm về pháp tế tự
và phần số của các phẩm vật, không để cho các phần số trong đại tế đàn mà
tôi tổ chức bị thiếu sót.”
Đức Phật bảo Bà-la-môn:
“Có một thứ đại tế đàn, tuy người chủ thực hành
việc bố thí làm phước nhưng lại sanh ra tội, gặt hái quả báo bất thiện, bị
đâm chém bởi ba thứ đao kiếm. Ba loại ấy là: đao kiếm bởi thân, đao kiếm
bởi miệng, đao kiếm bởi ý.
“Thế nào là đao kiếm bởi ý, sanh ra các quả báo
khổ? Như có một người chủ tổ chức đại tế đàn, suy nghĩ: “Ta tổ chức đại
hội tế tự, cần phải giết ngần ấy trâu đực mập mạnh, trâu cái, trâu con, dê
tơ, cùng nhiều loài sanh vật nhỏ bé khác.” Đó gọi là đao kiếm bởi ý, sanh
ra các quả báo khổ. Tuy người thí chủ có ý nghĩ là làm các việc bố thí và
cúng dường như vậy, nhưng thật ra việc làm ấy sanh ra tội.
“Thế nào là đao kiếm bởi miệng, sanh ra các quả báo
khổ? Có một người chủ tổ chức lễ hội lớn, bảo như vầy: “Nay, ta tổ chức lễ
hội lớn tế lễ, các ngươi phải giết ngần ấy trâu đực mập mạnh, cho đến ngần
ấy sanh vật nhỏ bé khác.” Đó gọi là đao kiếm bởi miệng, sanh ra các quả
báo khổ. Người chủ lễ hội lớn, tuy làm các việc bố thí, cúng dường, nhưng
thật ra việc làm ấy sanh ra tội.
“Thế nào là đao kiếm bởi thân, sanh ra các quả báo
khổ? Có người chủ lễ hội lớn, tự tay mình giết trâu đực, cho đến giết hại
các loài sanh vật bé nhỏ khác. Đó gọi là đao kiếm bởi thân sanh ra các quả
báo khổ. Người chủ lễ hội lớn này, tuy nghĩ đến các việc bố thí, cúng
dường, nhưng thật ra việc làm ấy sanh ra tội.
“Tuy nhiên, Bà-la-môn nào siêng năng tùy thời cúng
dường ba thứ lửa, cung kính lễ bái, phụng sự, mang lại sự an lạc. Những gì
là ba? Một là lửa căn bản, hai là lửa cư gia, ba là lửa phước điền.
“Thế nào là lửa căn bản, mà tùy thời cung kính,
phụng sự, cúng dường, mang lại sự an lạc? Người thiện nam, nhờ phương tiện
có được tiền của, hay do sự cần cù khó nhọc chân tay mà có được như pháp,
đem phụng dưỡng cha mẹ, khiến cho họ được an lạc, đó gọi là lửa căn bản.
Vì sao gọi là căn bản? Vì người thiện nam do cha mẹ sanh ra, nên cha mẹ
được gọi là căn bản. Người thiện nam vì tôn sùng căn bản nên tùy thời cung
kính, phụng sự, mang lại sự an lạc cho họ.
“Thế nào là lửa gia cư, mà người thiện nam tùy thời
nuôi dưỡng, đem lại sự an lạc? Người thiện nam, nhờ phương tiện có được
của cải, nhờ vào sự cần cù khổ cực của chân tay, có được như pháp, rồi đem
cung cấp cho vợ con, bà con quyến thuộc, người giúp việc, khách
thương, tùy thời mà cung cấp, với lòng
tôn trọng, đem lại sự hạnh phúc cho họ. Đó gọi là lửa cư gia. Vì sao gọi
là gia? Vì người thiện nam sống đời tại gia, vui thì cùng vui, khổ thì
cùng khổ, mọi sinh hoạt trong gia đình đều tùy thuận lệ thuộc vào nhau,
cho nên gọi là gia. Vì vậy, người thiện nam nên tùy thời mà cung cấp và
mang lại sự an lạc cho họ.
“Thế nào là lửa phước điền, mà người thiện nam tùy
thời cung kính, tôn trọng cúng dường, mang lại sự an lạc? Người thiện nam,
phương tiện có được của cải, nhờ vào sự cần cù khổ cực của chân tay, có
được như pháp, rồi đem phụng sự, cúng dường cho các Sa-môn, Bà-la-môn nào
đã khéo điều phục tham, nhuế, si. Cúng dường những Sa-môn, Bà-la-môn như
vậy là kiến lập phước điền, càng lúc càng tăng tiến, hiện tại an vui được
báo tốt, tương lai sẽ sanh về cõi trời. Đó gọi là lửa phước điền. Vì sao
gọi là điền? Vì đó là đám ruộng phước của thế gian, là nơi đáng được cúng
dường, cho nên gọi là điền. Do vậy, người thiện nam nên tùy thời cung
kính, phụng sự, cúng dường và mang lại sự an lạc cho họ.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
Căn
bản và cư gia,
Lửa
ruộng phước xứng đáng;
Luôn
cúng dường lửa này,
Vui an ổn sung
túc.
Cõi đời vui,
không tội,
Người tuệ sanh về
đó,
Của như pháp mở
hội,
Cúng dường nơi
đáng cúng;
Vì cúng dường
đúng chỗ,
Nên
tiếng thơm, sanh Thiên.
“Nhưng, này Bà-la-môn, người thiện
nam, nay đối với với ba thứ lửa mà trước kia đã từng cúng dường, hãy đoạn
trừ, dập tắt. Những gì là ba? Lửa tham dục, lửa sân hận, lửa ngu si. Vì
sao? Vì lửa tham mà không được đoạn trừ, không bị dập tắt, thì sẽ tự mình
hại mình, hại người; mình người đều bị hại; hiện tại mắc tội, đời sau mắc
tội, hiện tại và đời sau đều mắc tội. Vì duyên vào những tội này nên sanh
ra tâm pháp buồn lo, khổ não. Đối với lửa sân, lửa si cũng lại như vậy.
“Này Bà-la-môn, nếu người thiện nam
phụng thờ thứ lửa do nhóm củi, thường xuyên phải khổ nhục, thường xuyên
phải nhen nhóm, thường xuyên lửa tắt; vì những nhân duyên này mà chịu
khổ.”
Bấy giờ, Trường Thân Bà-la-môn,
ngồi im lặng. Lúc ấy, có người con của Bà-la-môn tên là Uất-đa-la đang
ngồi trong hội. Trường Thân Bà-la-môn sau khi im lặng và suy giây lát, rồi
bảo Uất-đa-la:
“Con trở về chỗ lễ hội tế lễ, hãy
thả những con trâu bị cột nơi trụ; cùng những sanh vật đã bị trói cột, tất
cả đều thả ra hết và nói lại với chúng rằng: “Trường Thân Bà-la-môn cho
phép các ngươi tùy ý tự tại nơi núi đồi, đầm ao, đồng hoang… mặc sức ăn cỏ
tươi, uống các dòng nước trong, gió mát bốn bề, hưởng thụ mọi sự khoái
lạc.”
Uất-đa-la bạch rằng:
“Con xin vâng theo lời thầy dạy.”
Uất-đa-la liền đi đến chỗ lễ hội tế lễ, thả hết mọi
sanh vật và nói với chúng rằng: “Trường Thân Bà-la-môn đã cho phép các
ngươi tùy theo sở thích đối với núi đồi, đầm ao, đồng hoang… ăn cỏ, uống
nước, gió mát bốn bề, tự theo ý thích.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết Uất-đa-la đã hoàn thành
công việc xong, liền nói pháp cho Bà-la-môn Trường Thân, chỉ dạy, soi
sáng, làm cho an vui, như cách thuyết pháp của các Đức Thế Tôn, theo thứ
tự trước sau nói về việc trì giới, bố thí và công đức sanh lên cõi trời;
về vị ngọt và sự tai hại của ái dục, về sự thanh tịnh của xuất ly, về sự
thanh tịnh các phiền não[37];
khai thị, tỏ bày. Giống như tấm lụa trắng sạch dễ thấm màu nhuộm, Trường
Thân Bà-la-môn lại cũng như vậy, ngay nơi chỗ ngồi thấy được Bốn chân đế,
chứng đắc hiện quán.[38]
Khi Trường Thân Bà-la-môn tự thân đã thấy pháp, đắc pháp, thâm nhập pháp,
vượt qua khỏi những nghi hoặc, không do người khác độ thoát, ở trong chánh
pháp đạt được vô sở úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, trịch
áo vai hữu, chắp tay bạch Phật:
“Con đã được độ, bạch Thế Tôn. Con, từ ngày hôm nay
cho đến suốt đời, xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tỳ-kheo Tăng, làm
Ưu-bà-tắc. Ngưỡng mong Ngài chứng tri cho con. Ngưỡng mong Đức Thế Tôn và
đại chúng nhận bữa ăn con cúng dường.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Khi Trường
Thân Bà-la-môn biết Phật đã nhận lời mời, làm lễ Phật, đi vòng bên hữu ba
lần rồi lui. Trường Thân Bà-la-môn trở về lại chỗ tế lễ, sửa soạn đồ vật
cúng dường thanh khiết, ngon lành và bố trí giường ghế, chỗ ngồi xong, sai
người đến thỉnh Phật:
“Bạch Ngài đã đến giờ, xin Ngài biết cho!”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khoác y cầm bát cùng với đại
chúng theo sau, đi đến chỗ lễ hội của Trường Thân Bà-la-môn. Ngài ngồi
trước đại chúng. Khi Trường Thân Bà-la-môn biết Đức Thế Tôn đã ngồi an
định rồi, tự tay dâng cúng các thứ đồ ăn thức uống. Khi Đức Phật và đại
chúng ăn xong; rửa tay, rửa bát xong, ông ngồi riêng ngay ngắn trên một
chiếc ghế thấp đặt trước đại chúng để nghe pháp.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Trường Thân Bà-la-môn mà
nói pháp bằng nhiều cách, chỉ dạy, soi sáng, làm cho an vui, rồi từ chỗ
ngồi đứng dậy ra về.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại vườn Cấp cô độc, cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ có một Bà-la-môn tuổi trẻ tên là Tăng-ca-la đến
chỗ Phật, cùng Đức Thế Tôn thăm hỏi sức khỏe lẫn nhau, rồi ngồi lui qua
một bên bạch Phật rằng:
“Bạch Cù-đàm, làm sao để có thể biết người nam bất
thiện?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Giống như trăng.”
Bà-la-môn lại hỏi:
“Làm sao để có thể biết người nam thiện?
Phật bảo Bà-la-môn:
“Giống như trăng.”
Bà-la-môn bạch Phật:
“Thế nào là người nam bất thiện giống như trăng?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Như trăng cuối tháng[40],
ánh sáng mất, màu sắc cũng mất, sở hệ cũng mất, ngày đêm càng lúc càng
tiêu giảm[41],
cho đến không còn xuất hiện. Cũng vậy, có người đối với Như Lai mà tín tâm
tịch tĩnh[42],
thọ trì tịnh giới, khéo học, nghe nhiều, nhường bớt phần mình để bố thí,
chánh kiến chân thật; nhưng sau đó lại thoái thất, tín tâm thanh tịnh đối
với Như Lai, đối với sự trì giới, bố thí, nghe nhiều, chánh kiến chân thật
ngay thẳng[43];
đối với sự bố thí, trì giới, đa văn, chánh kiến, tất cả đều bị đánh mất;
ngày đêm càng lúc càng tiêu giảm, cho đến trong khoảnh khắc tất cả đều bị
quên mất. Lại nữa, này Bà-la-môn, nếu người thiện nam nào, mà không thân
quen gần gũi thiện tri thức, không thường xuyên nghe pháp, không suy nghĩ
chân chánh, thân làm các hành vi ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ về những
điều ác, thì vì những nhân duyên ác đã tạo ra này, nên khi thân hoại mạng
chung sẽ bị đọa vào trong đường ác, địa ngục. Như vậy, này Bà-la-môn,
người nam bất thiện được ví như trăng.”
Bà-la-môn bạch Phật:
“Thế nào là người nam thiện được ví như trăng?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Như trăng đầu tháng[44],
ánh sáng và màu sắc tươi sáng, ngày đêm càng lúc càng sáng dần, cho đến
khi trăng đầy, hoàn toàn tròn đầy tươi sáng. Cũng vậy, người nam thiện đối
với pháp luật của Như Lai mà có được tín tâm thanh tịnh, cho đến, chánh
kiến chân thật, chân tịnh càng tươi sáng, giới tăng, thí tăng, đa văn
tăng, tuệ tăng, ngày đêm càng lúc càng tăng. Rồi vào lúc khác, gần gũi
thiện tri thức, nghe thuyết chánh pháp, bên trong suy nghĩ chân chánh,
thân làm các việc lành, miệng nói những lời lành, ý nghĩ những điều lành;
nhờ vào những nhân duyên này mà khi thân hoại mạng chung sẽ được hóa sanh
lên cõi trời. Này Bà-la-môn, vì vậy cho nên người nam thiện được ví như
trăng.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như
trăng trong không bợn,
Chu du
khắp hư không;
Trong tất cả tinh
tú,
Ánh trăng sáng
hơn hết.
Tịnh tín cũng như
vậy,
Giới, văn, rộng
bố thí,
Lìa bỏn sẻn trong
đời,
Bố
thí này sáng ngời.
Phật nói kinh này xong, Bà-la-môn
Tăng-ca-la nghe những gì Đức Phật đã dạy, tùy hỷ hoan hỷ từ chỗ ngồi đứng
dậy cáo lui.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại vườn Cấp cô độc, cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ có Bà-la-môn Sanh Văn đến chỗ Phật, cùng Thế
Tôn thăm hỏi sức khỏe nhau, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:
“Bạch Cù-đàm, tôi nghe Ngài nói rằng: “Chỉ nên cúng
dường cho Ta, không nên cúng dường cho người khác; cúng dường cho Ta sẽ
được quả báo lớn, không phải cúng dường cho người khác mà được quả báo
lớn. Nên cúng dường cho đệ tử của Ta, không nên cúng dường cho đệ tử người
khác; cúng dường cho đệ tử của Ta sẽ được quả báo lớn, không phải cúng
dường cho đệ tử của người khác mà được quả báo lớn.” Bạch Cù-đàm, thế nào,
những lời nói ấy có phải là lời nói thật chăng? Chẳng phải là hủy báng
Cù-đàm chăng? Nói đúng như thuyết, nói đúng như pháp, nói theo thuận thứ
của pháp, không bị người khác dùng đồng pháp đến quở trách chăng?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Người nào nói những lời như vậy là hủy báng Ta;
không nói đúng như thuyết, nói đúng như pháp, nói theo thuận thứ của pháp,
bị người khác dùng đồng pháp đến quở trách. Vì sao? Vì Ta không nói như
vầy: “Nên cúng dường cho Ta, không nên cúng dường cho người; cúng dường
cho Ta sẽ được quả báo lớn, không phải cúng dường cho người khác là được
quả báo lớn. Nên cúng dường cho đệ tử của Ta, cúng dường cho đệ tử của Ta
sẽ được quả báo lớn; không phải cúng dường cho đệ tử của người khác mà
được quả báo lớn.” Nhưng này Bà-la-môn Ta nói như vầy, những lời nói như
trên sẽ tạo ra hai thứ chướng ngại: chướng ngại cho việc cúng dường của
người thí chủ và làm chướng ngại cho người nhận đồ cúng dường.
“Này Bà-la-môn, cho đến bất cứ người nào, chỉ cần
đem thức ăn trong khi rửa bát chén còn lại, đổ ở trên đất sạch, khiến cho
những sanh vật nơi đó được sự lợi lạc, thì Ta nói những người đó đã được
vào cửa phước rồi, huống chi là bố thí cho con người. Này Bà-la-môn, tuy
nhiên Ta cũng nói, người nào cúng dường cho người trì giới, quả báo đó sẽ
không đồng với sự bố thí cho người phạm giới.”
Bà-la-môn Sanh Văn bạch Phật rằng:
“Thưa Cù-đàm, đúng vậy, tôi cũng nói như vậy, cúng
dường cho người trì giới sẽ được quả báo lớn, chứ không phải cúng dường
cho người phạm giới.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Hoặc
đen, hoặc trắng tinh,
Hoặc
đỏ, hoặc có màu,
Màu tạp
cùng vàng ròng,
Thuần
vàng cùng màu xám,
Những
trâu cái như vậy,
Trâu
con đẹp đẽ này,
Đầy đủ
sức cường tráng,
Khéo
huấn luyện, đi nhanh,
Chỉ
khiến chuyên chở nặng,
Không
hỏi màu sắc nó.
Con
người cũng như vậy,
Tùy thuộc vào nơi
sanh,
Sát-lợi,
Bà-la-môn,
Tỳ-xá, Thủ-đà-la,
Hạ tiện
Chiên-đà-la,
Nơi sanh thảy
không đồng.
Giả sử giữ tịnh
giới,
Lìa gánh nặng
phiền não,
Thuần nhất tu
phạm hạnh,
A-la-hán lậu tận,
Đấng Thiện Thệ
trong đời:
Cúng các Ngài,
quả lớn.
Người ngu không
trí tuệ,
Chưa từng nghe
chánh pháp:
Cúng kia không
quả lớn,
Vì không gần bạn
lành.
Nếu gần thiện tri
thức,
Như Lai cùng
Thanh văn,
Tín tịnh nơi
Thiện Thệ,
Căn sanh, lực
kiên cố,
Sẽ đi về đường
lành,
Sanh vào dòng tôn
quý,
Cứu cánh
Bát-niết-bàn,
Đại
Tiên nói như vậy.
Phật nói kinh này xong, Bà-la-môn
Sanh Văn nghe những gì Đức Phật đã dạy, tùy hỷ hoan hỷ làm lễ cáo lui.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại vườn Cấp cô độc, cây
Kỳ-đà, Xá-vệ. Bấy giờ, vào buổi sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành
Xá-vệ khất thực. Lúc ấy, có Bà-la-môn[47]
tuổi già sức yếu, chống gậy, cầm bát, đi khất thực từng nhà một. Bấy giờ,
Đức Thế Tôn bảo Bà-la-môn:
“Nay ông đã tuổi già sức yếu rồi, sao lại còn phải
chống gậy cầm bát đi khất thực từng nhà?”
Bà-la-môn bạch Phật:
“Bạch Cù-đàm, bao nhiêu tài vật có được ở trong nhà
tôi, tất cả đều giao cho con trai, cưới vợ cho con trai. Nhưng sau đó
chúng lại đuổi ra khỏi nhà, nên phải chống gậy, cầm bát đi khất thực từng
nhà.”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Ông có thể học thuộc lòng một bài kệ của Ta, rồi
trở về nhà, ở giữa mọi người Bà-la-môn, đọc cho con trai của ông nghe được
không?”
Bà-la-môn bạch Phật:
“Bạch Cù-đàm, có thể được.”
Bấy giờ, Đức Phật liền nói bài kệ:
Sanh
con lòng vui mừng,
Vì con tích chứa
của,
Rồi cưới vợ cho
con.
Nhưng mình phải
bỏ nhà.
Đứa con quê mùa
kia,
Nghịch, phụ ân
cha mẹ,
Thân người, tâm
La-sát,
Xua đuổi bậc già
cả.
Như ngựa già vô
dụng,
Bị cướp mất thóc
lúa,
Con trẻ mà cha
già,
Phải xin ăn từng
nhà.
Gậy cong này hơn
hết,
Ân ái hơn con đẻ,
Vì ta ngừa trâu
dữ,
Tránh đất hiểm,
được an,
Xua đuổi loài chó
dữ,
Giúp ta qua chỗ
tối,
Tránh hầm sâu,
giếng thẳm,
Cây cỏ và gai
gốc;
Nhờ sức oai cây
gậy,
Đứng vững không té ngã.
Sau khi nhận bài kệ từ Đức Thế Tôn,
người Bà-la-môn liền trở về giữa đám đông Bà-la-môn, đọc lại cho con trai
nghe. Trước hết ông cáo bạch mọi người: “Hãy nghe tôi nói.” Sau đó ông đọc
lại bài kệ như trên. Người con trai vừa xấu hổ vừa sợ hãi, liền ôm choàng
người cha mình đưa vào nhà, tắm rửa lau mình, mặc áo quần sạch sẽ và lập
làm gia chủ.
Rồi thì, Bà-la-môn tự nghĩ: “Ta có
được dòng họ tôn quý như hôm nay, là nhờ ân đức của Sa-môn Cù-đàm. Như
kinh điển của ta đã dạy: ‘Là Thầy thì cúng dường như bậc Thầy; là Hòa
thượng thì cúng dường như là Hòa thượng. Những gì ta đã được hôm nay đều
nhờ vào oai lực của Sa-môn Cù-đàm, Ngài là Thầy của ta. Hôm nay ta sẽ đem
chiếc y quí giá tốt đẹp nhất cúng dường cho Cù-đàm.”
Bấy giờ, Bà-la-môn đem chiếc y quí
giá nhất đến chỗ Đức Thế Tôn. Trước mặt Thế Tôn, cùng thăm hỏi sức khỏe
rồi, sau đó ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:
“Bạch Cù-đàm, ngày nay gia cư của
con được thành tựu là nhờ vào oai lực của đức Cù-đàm. Như kinh điển bên
con đã dạy: “Là Thầy thì cúng dường như là bậc Thầy, là Hòa thượng thì
cúng dường như là Hòa thượng.” Ngày nay Cù-đàm là Thầy của con, xin thương
xót con mà nhận chiếc y này.”
Vì thương xót mà Đức Thế Tôn đã
nhận chiếc y.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Bà-la-môn
mà nói đủ các pháp, chỉ dạy, làm sáng tỏ, làm cho vui mừng.
Bà-la-môn nghe những gì Đức Phật đã
dạy, tùy hỷ hoan hỷ, làm lễ cáo lui.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại vườn Cấp cô độc, cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ vào buổi sáng sớm, Đức Thế Tôn đắp y cầm bát
vào thành Xá-vệ khất thực. Lúc ấy có một Bà-la-môn tuổi già sức yếu, chống
gậy cầm bát đi khất thực từng nhà. Bà-la-môn này từ xa nhìn thấy Đức Thế
Tôn liền tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm chống gậy bưng bát, đi khất thực từng
nhà. Ta cũng chống gậy ôm bát đi khất thực từng nhà. Ta cùng Cù-đàm đều là
Tỳ-kheo[49].”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ để trả lời:
Được
gọi là Tỳ-kheo,
Chẳng
chỉ vì khất thực.
Kẻ trì
pháp tại gia,
Sao
được gọi Tỳ-kheo?
Đã lìa
dục tai hại,
Tu tập
các chánh hạnh,
Tâm
mình không sợ hãi,
Đó
gọi là Tỳ-kheo.
Phật nói kinh này xong, Bà-la-môn
kia nghe những gì Đức Phật đã dạy, tùy hỷ hoan hỷ làm lễ cáo lui.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức
Phật từ Câu-tát-la du hành trong nhân gian đến trụ trong rừng Nhất-na-la[51],
tại tụ lạc Nhất-na-la. Bấy giờ Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào tụ lạc
Nhất-na-la khất thực. Rồi Thế Tôn nghĩ: “Nay trời còn quá sớm. Giờ Ta hãy
đi đến chỗ phân phát ẩm thực[52]
của Bà-la-môn làm ruộng là Bà-la-đậu-bà-giá[53].”
Bà-la-môn chuẩn bị đủ năm trăm cái cày, đang phân phát ẩm thực. Từ xa
Bà-la-môn cày ruộng Bà-la-đậu-bà-giá nhìn thấy Đức Thế Tôn, bèn thưa rằng:
“Bạch Cù-đàm, nay tôi cày ruộng, gieo giống để cung
cấp lương thực. Vậy, Sa-môn Cù-đàm cũng nên cày ruộng gieo giống để cung
cấp lương thực!”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Ta cũng cày ruộng gieo giống, để cung cấp lương
thực.”
Bà-la-môn bạch Phật:
“Tôi không thấy Sa-môn Cù-đàm sắm cái cày, cái ách,
dây buộc, cái bừa, hay cái roi, mà nay Cù-đàm lại nói: “Ta cũng cày ruộng,
gieo giống, để cung cấp lương thực!”
Lúc ấy, Bà-la-môn cày ruộng Bà-la-đậu-bà-giá liền
nói kệ rằng:
Người
tự nói cày ruộng,
Mà
không thấy cái cày;
Lại bảo
tôi cày ruộng.
Xin
cho biết phép cày.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ đáp lại
rằng:
Tín
tâm là hạt giống,
Khổ
hạnh mưa đúng mùa,
Trí tuệ
là cày, ách,
Tàm quý
là cán cày.
Tự gìn
giữ chánh niệm,
Là
người giỏi chế ngự.
Giữ kín
nghiệp thân, miệng,
Như thực phẩm
trong kho.
Chân thật là xe
tốt,
Sống vui không
biếng nhác,
Tinh tấn không bỏ
hoang,
An ổn mà tiến
nhanh,
Thẳng đến không
trở lại,
Đến được chỗ
không lo.
Người cày ruộng
như vậy,
Chứng đắc quả
Niết-bàn.
Người cày ruộng
như vậy,
Không tái sinh các hữu.
Bấy giờ, Bà-la-môn cày ruộng
Bà-la-đậu-bà-giá bạch Phật rằng:
“Cù-đàm rất giỏi cày ruộng! Cù-đàm
cày ruộng thật hay!”
Rồi thì, sau khi nghe Đức Thế Tôn
nói kệ, tín tâm đối với ông càng tăng, Bà-la-môn cày ruộng
Bà-la-đậu-bà-giá đem dâng cúng Phật một bát đầy đồ ăn thức uống thơm ngon.
Đức Thế Tôn không nhận, vì có được là do nói bài kệ. Ngài bèn nói kệ rằng:
Không
vì việc nói pháp,
Nhận ăn
thức ăn này.
Chỉ vì
lợi ích người,
Nói
pháp không thọ thực.
Nói rộng như đã nói rộng với Hỏa chủng Bà-la-môn ở trước như vậy.
Lúc này, Bà-la-môn cày ruộng
Bà-la-đậu-bà-giá bạch Đức Phật rằng:
“Bạch Cù-đàm, giờ con đem thức ăn
này để chỗ nào?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Ta không thấy chư Thiên, Ma, Phạm,
Sa-môn, Bà-la-môn, thiên thần, hay người thế gian nào, mà dùng thức ăn này
được an ổn được. Này Bà-la-môn, ông hãy đem thức ăn này để vào trong nước
không có trùng hay chỗ đất nào ít cỏ tươi.”
Khi ấy, người Bà-la-môn này đem
thức ăn đặt vào trong nước không có trùng, nước liền bốc khói, sôi bùng
kêu xèo xèo. Như hòn sắt nóng được ném vào trong nước lạnh phát ra tiếng
kêu xèo xèo; cũng vậy, thức ăn này được để vào trong nước không có trùng
thì sôi bùng khói bốc lên và phát ra tiếng kêu xèo xèo. Bà-la-môn tự nghĩ:
“Sa-môn Cù-đàm thật là kỳ đặc, có oai đức lớn, có oai lực lớn nên mới có
thể làm cho đồ ăn thức uống thần biến như vậy.” Khi Bà-la-môn thấy thức ăn
hiện điềm lành, lòng tin của ông càng tăng, lại bạch Phật rằng:
“Bạch Cù-đàm, nay con có thể được
phép ở trong chánh pháp xuất gia thọ cụ túc không?”
Đức Phật bảo Bà-la-môn:
“Nay ông có thể được phép ở trong
chánh pháp, xuất gia thọ cụ túc; được làm Tỳ-kheo.”
Sau khi Bà-la-môn này xuất gia rồi,
một mình lặng lẽ tư duy về lý do người dòng họ quý tộc cạo bỏ râu tóc, mặc
áo ca-sa, chánh tín, xuất gia, học đạo, sống không gia đình, cho đến đắc
quả A-la-hán, tâm khéo giải thoát.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại thành Vương xá. Bấy giờ có
Tôn giả tên là Tịnh Thiên[55],
từ nước Tỳ-đề-ha du hành trong nhân gian đến trong vườn Am-la tại thành
Di-hy-la. Sáng hôm ấy, Tôn giả Tịnh Thiên đắp y mang bát vào thành
Di-hy-la khất thực, theo thứ tự khất thực, đi lần đến nhà cũ.
Cũng lúc ấy, mẹ của Tịnh Thiên, tuổi đã già, đang
dâng lễ cúng thần lửa tại nhà giữa để cầu sanh lên cõi Phạm thiên, mà
không biết Tôn giả Tịnh Thiên đang đứng ngoài cửa. Bấy giờ, Tỳ-sa-môn
Thiên vương đối với Tôn giả Tịnh Thiên sanh lòng kính tin cực kỳ.
Tỳ-sa-môn Thiên vương, cùng với các hàng Dạ-xoa theo sau, đang nương vào
hư không mà đi, thấy Tôn giả Tịnh Thiên đang đứng ngoài cửa; lại thấy
trong nhà giữa mẹ Tôn giả đang bưng đồ ăn thức uống dâng cúng thần lửa, mà
không thấy con mình đang đứng ngoài cửa. Thấy vậy, từ không trung hạ
xuống, đến trước mặt mẹ Tịnh Thiên nói kệ rằng:
Bà-la-môn-ni này,
Phạm
thiên thật xa vời,
Vì muốn
sanh nơi đó,
Ở đây
thờ cúng lửa.
Chẳng
phải đường Phạm thiên,
Thờ tự
chi vô ích?
Này Bà-la-môn-ni,
Tịnh Thiên đứng
ngoài cửa,
Cấu uế đã dứt
sạch,
Là trời trong các
trời.
Vắng lặng không
có gì,
Một mình không
tài sản,
Vì khất thực vào
nhà,
Là người đáng
cúng dường.
Tịnh Thiên khéo
tu thân,
Ruộng phước tốt
Trời, Người,
Xa lìa tất cả ác,
Không hề nhiễm,
bị nhiễm,
Đức đồng với Phạm
thiên.
Thân tuy ở nhân
gian,
Mà không nhiễm
pháp nào,
Như rồng đã thuần
thục[56],
Tỳ-kheo sống
chánh niệm,
Tâm mình khéo
giải thoát.
Nên dâng nắm cơm
đầu[57],
Là ruộng phước
tối cao.
Nên đem tâm chánh
tín,
Kịp thời cúng
dường nhanh.
Nên dự lập hòn
đảo,
Khiến vị lai an
lạc.
Bà xem ẩn sĩ
[58]
này,
Đã qua dòng biển
khổ.
Cho nên hãy tín
tâm,
Kịp thời cúng
dường nhanh;
Nên dự lập hòn
đảo,
Khiến vị lai an
lạc.
Thiên vương
Tỳ-sa-môn,
Chỉ
bày, bỏ thờ lửa.
Bấy giờ, Tôn giả Tịnh Thiên vì mẹ
mình mà nói pháp bằng nhiều cách, soi sáng chỉ bày, làm cho an vui, rồi
trở ra đường mà đi.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại vườn Cấp cô độc, cây
Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ có một Bà-la-môn đến chỗ Phật, cùng thăm hỏi
sức khỏe, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:
“Bạch Cù-đàm, gọi là Phật, vậy thế nào là Phật? Là
tên do cha mẹ đặt, hay là do Bà-la-môn đặt?”
Rồi Bà-la-môn liền nói kệ rằng:
Phật
là tên hơn hết,
Vượt lên cả thế
gian,
Là do cha mẹ đặt,
Gọi
đó là Phật chăng?
Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ đáp
rằng:
Phật
thấy đời quá khứ,
Thấy vị
lai cũng vậy,
Cũng
thấy đời hiện tại,
Tất cả
hành khởi diệt,
Trí
sáng biết rõ ràng,
Điều
cần tu đã tu,
Điều
nên đoạn đã đoạn,
Cho nên
gọi là Phật.
Nhiều
kiếp tìm lựa chọn,
Thuần khổ không
chút vui,
Có sanh ắt có
diệt,
Xa lìa dứt bụi
nhơ,
Nhổ gốc gai kết
sử,
Đẳng giác gọi là Phật.
Phật nói kệ xong, Bà-la-môn nghe
những gì Đức Phật đã dạy, tùy hỷ hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại nước Câu-tát-la, du hành
trong nhân gian, ngồi nghỉ trưa[61]
dưới một bóng cây giữa hai thôn Hữu-tùng-ca-đế[62]
và Đọa-cưu-la[63].
Lúc ấy có một Bà-la-môn thuộc dòng họ Đậu-ma[64]
đang đi trên con đường kia, đến sau Phật. Ông thấy dấu chân Phật hiện ra
như bánh xe ngàn căm, dấu chỉ rõ ràng, chỉ bên trong thì đều, vòng chỉ bên
ngoài thì tròn, tất cả đều đẹp đẽ và đầy đặn. Thấy vậy, liền tự nghĩ: “Ta
chưa từng thấy người thế gian nào mà có dấu chân như vậy. Giờ ta phải theo
dấu mà tìm ra người này.”
Ông liền theo dấu chân đưa đến chỗ Phật, thấy Đức
Thế Tôn đang ngồi nghỉ trưa dưới một bóng cây, dung mạo đoan nghiêm tuyệt
thế, các căn vắng lặng, tâm Ngài an định tịch tĩnh, điều phục đệ nhất,
thành tựu chánh quán, ánh sáng rực rỡ, giống như núi vàng.
Sau khi đã thấy vậy rồi, liền bạch:
“Ngài là Trời chăng?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Ta chẳng phải là Trời.”
Lại hỏi:
“Là Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la,
Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân chăng?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Ta chẳng phải Rồng … cho đến Nhân, Phi nhân.”
Bà-la-môn bạch Phật:
“Nếu bảo rằng chẳng phải Trời, chẳng phải Rồng… cho
đến chẳng phải Nhân, chẳng phải Phi nhân, vậy thì Ngài là ai?”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ đáp rằng:
Trời,
Rồng, Càn-thát-bà,
Khẩn-na-la,
Dạ-xoa,
A-tu-la không
lành,
Những
La-hầu-la-già,
Nhân cùng chẳng
phải Nhân,
Đều do phiền não
sanh.
Lậu hoặc phiền
não này,
Tất cả, Ta đã bỏ,
Đã phá, đã diệt
sạch,
Như hoa
Phân-đà-lợi,
Tuy sanh từ trong
nước,
Nhưng chưa từng
dính nước.
Ta tuy sanh thế
gian,
Chẳng bị nhiễm
thế gian,
Nhiều kiếp thường
lựa chọn,
Thuần khổ không
chút vui.
Tất cả hành hữu
vi,
Thảy đều bị sanh
diệt,
Trừ nhơ, không
lay động,
Đã nhổ sạch gai
góc,
Cùng tột bờ sanh
tử,
Cho
nên gọi là Phật.
Phật nói kinh này xong, Bà-la-môn
Đậu-ma nghe những gì Đức Phật đã dạy, tùy hỷ hoan hỷ, rồi tiếp tục mà đi.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở vườn Trúc, khu Ca-lan-đà,
thành Vương xá. Bấy giờ vào buổi sáng sớm, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào
thành Vương xá khất thực, theo thứ tự khất thực, đến nhà Bà-la-môn
Bà-la-đậu-bà-giá[66].
Lúc ấy, Bà-la-môn tay cầm cái thìa gỗ đựng đầy thức ăn, sửa soạn cúng
dường lửa, đang đứng ở bên cửa. Từ xa trông thấy Phật đi đến, ông liền gọi
Phật rằng:
“Hãy dừng lại! Dừng lại! Này gã tiện dân[67],
chớ đến gần cửa tôi.”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Ông có biết tiện dân và pháp của tiện dân không?”
Bà-la-môn nói:
“Tôi không biết
tiện dân và cũng không biết pháp của tiện dân. Vậy, Sa-môn Cù-đàm có biết
tiện dân và pháp của tiện dân không?”
Phật bảo:
“Ta biết rõ về tiện dân và pháp của tiện dân.”
Ngay lúc đó Bà-la-môn để xuống những dụng cụ thờ
lửa, vội vàng trải giường ngồi, mời Đức Phật ngồi và thưa rằng:
“Bạch Cù-đàm, xin vì tôi mà nói về tiện dân và pháp
của tiện dân.”
Đức Phật liền ngồi vào chỗ ngồi và nói kệ rằng:
Tâm
sân nhuế ôm hận,|
Che giấu các lỗi
lầm,
Khởi ác kiến,
phạm giới,
Dối trá không
chân thật;
Những con người
[68]
như vậy,
Nên biết, là tiện
dân.
Hung bạo, tham,
bủn xỉn,
Ác dục, keo, trá
ngụy,
Tâm không hổ,
không thẹn,
Nên biết, là tiện
dân.
Loài một sanh,
hai sanh,[69]
Tất cả đều sát
hại,
Không có lòng
thương xót,
Đó là hạng tiện
dân.
Hoặc giết, trói,
đánh, đập,
Thôn xóm cùng
thành ấp,
Trách mắng cách
vô đạo,[70]
Biết đó là tiện
dân.
Ở, dừng và đi
đường,
Dẫn đầu một nhóm
đông,
Hành hạ người
dưới tay,
Gây sợ hãi bức
hiếp,
Thủ lợi về cho
mình,
Biết đó là tiện
dân.
Thôn xóm cùng đất
trống,
Vật có chủ, không
chủ,
Chiếm đoạt làm
của mình,
Biết đó là tiện
dân.
Tự bỏ bê vợ mình,
Lại không vào nhà
điếm,
Mà xâm đoạt vợ
người,
Biết đó là tiện
dân.
Những thân thuộc
trong ngoài,
Thiện tri thức
đồng tâm,
Xâm phạm vật họ
yêu,
Biết đó là tiện
dân.
Nói dối lừa gạt
người,
Gạt lấy của không
chứng,
Người đòi mà
không trả,
Biết đó là tiện
dân.
Vì mình cũng vì
người,
Vì trách, hoặc vì
tiền,[71]
Mà hùa theo lời
người,
Nói dối, chứng
cho người;
Người nói dối như
vậy,
Biết đó là tiện
dân.
Tạo nghiệp ác,
bất thiện,
Không có người
hay biết,
Ẩn giấu che tội
ác,
Biết đó là tiện
dân.
Nếu người hỏi
nghĩa này,
Lại đáp bằng phi
nghĩa,
Điên đảo lừa dối
người,
Biết đó là tiện
dân.
Thật trống, không
có gì,
Mà khinh chê
người trí,
Ngu si vì lợi
mình,
Biết đó là tiện
dân.
Cao mạn tự huênh
hoang,
Đi chê bai người
khác,
Kiêu mạn thật
thấp hèn,
Biết đó là tiện
dân.
Tự tạo các lỗi
lầm,
Lại đổ lỗi người
khác,
Nói dối chê thanh
bạch,
Biết đó là tiện
dân.
Trước nhận lợi
dưỡng người,
Khi người ấy đến
mình,
Không có lòng đền
đáp,
Biết đó là tiện
dân.
Sa-môn,
Bà-la-môn,
Đến khất cầu như
pháp,
Không cho mà quở
trách,
Biết đó là tiện
dân.
Nếu cha mẹ tuổi
già,
Khí lực trẻ đã
suy,
Không chăm lo
phụng dưỡng,
Biết đó là tiện
dân.
Cha mẹ, bậc tôn
trưởng,
Anh em, quyến
thuộc thân.
Thật không phải
La-hán,
Tự hiện đức
La-hán,
Là giặc lớn thế
gian,
Biết đó là tiện
dân.
Sanh dòng họ tôn
quý,
Học sách
Bà-la-môn,
Mà ở trong chỗ
đó,
Tập làm các
nghiệp ác,
Không vì sanh nơi
quý,
Mà khỏi tội,
thoát đường ác;
Hiện tại bị quở
trách,
Đời sau vào đường
ác.
Sanh nhà
Chiên-đà-la,
Đời gọi Tu-đà-di[72],
Tiếng đồn khắp
thiên hạ,
Chiên-đà-la không
có;
Bà-la-môn,
Sát-lợi,
Đại tộc, thảy
cúng dường.
Theo đường lên
Tịnh thiên[73],
Sống bình đẳng
chân thật,
Không vì chỗ sanh
chướng,
Mà không sanh
Phạm thiên,
Hiện tại tiếng
đồn tốt,
Đời sau sanh cõi
lành,
Hai đời ông nên
biết,
Như Ta đã chỉ
bày,
Không vì dòng họ
sanh,
Mà gọi là tiện
dân.
Không vì dòng họ
sanh,
Mà gọi Bà-la-môn.
Hành nghiệp,
thành tiện dân;
Hành nghiệp, Bà-la-môn.
Bà-la-môn bạch Phật rằng:
Đại
Tinh Tấn, đúng vậy!
Đại
Mâu-ni, đúng vậy!
Không vì chỗ sanh
ra,
Mà gọi là tiện
dân,
Không vì chỗ sanh
ra,
Gọi là Bà-la-môn,
Hành nghiệp,
thành tiện dân;
Hành nghiệp, Bà-la-môn.
Bấy giờ, Bà-la-môn thờ lửa
Bà-la-đậu-bà-giá càng được thêm tín tâm, bèn lấy bát đựng đầy thức ăn
thượng hảo dâng lên Đức Thế Tôn. Thế Tôn không nhận, vì nói bài kệ này mà
có được, như bài kệ đã nói trên.
Bấy giờ, Bà-la-môn thờ lửa
Bà-la-đậu-bà-giá thấy thức ăn hiện ra điềm lạ (như kinh 98) lòng
tin của ông càng tăng, bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn, nay con có được phép
ở trong Chánh pháp luật xuất gia thọ cụ túc không?”
Phật bảo Bà-la-môn:
“Nay ông được phép ở trong Chánh
pháp luật xuất gia thọ cụ túc.”
Sau khi được xuất gia rồi, một mình
lặng lẽ tư duy (như trước đã nói … cho đến đắc quả A-la-hán, tâm khéo
giải thoát).
Khi Bà-la-môn Bà-la-đậu-bà-giá đã
đắc A-la-hán, tâm khéo giải thoát rồi, thì tự biết được hỷ lạc, liền nói
bài kệ rằng:
Trái đạo, cầu thanh tịnh,
Cúng dường tế thần lửa,
Không biết
đạo thanh tịnh,
Như kẻ mù
bẩm sinh.
Nay đã được
an lạc,
Xuất gia thọ
cụ túc,
Chứng đạt
được ba minh.
Lời Phật dạy
đã làm,
Trước
Bà-la-môn khó,
Nay là
Bà-la-môn,
Đã tắm, sạch
bụi bẩn,
Vượt chư Thiên bờ kia.[74]
-ooOoo-
[1].
Ấn Thuận Hội Biên, tiếp theo Tụng 5 Bát
chúng, 21. Tương ưng Bà-la-môn (Đại Chánh kinh 1151-1163, 88-102,
1178-1187). Đại Chánh, quyển 4, kinh 88, tương đương Pāli, S. 7. 19
Mātuposaka; Biệt dịch 100(88).
[2].
Uất-đa-la
鬱多羅;
xem kinh 282. Pāli: Mātupasako brāhmaṇo:
Bà-la-môn tên là Mātupasaka.
[3].
Pāli, A.iv. 39 Ujjaya. Cf. Biệt dịch, 100
(89).
[4].
Ưu-ba-ca
優波迦.
Pāli: Ujjayo brāhmaṇo: Bà-la-môn tên là
Ujjaya.
[5].
Tà thạnh đại hội
邪盛大會.
№100(89): đại tự
大祀.
Pāli: (mahā)yañña.
[6].
Mã tự, loại tế đàn trong đó là vật hy
sinh. Bản Pāli liệt kê: assamedham, hy
sinh ngựa; purisanedham, hy sinh người;
sammāpāsam, lễ ném gậy;
vājapeyya, lễ uống rượu (để thêm sức),
niraggaḷa, vô già hội (lễ rút then).
[7].
Pāli, A.iv. 40. Udāyi. Cf. Biệt dịch,
№100(90).
[8].
Bản Pāli, người hỏi là Bà-la-môn Udāyi.
[9].
Pāli, A. viii. 55. Ujjaya. Cf. Biệt dịch,
№100(91).
[10].
Uất-xà-ca
鬱闍迦.
Pāli, Ujjaya brāhmaṇa.
[11].
Hán: hiện pháp an cập hiện pháp lạc
現法安及現法樂.
Pāli: diṭṭhadhammahitaya diṭṭhadhammasukhāya.
[12].
Hán: phương tiện cụ túc
方便具足.
Pāli: uṭṭhānasampāda: thành tựu tinh cần.
[13].
Cf. Pāli:
kalyāṇamittā... saddhasampannā, sīlasampannā, cāgasampannā,
paññā-sampannā, bạn tốt... là những người có tín, có giới, có
thí xả, có tuệ.
[14].
Bản Cao-li: ưu-đàm-bát quả
優曇鉢果;
bản Tống-Nguyên-Minh: ưu-đàm-bát hoa. Bản Pāli:
udumbarakhādīvāyam kulaputto bhoge khādātī ti, “thiện nam tử
này thọ dụng như người ta ăn quả sung. Sớ giải: như người rung cây
sung chín, làm rụng nhiều quả, nhưng chỉ ăn vài quả ăn được, còn thì
vất bỏ hết.
[15].
Hán: cập dư thế nhân đồng pháp
及餘世人同法.
Pāli: sadevamanussa, bản Hán hiểu tiền tố
sa- (cùng với) là “đồng pháp”. Xem kinh 647 ở sau.
[16].
Hán: giải thoát thí
解脫施.
Pāli: muttacāga.
[17].
Hán, phương tiện, đây nên hiểu “tinh
cần”. Pāli: uṭṭhātā kammadheyyesu, hăng
hái trong các sự nghiệp.
[18].
Để bản: tốc đạo
速道
; bản Nguyên-Minh: mê đạo
迷道;
Ấn Thuận cũng hiệu chính là “mê đạo”. Hiệu chính nhầm. Pāli:
niccaṃ maggam, thường đạo. Đây chỉ con
đường sinh thiên.
[19].
Pāli: S. 7. 35. Mānatthaddha. Cf.
№100(258).
[20].
Kiêu mạn Bà-la-môn
憍慢婆羅門.
Pāli: Mānatthaddo nāma brāhmaṇo, người
Bà-la-môn tên là Mānatthaddha. №100(258): Cực Mạn ma-nạp
極慢摩納.
[21].
Nghĩa là, thuần chủng, không lai giống.
[22].
Để bản: phân minh
分明;
Tống-Nguyên-Minh: phân biệt
分別.
[23].
Để bản: chư cú cú ký thuyết
諸句句記說;
sau chữ chư 諸
, bản Nguyên Minh thêm: (chư) tự tất tri vạn sự cửu viễn, bản mạt nhân
duyên (諸)字悉知萬事九遠本末因緣.
“...biết rõ căn nguyên chung thủy, lịch sử lâu dài của vạn sự...”
[24].
Bản Pāli và №100(258) không có chi tiết
này.
[25].
Pāli: nāyaṃ samaṇo
gotamo kiñci jānati, “Sa-môn Cù-đàm này chẳng biết gì.”
[26].
Pāli: yena atthena
āgacchi, tam evam anubrūhaye, “Ông hãy nói, đến đây với mục
đích gì?”
[27].
Bản Pāli: Ông lễ dưới chân Phật và ôm hôn
chân Phật.
[28].
Pāli: yato te mayi
cittaṃ pasannaṃ, “Do đâu ông có tâm tịnh tín đối với Ta?”
[29].
Pāli: kesu,
“đối với những ai”. Bản Hán hiểu “đối với cái gì?”
[30].
Hán: thị, giáo, chiếu, hỷ.
[31].
Xem các kinh 1158, 1323. So sánh Pāli,
định cú, D.i. 110 và rải rác: anupubbiṃ kathaṃ
kathesi... kāmānaṃ ādinavaṃ okāraṃ saṃkilesaṃ nekkhamme ānsaṃsaṃ
pakāsesi, Phật thuyết pháp theo tuần tự... nói về sự nguy hiểm
của các dục, sự thấp hèn, sự ô nhiễm, nói về lợi ích của sự xuất ly.
[32].
Nguyên Hán: vô gián đẳng
無間等;
chỉ hiện quán hay hiện chứng bốn Thánh đế, giai đoạn chứng đắc Dự lưu
chi. Tham chiếu Pāli, định cú, S.v. tr. 415:...
catunnaṃ ariyasaccānaṃ yathābhūtaṃ abhisamayāya.
[33].
Pāli, A.vii.44 Aggi. Cf. №100(259).
[34].
Nguyên Hán: tà thạnh đại hội
邪盛大會;
xem kinh 89 trên. Pāli: mahāyañña; xem
thêm D. i. 138sq.
[35].
Trường Thân
長身.
Pāli: Uggatasarīra.
[36].
Tà thạnh pháp
邪盛法
(Pāli: tividhaṃ yaññasampadaṃ), chỉ ba
nghi thức tế tự. Phần số
分數,
chỉ mười sáu tư cụ hay đạo cụ cho tế tự (Pāli:
soḷasaparikkhāraṃ). Tham chiếu Pāli, Kūṭadantasutta, D. i. 129.
[37].
Xem cht. 31 kinh 92 trên.
[38].
Xem cht. 32 kinh 92 trên.
[39].
Cf. №100(260); N 26. 148 (kinh Hà Khổ,
đoạn cuối); №125 (17.8); Cf. A.v. 31.
[40].
Hán: nguyệt hắc phần
月黑分,
phần tối của tháng, phần nửa sau của mỗi tháng. Pāli:
kāla-pakkha.
[41].
Để bản: diệt
滅.
Đọc theo bản Tống: giảm
減.
[42].
Để bản: tín gia tâm
信家心.
Tống-Nguyên-Minh: tín tịch tâm
信寂心.
Đoạn dưới: tịnh tín
淨信.
[43].
Hán: chân trực
真直;
đoạn trên: chân thật
真實.
[44].
Hán: nguyệt tịnh phần
月淨分,
phần sáng của tháng. Pāli: sukka-pakkha.
[45].
A. iii. 57 Vacchagotta. Hán, №100(261).
[46].
S. 7. 14 Mahāsāla. Biệt dịch, №100(262).
[47].
Pāli:
brāhmaṇamahāsālo, đại phú Bà-la-môn.
[48].
S.7. 20. Bhikkhaka. Biệt dịch, №100(263).
[49].
Pāli: Bhikkhako,
người ăn xin, hành khất. Bản Hán hiểu là Bikkhu.
[50].
S. 7. 11. Kasi; Sn. 14. Biệt dịch,
№100(264).
[51].
Nhất-na-la
一那羅.
Pāli: Ekanālā.
[52].
Hán: tác ẩm thực xứ
作飲食處.
Pāli: parivesanā, sự phân phối thực phẩm,
hay sự dọn ăn.
[53].
Hán: canh điền Bà-la-đậu-bà-giá
耕田婆羅豆婆遮.
Pāli: kasi-bhāradvāja-brāhmaṇa.
[54].
S. 6. 3. Brahmadeva. Biệt dịch,
№100(265).
[55].
Tịnh Thiên
淨天.
Pāli: brāhmaṇiyā brahmadevo nāma... pabbajito,
con trai của một nữ Bà-la-môn, tên là Brahmadeva, đã xuất gia.
[56].
Hán: thuần thục long
淳熟龍;
nên hiểu là “voi chúa đã được khéo huấn luyện”. Pāli:
nāgavo danto.
[57].
Nguyên bản: sơ Phật
初佛.
Bản Tống: sơ đoàn
初揣.
[58].
Nguyên Hán: mâu-ni
牟尼.
[59].
Biệt dịch, №100(266).
[60].
A. iv. 36 Loke. Biệt dịch, №100(267),
№125(38.3).
[61].
Nguyên bản: nhập tận chánh thọ
入盡正受.
Theo bản Tống, sửa lại: nhập trú...
入晝.
Pāli: divāvihāra.
[62].
Hữu-tùng-ca-đế
有從迦帝.
Bản Tống: Hữu-tỉ-ca-đế
有徙迦諦.
Pāli: Ukkṭṭha.
[63].
Đọa cưu-la
墮鳩羅.
Pāli: Setavya.
[64].
Đậu-ma chủng tánh
豆磨種姓.
Pāli: Doṇo brāhmaṇo, Bà-la-môn Doṇa.
[65].
Sn. 1.7. Vasala. Biệt dịch, №100(268).
[66].
Bà-la-đậu-bà-giá
婆羅豆婆遮.
Pāli: Aggika-Bhāradvāja, Bhāradvāja thờ
lửa.
[67].
Nguyên Hán: lãnh quần đặc
領群特:
gã chăn bò. Pāli: vasalaka, gã tiện dân,
người hèn hạ. Bản Hán đọc là vacchalaka.
[68].
Nguyên Hán: sĩ phu
士夫.
[69].
Nhất sanh, nhị sanh
一生二生.
Pāli: ekajaṃ vā dvijaṃ; Sớ giải: trừ loài sanh trứng, còn lại là loài
một (lần) sanh. Hai lần sanh, là loài sanh trứng.
[70].
Pāli: niggāhako
samaññāto, kẻ được gọi là áp bức. Bản Hán hiểu niggāhaka là kẻ
trách mắng.
[71].
Để bản: (...) cập tài dữ
及財與:
hoặc vì người cho tiền (mà làm chứng dối). Ấn Thuận theo
Tống-Nguyên-Minh sửa lại là (...) cập vô trách
及無責
(không bị quở trách). Pāli: dhanahetu.
[72].
Tu-đà-di
須陀夷;
có lẽ đồng nhất với Mātaṅga của Pāli:
Bồ-tát sanh làm người Chiên-đà-la (giai cấp hạ tiện) tên là Mātaṅga,
nhưng danh tiếng đồn vang, khiến các nhà đại tộc cũng phải cung kính.
Xem Mātaṅga jātaka (№497).
[73].
Tịnh thiên đạo
淨天道
, tức đường dẫn lên Phạm thiên.
[74].
Bản Hán, “21. Tương ưng Bà-la-môn” đến
đây bị cắt ngang do sự rối loạn số quyển. Tương ưng này được nối tiếp
với kinh số 1178, quyển 44.