Hôm nay chúng ta sẽ được
nghe quý thầy, quý sư cô hát nhạc Trịnh Công Sơn. Bây giờ mời đại chúng
nghe Sư cô Chân Không hát bài Nắng Thủy Tinh.
“Màu nắng hay là màu mắt em, mùa
thu mưa bay cho tay mềm, chiều nghiêng nghiêng bóng nắng qua thềm, rồi
có hôm nào mây bay lên (...) ngàn cây thắp nến nến hai hàng, để nắng đi
vào trong mắt em”.
Mẹ - Trịnh Công Sơn sinh năm Kỷ Mão,
1939. Thân phụ là một người yêu nước, đã tham gia kháng chiến chống Pháp
nên đã bị cầm tù nhiều năm ở Lao Thừa Phủ, vì vậy Trịnh Công Sơn được
tiếp nhận hạt giống yêu nước và dũng cảm từ ba mình.
Sở dĩ Trịnh Công Sơn dám nói những gì
mình nghĩ qua những bài hát ông sáng tác là nhờ Trịnh Công Sơn có sự can
đảm, có lòng yêu nước, yêu dân. Có nhiều người cũng có cùng cảm nghĩ
như Trịnh Công Sơn nhưng không dám nói ra. Thế nên có những bài hát của
ông được gọi là phản chiến, phản chiến nhưng kỳ thực không phải là phản
chiến. Những lời nói của ông là những lời nói rất trung thực. Thấy những
người anh em của mình, anh em miền Nam cũng như miền Bắc, chết mỗi
ngày, Trịnh Công Sơn rất đau khổ nên đã nói ra sự thực đó.
Yêu nước, yêu dân, can đảm, đó là
những hạt giống chúng ta có thể nhận thấy trong Trịnh Công Sơn. Trong
mỗi con người chúng ta cũng vậy, cũng có hạt giống yêu nước thương dân.
Vì vậy nghe Trịnh Công Sơn, chúng ta có cảm nhận như Trịnh Công Sơn đang
nói dùm cho ta.
Mẹ của Trịnh Công Sơn là một người mẹ
kiểu mẫu, một phật tử rất thuần thành, đi chùa thường xuyên, có lòng từ
bi rất lớn, đã chịu đựng bao nhiêu khó khăn, gian khổ để nuôi con. Thân
phụ của Trịnh Công Sơn bị tai nạn mất năm Trịnh Công Sơn mới 15 tuổi, bà
phải một mình vừa làm cha, vừa làm mẹ nuôi tám đứa con. Đã có rất nhiều
người đàn bà đi ngang qua cuộc đời của Trịnh Công Sơn, nhưng không có
ai ở lâu với Trịnh Công Sơn cả, chỉ có một người duy nhất ở lâu với
Trịnh Công Sơn đó là mẹ ông. Trịnh Công Sơn luôn luôn quay về nương tựa
mẹ, một tình mẫu tử rất bền bỉ. Lớn rồi mà vẫn thấy mình là đứa con nít
cần có mẹ. “Mẹ bỏ con đi, mẹ bỏ con bơ vơ một mình”. Trịnh Công Sơn có
lần than thở, có lần ký thác tâm sự của mình rằng đứng trước một xác
chết, một thây người vừa ngã xuống vì súng đạn, Trịnh Công Sơn không
nghĩ đó là ta hay địch, cộng sản hay quốc gia. Trịnh Công Sơn chỉ biết
đó là một người đồng bào, một người anh em vừa mới chết, là nạn nhân của
một cuộc chiến tranh thảm khốc vô nghĩa. Đây là nguyên văn của Trịnh
Công Sơn:
“Khi tôi đứng bên một xác người,
tôi không nghĩ đó là ta hay là địch, mà đó là một thân phận chịu đựng sự
vô nghĩa của chiến tranh”.
Thấy người nào chết cũng thương hết vì
người nào cũng là đồng bào của mình. Hát và nói ra như vậy rất nguy
hiểm. Chúng tôi cũng đã làm những bài thơ như vậy, những bài thơ nói về
kháng chiến, nói về sự vô lý của chiến tranh và nói rằng anh em một nhà
không nên bôi mặt đá nhau. Những bài thơ đó được xuất bản trước những
bản nhạc của Trịnh Công Sơn vài năm, được đăng trên các tờ báo Hải Triều
Âm và Thiện Mỹ nhưng người ta gọi đó là thơ phản chiến. “Anh nhân danh
ai, em nhân danh ai, mà giết nhau?” và tôi kêu gọi hai bên đều trở về
quỳ dưới chân mẹ sám hối. Những bài thơ đó, nếu quý vị muốn đọc lại thì
tìm trong cuốn “Thơ Từng Ôm Và Mặt Trời Từng Hạt”.
Mẹ của Trịnh Công Sơn đã trao cho
Trịnh Công Sơn những hạt giống rất lành và rất đẹp, đầy tình người, đầy
tình thương yêu. Trịnh Công Sơn là người thực tập giới thứ nhất rất tốt,
bởi vì nhận thức của Trịnh Công Sơn về sinh mạng con người rất phù hợp
với nhận thức của đức Thế Tôn. Trịnh Công Sơn nói rằng không ai có quyền
quyết định sinh mạng của con người, không ai có quyền cho người này
chết hay người kia sống. Tôi xin đọc nguyên văn của Trịnh Công Sơn để
quý vị có thể thấy rõ điều này:
“Chúng ta là một con người, chúng
ta không phải là thượng đế, chúng ta không có quyền định đoạt số phận
của người khác. Ta không thể nói người này đáng được sống, người kia
đáng giết. Mình không có quyền cho phép ai chết cả, ngay cả giải quyết
số phận của một ngọn cỏ cũng phải suy nghĩ, ngắt đi một bông hoa bên vệ
đường cũng phải suy tư, huống chi số phận con người quá lớn và chúng ta
không có quyền quyết định số phận con người”.
Đó là giới thứ nhất, bảo vệ sinh mạng.
Lời nói này là lời nói của Bụt, của đức Thế Tôn. Trịnh Công Sơn đã đại
diện đức Thế Tôn để nói lên điều này. Vì vậy Trịnh Công Sơn không tham
dự vào cuộc chiến, đó cũng là chuyện đương nhiên. Hạt giống của nhân ái,
của từ bi mà mẹ nhạc sĩ đã trao cho nhạc sĩ được thấy rất rõ trong
những bài hát của Trịnh Công Sơn. Những bài hát chuyên chở lòng nhân ái
và tình người đó, chúng ta có thể hát để tưới tẩm hạt giống từ bi và để
làm tan rã những chất liệu hận thù trong ta. Những bài hát của Trịnh
Công Sơn nói về tình người giống như những bài kinh mà ta có thể tụng
được. Tôi bắt đầu thương Trịnh Công Sơn khi nghe Khánh Ly hát bài Tình
ca của người mất trí.
“Tôi có người yêu chết trận Plei-me
Tôi có người yêu ở chiến khu "Đ"
Chết trận Đồng Xoài, chết ngoài Hà Nội
Chết vội vàng dọc theo biên giới.
Tôi có người yêu chết trận Chu Prong
Tôi có người yêu bỏ xác trôi sông
Chết ngoài ruộng đồng
Chết rừng mịt mùng mình cháy như than…”
Người yêu, người thiếu nữ đó là ai? Là
bất cứ người nào. Họ là người Nam. Họ là người Trung, tất cả đều là
người yêu của tôi và họ chết thì tôi điên. Tôi muốn yêu anh, yêu Việt
Nam và tình yêu này là tình yêu đối với một người, mà cũng là tình yêu
chung cho cả dân tộc. Nghe bài này chúng ta thấy rất rõ, rằng người yêu
trong bài hát đó là tất cả những người con trai Việt Nam, những người
con trai sinh ra ở miền Bắc, những người con trai sinh ra ở miền Nam, và
những người con trai sinh ra ở miền Trung. Vì cuộc chiến tương tàn mà
những người này phải chết, thế nên ta thương hết tất cả những người này,
vì tất cả là người yêu của mình.
Thiền là chánh niệm, chánh niệm là khả
năng nhận biết những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Có những
người muốn làm lợi trên chiến tranh, có những người muốn bưng bít sự
thật đang xảy ra, sự thật đang xảy ra là anh em một nhà đang giết nhau,
thảm kịch đang xảy ra cho đất nước, mà chúng ta không được phép nói lên.
Khi Trịnh Công Sơn hát lên và nói lên niềm đau đó của dân tộc, của
người trẻ tức là Trịnh Công Sơn đang thực tập thiền, “anh có biết, chị
có biết những gì đang thực sự xảy ra không?” Đó là những chuyện ta đang
giết nhau. Chúng ta đang chết vì một cuộc chiến tranh, chiến tranh vì ý
thức hệ với vũ khí của ngoại ban. Lời hát đó một mặt nói lên được lòng
yêu nước, yêu dân, một mặt nói lên được sự can trường của nhạc sĩ, nói
lên được lòng từ bi và ý nguyện bảo vệ sự sống, bảo vệ giống nòi. Đó là
hạt giống tốt mà Trịnh Công Sơn đã tiếp nhận từ ba và từ mẹ.
Nếu biết ơn Trịnh Công Sơn đã viết cho
mình những bài ca rất đẹp đó thì mình phải biết ơn ba mẹ Trịnh Công
Sơn. Bởi vì chúng ta, người nào cũng có cội nguồn, gốc rễ và cội nguồn,
gốc rễ của chúng ta là ba mẹ, ông bà chúng ta. Chúng ta thấy rằng tình
yêu trong bản tình ca đó, không phải là một cá nhân, mà cả một thế hệ
thanh niên Việt Nam đã ngã gục trong chiến tranh ý thức hệ, rất tàn ác.
Năm 15 tuổi, thân phụ Trịnh Công Sơn bị tai nạn chết, tất cả mọi người
đều lên chùa Phổ Quang để làm lễ cầu siêu, thầy trụ trì chùa Phổ Quang
hồi đó là Hòa thượng Chánh Pháp. Hòa thượng là một vị kinh sư nổi tiếng ở
Huế, tụng kinh rất hay, âm nhạc Phật giáo rất giỏi. Có nhiều ngày, vì
nỗi đau mất cha, Trịnh Công Sơn đã ở luôn trong chùa từ sáng đến tối. Ở
lại chùa nghe kinh, kệ và gần gũi quý thầy cho niềm đau lắng xuống. Chùa
Phổ Quang ở gần Bến Ngự và nhà của Trịnh Công Sơn cũng ở gần đó, nên
Trịnh Công Sơn thường thích qua chùa.
Trịnh Công Sơn cũng đã quy y với Hòa
thượng chùa Phổ Quang với pháp danh là Nguyên Thọ. Nguyên là suối nguồn,
Thọ là trao truyền, được trao truyền từ suối nguồn. Trao truyền cái gì?
Trao truyền lòng nhân ái, từ bi và dũng cảm. Nếu không thấy được gốc rễ
của Trịnh Công Sơn thì chúng ta chưa thấy Trịnh Công Sơn một cách sâu
sắc. Bổn sư của Trịnh Công Sơn là Hòa thượng Chánh Pháp. Hòa thượng là
người quen của thầy Nhất Hạnh. Làng Mai chúng ta cũng có một cuốn băng
tụng kinh của Hòa thượng tụng với sư anh của thầy Nhất Hạnh là Thượng
tọa Chí Niệm ở chùa Linh Mụ và trong cuốn băng ấy có cả công phu sáng mà
hầu hết quý thầy, quý sư cô Làng Mai đều đã được nghe. Tiếng của hai
thầy rất hay. Chắc chắn Trịnh Công Sơn đã nghe quý thầy tụng rất nhiều
lần, và âm nhạc của kinh kệ đã đi vào trong máu huyết của Trịnh Công
Sơn, cho nên sau này âm nhạc của Trịnh Công Sơn có âm hưởng của kinh kệ.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người bạn
rất thân của Trịnh Công Sơn kể lại rằng Trịnh Công Sơn cũng hay tới chùa
Hiếu Quang. Quý vị có biết chùa Hiếu Quang là chùa nào không? Chùa Hiếu
Quang là chùa có vị kinh sư rất giỏi mà tiếng tụng kinh của ngài có thể
nói là hay bậc nhất ở Huế, đó là một trong ba vị kinh sư nổi tiếng nhất
ở Huế, có giọng tụng cao nhất. Bây giờ ta cũng đang có cuộn băng những
bài xướng, tán, tụng và hô canh của Hòa thượng Hiếu Quang. Trịnh Công
Sơn cũng đã được nghe Hòa thượng Hiếu Quang tán tụng.
Hôm qua Ni sư Như Minh có điện thoại
về Huế, Thượng tọa Phước Toàn và Thượng tọa Hải Ấn cho biết vào khoảng
năm 1955 đến 1958 Trịnh Công Sơn đi chùa rất nhiều. Nhiều khi ở luôn
trong chùa và ngủ lại qua đêm. Thường là lên chùa Hiếu Quang và chùa Phổ
Quang. Lúc đó Hòa thượng Hiếu Quang có mở một lớp dạy tán tụng tại chùa
Phổ Quang và Trịnh Công Sơn đã tham dự vào lớp học đó, đã học tụng kinh
và học tán với hòa thượng Hiếu Quang và Bổn sư của mình. Theo thượng
tọa Huệ Ấn, đương kim trụ trì chùa Phổ Quang, là đệ tử thầy Chánh Pháp,
cho biết tuy thầy Huệ Ấn là người xuất gia nhưng là em của Trịnh Công
Sơn, Trịnh Công Sơn tuy là cư sĩ nhưng là anh đồng sư của thầy Huệ Ấn vì
Trịnh Công Sơn quy y trước.
Trịnh Công Sơn thông minh và có năng
khiếu tán tụng. Trong khi cùng học chung với các sư chú khác, các sư chú
tán chưa được thì Trịnh Công Sơn đã tán được rồi, Trịnh Công Sơn học
rất mau. Vì thế ta biết rằng Trịnh Công Sơn nắm được kỹ thuật tán tụng
từ trong nhà chùa. Thượng tọa Chân Thức (ngày xưa là thị giả của đức
Tăng Thống Thích Tịnh Khiết) Thượng tọa Phước Toàn, Thượng tọa Huệ Ấn
cũng đã từng chơi với Trịnh Công Sơn. Điều này chứng tỏ Trịnh Công Sơn
đã được nuôi dưỡng nhiều ngày, nhiều năm trong không khí thiền môn và
cũng đã nghe âm nhạc Phật giáo rất nhiều.
Có rất nhiều bản nhạc của Trịnh Công
Sơn vừa có thể hát được vừa có thể tụng được. Giữa âm nhạc của nhà chùa
và âm nhạc Trịnh Công Sơn có một sự tiếp nối rất lạ kỳ. Chúng ta sẽ nghe
tụng bài “quy y Phật” bằng chữ Hán, rồi nghe tụng bài “quay về nương
tựa” bằng tiếng Việt và sau đó nghe tụng bài “Đại bác ru đêm”, ta sẽ
thấy được đều đó. Hôm nay Trịnh Công Sơn đang có mặt với chúng ta, đang
tu với chúng ta, đang nghe pháp thoại với chúng ta.
“Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe,
Đại bác qua đây đánh thức mẹ dậy
Đại bác qua đây con thơ buồn tủi
Nửa đêm sáng chói, hỏa châu trên núi
Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe
Từng chuyến bay đêm, con thơ giật mình
Hầm trú tang hoang ôi da thịt vàng
Từng đêm trông sáng, làm mát quê hương
Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe
Đại bác đêm đêm tương lai rụng vàng
Đại bác như kinh không mang lời nguyền
Trẻ thơ quên sống từng đêm nghe ngóng
Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe .
Đại bác đêm đêm ru da thịt vàng
Đại bác nghe quen như câu dạo buồn
Trẻ thơ chưa lớn để thấy quê hương.
Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng
Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng
Cửa nhà Việt nam cháy đỏ cuối thôn.
Hàng vạn chuyến xe claymore, lựu đạn ,
Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành
Từng vùng thịt xương có mẹ có em”.
Trong truyền thống đạo Bụt, chúng ta
được học rằng, trong tâm thức có nhiều hạt giống. Chúng ta có hạt giống
của thương yêu, của tha thứ, của hy vọng, nhưng chúng ta cũng có những
hạt giống của giận hờn, của tuyệt vọng, của khổ đau. Những bài kinh có
tác dụng tưới tẩm những hạt giống tốt đẹp, hạt giống hiểu biết, hạt
giống thương yêu. Một số bài hát của Trịnh Công Sơn cũng có tác dụng
tưới tẩm những hạt giống hiểu biết và thương yêu trong ta và những bài
hát đó người tu có thể hát được.
Trịnh Công Sơn có rất nhiều tuệ giác
của đạo Bụt. Nghe cho kỹ, chúng ta có thể nhận diện được tuệ giác đó
trong nhạc Trịnh Công Sơn. Ở Làng Mai chúng ta thực tập an trú trong
giây phút hiện tại, không để tâm buồn khổ về những chuyện quá khứ, không
để tâm lo lắng về những sợ hãi trong tương lai. Bụt dạy chúng ta trở về
giây phút hiện tại để sống với giây phút đó cho sâu sắc. Giáo lý đó gọi
là hiện pháp lạc trú. Trong giây phút hiện tại có đủ những mầu nhiệm
của sự sống, nếu chúng ta biết trở về với sự sống hiện tại thì chúng ta
có thể tiếp xúc được với sự sống và chúng ta được nuôi dưỡng bằng sự
sống đó. Nhờ vậy chúng ta có đủ bình an và vững chãi để chuyển hóa được
những nỗi khổ, niềm đau trong ta. Trịnh Công Sơn cũng có được tuệ giác
này. Tuệ giác của hiện pháp lạc trú. Đức thế Tôn luôn luôn khuyên chúng
ta trở về sống với giây phút hiện tại mà đừng đi tìm hạnh phúc ở tương
lai. Hạnh phúc đã có mặt sẵn trong giây phút hiện tại rồi.
Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo, phóng viên hỏi Trịnh Công Sơn thế nào về chủ nghĩa hiện sinh, Trịnh Công Sơn nói: “hiện sinh chân chính không phải là xấu”.
Hiện sinh có nghĩa là phải để ý tới giây phút hiện tại. Hiện là bây
giờ, sinh là sự sống, sự sống trong giây phút hiện tại. Trịnh Công Sơn
nói rằng “Bụt là nhà hiện sinh” vì Ngài khuyên chúng ta trở về sống với
giây phút hiện tại, và Bụt Thích Ca là bậc thượng thừa, bậc thượng thừa
của chủ nghĩa hiện sinh. Đây là nguyên văn của Trịnh Công Sơn:
“Hiện sinh chân chính đâu phải là
xấu, mình cho rằng bậc thượng thừa của hiện sinh chính là ông Phật. Tại
vì Phật dạy ta phải thức tỉnh trong từng sát na của cuộc sống”.
Trịnh Công Sơn đã đưa ra ví dụ là khi
tôi và anh uống một ly bia, thì chúng ta hãy hưởng trọn vẹn sự sung
sướng của ly bia, hoặc khi ăn cơm mình hãy tập trung vào chén cơm và
thức ăn đưa vào miệng. Tức là ăn cơm có chánh niệm, có ý thức; nghĩa là
khi ăn chỉ nghĩ đến chuyện ăn thôi mà đừng nghĩ đến chuyện khác. Thực
tình, khi con người tỉnh thức trong từng sát na một thì chủ nghĩa hiện
sinh không còn là gì cả. Sống nếp sống tỉnh thức trong từng giây phút là
điều Trịnh Công Sơn hướng tới. Người này sống bình tĩnh trong từng sát
na chứ không sống vội vàng. Chúng ta thấy rằng Trịnh Công Sơn đã nắm
được giáo lý hiện pháp lạc trú.
Có điều, Trịnh Công Sơn không có tăng
thân cho nên Trịnh Công Sơn không được bảo hộ và sống đúng theo tuệ giác
này. Mặc dù có tuệ giác nhưng bạn bè cứ mời đi uống rượu, mời đi chơi
hằng ngày thì làm sao sống được với tuệ giác ấy. Chúng ta thật may mắn
là chúng ta làm được những gì mà Trịnh Công Sơn muốn làm. Ông đã đưa
được tuệ giác này vào trong bài hát “ Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”.
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Chọn những bông hoa và những nụ cười
Tôi nhặt gió trời, mời em giữ lấy
Để mắt em cười tựa lá bay.
Và như thế tôi sống vui từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời,
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi.
Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi
Đường đến anh em, đường đến bạn bè
Tôi đợi em về, bàn chân quen quá
Thảm lá me vàng lại bước qua.
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Cùng với anh em tìm đến mọi người
Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát
Để thấy tiếng cười rộn rã bay.
Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi
Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời,
Tôi chọn nắng đầy, chọn cơn mưa tới
Để lá reo mừng tựa vẫy tay.
Mỗi ngày tôi chọn ngồi thật yên,
Nhìn rõ quê hương và nghĩ lại mình
Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống
Vì đất nước cần một trái tim.”
Nếu sống được như tuệ giác của bài hát
này thì chúng ta có khả năng mang lại hạnh phúc cho rất nhiều người.
Cho nên có thể nói Trịnh Công Sơn đã kiến đạo, kiến đạo tức là thấy đạo,
thấy con đường để trở về sống sâu sắc từng giây từng phút của cuộc sống
hằng ngày. Kiến đạo rồi ta phải tu đạo nữa thì mới chứng đạo được. Muốn
tu đạo, phải có tăng thân, có bạn đồng hành cùng có chung tuệ giác với
mình. Ba bốn người, năm sáu người bạn quyết tâm sống theo cái thấy này
thì chúng ta có hạnh phúc rất rộng lớn và có thể làm chỗ nương tựa cho
nhiều người. Cho nên nếu có khả năng, có điều kiện may mắn, chúng ta nên
thành lập một nhóm gồm những người bạn cùng chung tuệ giác, để cùng
nâng đỡ nhau, cùng nhau sống theo tuệ giác ấy. Nhóm người đó gọi là tăng
thân.
Tăng thân là yếu tố căn bản che chở,
bảo hộ, giúp mình có thể sống được với tuệ giác của mình. Mình phải
nương vào tăng thân, vào nhóm người đó để có thể sống vui vẻ, hạnh phúc
và khi nương vào nhóm người đó thì gọi là quy y Tăng, hay nương tựa
Tăng. Trong chúng ta, người nào có tăng thân để nương tựa thì người đó
có cơ hội rất lớn để sống với cái thấy của mình. Vì kiến đạo là mới thấy
đạo thôi, còn muốn chứng được đạo thì phải tu đạo. Chúng ta rất tiếc là
Trịnh Công Sơn không có tăng thân. Có lần Vĩnh Trinh than phiền với
bạn: “Anh ơi, anh khuyên anh của em dùm một chút, ảnh uống rượu nhiều
quá, sáng giờ là ba chai rồi đó”. Những người kia không khuyên được vì
họ cũng là những người uống rượu. Do đó mình cần phải có tăng thân để
dìu dắt, nâng đỡ và bảo hộ cho mình. Cho nên quý vị nào có tuệ giác,
muốn sống đúng theo tuệ giác của mình, sống vững chãi, thảnh thơi và làm
chỗ nương tựa cho người khác thì phải có tăng thân để quay về nương
tựa. Người nào chưa có tăng thân thì người đó vẫn mồ côi như thường.
Trịnh Công Sơn có nhiều bạn bè rất nổi
tiếng, và tài ba của Trịnh Công Sơn rất được nhiều người thán phục,
nhưng Trịnh Công Sơn vẫn cô đơn. Trịnh Công Sơn cũng than thở là có
những giờ phút Trịnh Công Sơn rất đau khổ. Dù dưới sân khấu có hàng ngàn
thính chúng vỗ tay tán dương, nhưng trên này Trịnh Công Sơn vẫn đau khổ
như thường. Thỉnh thoảng Trịnh Công Sơn cũng thấy rằng mình cần rút lui
để có sự tĩnh lặng, nhưng Trịnh Công Sơn chưa được học phương pháp
thiền tọa, thiền hành, cho nên nhiều khi ông cảm thấy rất cô đơn. Trong
tuyển tập những bài ca “không năm tháng” do nhà xuất bản Âm Nhạc ấn hành
năm 1998, có một bài của Trịnh Công Sơn mà tôi đọc thấy rất thương. Bài
đó nói lên những giây phút đau khổ nhất của Trịnh Công Sơn, những giây
phút ấy thường rơi vào trước giấc ngủ.
“Tôi thường rơi vào một cơn hôn mê
trước giấc ngủ. Ở biên giới đó tôi hốt hoảng thấy mình lơ lững giữa sự
sống và cái chết. Những giây phút như thế vồ chụp lấy tôi mỗi đêm khi
quanh tôi mọi người đã ngủ yên và tôi đau đớn nhận ra rằng có lẽ cuộc
đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh”.
Có nhà phê bình nói rằng người tình
đầu tiên và cuối cùng của Trịnh Công Sơn là cô đơn, dù Trịnh Công Sơn có
nhiều người bạn biết thưởng thức và công nhận tài ba của ông. Chúng ta
phải tìm hiểu tại sao Trịnh Công Sơn không giải tỏa được niềm cô đơn đó.
Có lần Trịnh Công Sơn nói rằng tình yêu không bằng tình bạn, trong tình
yêu không có cái vĩnh cữu. Nói cái tuyệt đối trong tình yêu chẳng qua
là phóng đại cho lãng mạn lên thôi, thực sự không có sự tuyệt đối trong
tình yêu. Tình yêu sinh ra rồi chết đi, tình yêu đôi khi tạo cho mình
những nỗi thất vọng, có khi dẫn đến tuyệt vọng. Trịnh Công Sơn có viết
một câu rất ngộ nghĩnh:
“Với tôi trong tình yêu không có
sự bất tử, người ta chỉ muốn lãng mạn hóa nó mà thôi. Nhưng tuy như vậy
trong sự bất tử có thể có tình yêu.”
"Trong tình yêu không có sự bất tử, nhưng trong sự bất tử lại có tình yêu”.
Đọc tới đây tôi hiểu liền lập tức. Người yêu đích thực của mình là
người có khả năng tháo gỡ được cho mình ra khỏi trình trạng tuyệt vọng,
khó khăn. Khi thấy được tính chất đó trong người yêu thì mình biết là
trong tình yêu có sự bất tử.
Trịnh Công Sơn nói rằng: “may thay
trong đời người ngoài tình yêu còn có tình bạn”. Nói đến Trịnh Công Sơn,
chúng ta không thể không nói đến tình yêu. Nhưng Trịnh Công Sơn được
nuôi dưỡng bằng tình bạn nhiều hơn và Trịnh Công Sơn có nói rằng sở dĩ
Trịnh Công Sơn có viết những bài tình ca hay là nhờ mình bị phụ tình.
Đây là lời của Trịnh Công Sơn chứ không phải do tôi đặt ra. “Cái may ở
đời là bị phụ tình”.
Nếu Trịnh Công Sơn không bị cô Diễm
cho leo cây thì Trịnh Công Sơn đâu viết được bài “Diễm xưa”, cho nên
mình phải cám ơn cô Diễm và những cô khác nữa. Trong chúng ta ai cũng có
hạt giống của tình thương yêu, ai cũng khao khát muốn yêu và muốn được
yêu. Trong chúng ta lại có những người đã từng bị phụ bạc cho nên bài
hát của Trịnh Công Sơn đã ru nỗi niềm đó trong lòng chúng ta, “Ru ta
ngậm ngùi”. Trịnh Công Sơn nói gì về tình bạn? “Tình bạn thường có khuôn
mặt thật hơn tình yêu”. Có một chỗ nào đó Trịnh Công Sơn nói: “Tôi với
Khanh Ly giống như hai người bạn trai, chia cho nhau những dĩa cơm,
những miếng bánh”. Trịnh Công Sơn được nuôi bằng tình bạn chứ không phải
tình yêu. Tình yêu chỉ giúp cho Trịnh Công Sơn viết thành những ca khúc
mà thôi. “Tình bạn thường có khuôn mặt thật hơn tình yêu”.
Trong đạo Bụt chữ Từ bi là thương yêu
bắt nguồn từ chữ Maitri và Karuna (tiếng Phạn). Maitri là Từ, Karuna là
Bi. Mà Maitri có nguồn gốc từ Mitra, có nghĩa là bạn. Người yêu của mình
phải là bạn mình, phải hiểu mình và mình phải hiểu người đó. Hai người
đi như một đôi bạn thì mình mới có hạnh phúc. Nếu hai người không hiểu
nhau, không có sự thông cảm nhau, nếu tôi không thể hiểu em, em không
thể hiểu tôi thì cái đó có thể tạm gọi là tình yêu, nhưng trong đó không
có tình bạn, mà không có tình bạn thì không phải là tình yêu đích thực.
Vì vậy ai đang yêu thì nên đặt câu hỏi: “Trong tình yêu này có tình bạn
không?” Nếu không có tình bạn thì tình yêu này chưa phải là tình yêu
đích thực.
“Tình bạn có bộ mặt thật hơn tình
yêu, trong tình bạn sự bội bạc có, nhưng không nhiều. Tôi thấy tình bạn
quý hơn tình yêu, vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và
phục sinh lại một cuộc đời tưởng rằng không còn tái tạo được nữa.”
Tình bạn có công năng cứu chữa. Đúng
vậy! Một người bạn có thể cứu chữa cho ta mặc dù đã có lúc ta có rất
nhiều lầm lỡ. Dù ta đã sa vào hầm hố của khổ đau, người bạn của ta cũng
có thể kéo ta ra khỏi hầm hố đó. Có khi mình nằm trong vực sâu đen tối
và người bạn đó tới thả một chiếc thang dài xuống cho ta leo lên vùng
chan hòa ánh sáng để tìm lại được màu trời xanh và tiếng suối, tiếng
chim. Khả năng cứu chữa đó là tình bạn. Và đức Bụt Thích Ca cũng có tình
bạn, tình bạn rất lớn, tình bạn đó có khả năng cứu chúng ta ra khỏi
những trạng huống khó khăn tuyệt vọng. Nếu học theo được tình bạn này
thì chúng ta là sự nối tiếp của đức Thế Tôn, và chúng ta có khả năng đưa
cách tay của tình bạn ra để cứu giúp những người khác. Những giờ phút
có thể nói là hạnh phúc nhất của Trịnh Công Sơn là giờ phút ngồi với
bạn, vì ngồi như vậy thì không cần phải đối phó, không cần phải nói gì,
không cần phải làm gì hết. Sự có mặt của bạn bên mình đem đến cho ta sự
an ủi, không cần phải giữ gìn, không cần phải đối phó. Nếu anh có một
người bạn như vậy thì quá quý. Trịnh Công Sơn có một số người bạn như
vậy nhưng sao anh lại cô đơn? Vì giây phút đó ít quá, Trịnh Công Sơn đã
nói như thế này:
“Trong âm nhạc có những dấu lặng, tức
dấu nghỉ không có âm thanh, nếu không có những dấu lặng đó thì là một
tai họa. Âm nhạc mà không có khoảng cách im lặng thì chẳng qua đó là sự
rối loạn mà thôi”.
Trịnh Công Sơn nói, khi ngồi bên cạnh
một người bạn yên lặng không nói gì hết cũng giống như một dấu lặng
trong âm nhạc. Không nói gì mà hay hơn nói. Đoạn đó rất hay, tôi muốn
đọc lại cho quý vị nghe:
“Có những sự có mặt của bạn bè
tương đương với một dấu lặng trong âm nhạc, nên sự có mặt đó thường có
khả năng mang đến cho ta sự thoải mái, thảnh thơi tựa hồ như là niềm
hoan lạc. Đó là những trường hợp ta không cần phải đối phó, không cần
phải lấp đầy khoảng trống bằng câu chuyện gắng gượng và nhạt nhẽo”.
Trịnh Công Sơn đã có những giây phút
đó, giây phút ngồi với bạn mà không cần làm gì cả, chỉ để được nuôi
dưỡng bằng tình bạn. Tất cả chúng ta đều rất cần tình bạn như vậy. Sự ồn
ào làm cho Trịnh Công Sơn mệt mỏi dù sự ồn ào đó là để tán thưởng hay
ca ngợi mình, cho nên Trịnh Công Sơn rất cần những giờ phút yên lặng.
Tuy nhiên Trịnh Công Sơn chưa học được cách ngồi một mình để hưởng sự
yên lặng, nên Trịnh Công Sơn cần một người bạn ở bên cạnh, để cảm thấy
mình hưởng được sự yên lặng. Chúng ta cũng vậy, chúng ta đã học ngồi
thiền, nhưng ngồi thiền một mình chưa thấy vui lắm. Ngồi thiền thì đâu
được nói chuyện thế mà ngồi ba bốn người vẫn vui hơn. Có phải như vậy
không?
Trong khi ta ngồi yên như thế, sự có
mặt của nhau nuôi dưỡng được tất cả mọi người trong đó. Có một lần ở tu
viện Cấp Cô Độc, trong khi các thầy đang chuẩn bị khóa an cư mùa mưa,
thì có khoảng ba bốn trăm thầy từ Kosambi tới. Gặp lại các huynh đệ mừng
quá, nên các thầy nói chuyện rất ồn ào. Ngồi trong phòng nghe ồn, Bụt
hỏi thầy Xá Lợi Phất: “Có chuyện gì mà ồn như cái chợ vậy? Thầy xá Lợi
Phất trả lời: “Có một số huynh đệ từ Kosambi tới; gặp nhau, mừng quá nên
họ cười nói ồn ào, mất hết uy nghi, xin đức Thế Tôn tha lỗi cho họ.”
Đức Thế Tôn bảo: “Không được, làm ồn như thế thì phải đi chỗ khác tu
học, không thể ở đây, tôi không thể ở chung với những người ồn ào như
vậy.” Ta thấy trong lòng đức Thế Tôn chủ yếu muốn dạy cho những người đó
nên đức Thế Tôn nói không thể ở đây, phải đi chỗ khác tu học. Sau đó
thầy Xá Lợi Phất ra báo tin cho các huynh đệ là “Đức Thế Tôn không muốn
cho quý vị ở đây, vì từ đầu giờ vào đây quý vị ồn quá làm mất không khí
thanh tịnh của nhà thiền.” Nghe thế quý thầy yên lặng, quyết định đi tới
một địa phương khác gần đó để an cư.
Trong suốt mùa an cư đó, các thầy nhớ
lời Bụt dạy không nói chuyện, không cười giỡn, người nào cũng hạ thủ
công phu, cho nên cuối mùa an cư họ chuyển hóa rất nhiều, mặt người nào
cũng sáng rực ra, nụ cười nào cũng rất tươi tắn. Sau mùa an cư họ muốn
đến cám ơn đức Thế Tôn đã quở trách họ và nhờ lời quở trách đó mà họ
tinh tấn hơn, nên đã thành công trong tu tập. Thầy Xá Lợi Phất vào thưa
với Bụt: “Bạch đức Thế Tôn, các thầy đã an cư xong rồi và họ muốn vào
chào đức Thế Tôn”. Đức Thế Tôn cho quý thầy vào. Lúc đó khoảng 7 giờ
chiều. Đức Thế Tôn chắp tay chào các thầy. Ba trăm thầy đó với hai trăm
thầy ở địa phương cùng ngồi với Đức Thế Tôn trong thiền đường rất lớn.
Thầy trò ngồi với nhau như vậy từ 7 giờ tối cho tới 12 giờ khuya. Ngồi
yên lặng không nói gì hết.
Thầy Anan, thị giả của Bụt, tới gần
Bụt và bạch: “Bạch đức Thế Tôn, gần tới nửa đêm rồi, đức Thế Tôn có dạy
gì cho các thầy không?” Đức Thế Tôn vẫn ngồi yên và thầy trò ngồi yên
như thế cho tới 3 giờ sáng. Ngồi yên bên nhau, không nói gì hết, thầy
Anan lại nóng ruột nên đến bạch với đức Thế Tôn một lần nữa:“ Ba giờ
sáng rồi, Ngài có muốn khai thị cho các thầy điều gì không?” Đức Thế Tôn
vẫn ngồi yên với các thầy cho đến 5 giờ sáng. Lúc này thầy Anan tới
“Bạch Đức Thế Tôn, trời rạng đông rồi, Ngài có muốn nói gì với các thầy
không?” Đức Thế Tôn nói: “Thầy muốn tôi nói gì nữa. Thầy trò ngồi với
nhau như vậy chưa đủ hay sao.”
Thầy trò huynh đệ ngồi với nhau, thấy
được và trân quý sự có mặt của nhau là một hạnh phúc rất lớn, rất được
nuôi dưỡng. Tuy không có âm thanh nhưng giá trị bằng 10 lần âm thanh.
Trong tác phẩm “Tỳ Bà Hành” cũng có một câu nói tương tự “Thử thời vô
thanh thắng hữu thanh.” Người nữ đó đàn tỳ bà, có lúc nàng im bặt và
trong thời gian im lặng đó, giữa hai nốt nhạc rất hùng hồn, rất thấm
thía. Còn hay hơn có âm thanh nữa.“Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.”
Thử thời là bây giờ, vô thanh là không có âm thanh. Không có âm thanh mà
hay hơn là có âm thanh. Trịnh Công Sơn đã thấy được điều đó. Ngồi với
bạn bè không cần nói năng gì, chỉ cần có sự thông cảm và hưởng sự có mặt
của nhau là đủ rồi. Tôi nghĩ sự an ủi lớn nhất của Trịnh Công Sơn là
những giờ phút ngồi với bạn bè. Nhưng nếu bạn không biết ngồi chỉ biết
uống rượu thôi thì những giây phút đó không còn quý nữa.
Tôi có người yêu, chết trận Pleime
Tôi có người yêu ở chiến khu Đ
Chết trận Đồng Xoài, chết ngoài Hà Nội
Chết vội vàng dọc theo biên giới
Tôi có người yêu chết trận Chu Prong
Tôi có người yêu bỏ xác trôi sông
Chết ngoài ruộng đồng chết rừng mịt mù
Chết lạnh lùng mình cháy như than
Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam
Ngày gió lớn tôi đi môi gọi thầm
Gọi tên anh tên Việt Nam
Gần nhau trong tiếng nói da vàng.
Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam
Ngày mới lớn tai nghe quen đạn mìn
Thừa đôi tay dư làn môi
Từ nay tôi quên hết tiếng người
Tôi có người yêu, chết trận A Sao
Tôi có người yêu nằm chết cong queo
Chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu
Chết nghẹn ngào mình không manh áo
Tôi có người yêu, chết trận Ba Gia
Tôi có người yêu vừa chết đêm qua
Chết thật tình cờ chết chẳng hẹn hò
Không hận thù nằm chết như mơ.
Trịnh Công Sơn bị ám ảnh bởi cái chết.
Chúng ta và nhiều người khác cũng thế. Vì sống trong hoàn cảnh đó,
chúng ta đã chứng kiến không biết bao nhiêu bạn bè, bao nhiêu người trẻ,
bao nhiêu đồng bào của mình chết. Trịnh Công Sơn là người rất yêu đời
và không muốn chết, nhưng ông biết rất rõ rằng một ngày nào đó mình sẽ
chết. Có lần một ký giả phỏng vấn ông: “Nhạc sĩ có dự án nào cho tương
lai không? Những ngày sắp tới, nhạc sĩ sẽ làm gì?” Trịnh Công Sơn trả
lời: “ Sắp tới tôi phải làm việc nhiều hơn để lẫn trốn sự ám ảnh về cái
chết”. Cái chết ám ảnh nhạc sĩ và ông nghĩ rằng để đừng bị cái chết làm
ám ảnh mãi thì phải làm việc thật nhiều. Và Trịnh Công Sơn nghĩ rằng
mình có sứ mạng là phải chuyển tới những người thương, những người hâm
mộ mình một thông điệp, thông điệp của tình thương, của lòng nhân ái. Đó
là lời nguyện của Trịnh Công Sơn.
Nếu lời nguyện của Đức Bồ Tát Địa Tạng
là đi vào địa ngục để cứu độ chúng sinh, lời nguyện của Đức Bồ Tát Quan
Thế Âm là lắng nghe tiếng kêu đau thương của muôn loài để tìm tới cứu
khổ, thì lời nguyện của Trịnh Công Sơn là gởi tới những thính giả của
mình thông điệp của tình yêu thương, tức là tưới tẩm hạt giống thương
yêu và tha thứ nơi mọi người. Trong cuộc đời mà ai cũng được dẫn đạo
bằng hướng đi như vậy thì thật là quý hóa. Tuy Trịnh Công Sơn đã được
tiếp nhận hạt giống thương yêu từ mẹ, từ chùa nhưng chưa có cơ hội học
hỏi và thực tập về phương pháp thiền quán để có thể tiếp xúc được với tự
tính vô sinh bất diệt của mình. Vì vậy cho nên Trịnh Công Sơn chưa vượt
thoát được nỗi ám ảnh của cái chết.
Tôi không bị ám ảnh bởi cái chết vì
tôi có tuệ giác về sống chết, tôi đã thiền quán và tôi đã tiếp xúc được
với tính vô sinh bất diệt của mình. Quý vị hãy nhìn lên đám mây trên bầu
trời. Đám mây đó chiều nay hoặc ngày mai sẽ biến thành mưa. Đám mây đó
từ đâu mà có? Có phải từ không mà trở thành có hay không? - Không. Đám
mây đó từ nước ao hồ, sông biển do sức nóng mặt trời bốc hơi lên ngưng
tụ mà thành. Đám mây không phải từ không mà trở thành có. Có lần Trịnh
Công Sơn nói rằng, chúng ta từ hư vô tới và chúng ta sẽ trở về hư vô.
Nói như vậy tức là chưa có tuệ giác của người tu thiền. Chúng ta không
phải từ hư vô tới và chúng ta cũng không đi về hư vô.
Trong Thánh Kinh có nói chúng ta từ
hạt bụi tới và chúng ta sẽ trở về cát bụi. Trịnh Công Sơn cũng có cùng
quan điểm đó “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát
bụi.” Hạt bụi không phải hư vô, hạt bụi cũng không đủ để hóa kiếp thân
tôi. Nhiều nhân, nhiều duyên kết hợp lại tôi mới biểu hiện, chứ một
nhân, một duyên thì tôi không thể nào biểu hiện được. Theo đạo Cơ Đốc
thì Thượng Đế là nhân và là nhân duy nhất để có hiện hữu, nhưng trong
đạo Bụt ý niệm về nguyên nhân duy nhất là vô lý. Không có cái gì có thể
phát sinh ra từ một nhân duy nhất. Ví dụ như bông hoa này, phải có hạt
giống của hoa, phải có đất, có phân, có ánh sáng mặt trời, phải có đám
mây biến thành nước mưa… tức là nhiều nhân, nhiều duyên mới có thể làm
cho bông hoa biểu hiện được. Thành ra ý niệm một nguyên nhân duy nhất
không phù hợp với sự thật. Sự thật là đa nhân đa duyên “trùng trùng
duyên khởi”.
Rất tiếc là Trịnh Công Sơn trong những
năm tháng đó đã không có cơ hội lên chùa để học hỏi thêm về thiền quán.
Trịnh Công Sơn có gởi cho tôi một tập nhạc đề là “Tặng thầy Nhất Hạnh”.
Bây giờ tôi vẫn còn giữ. Tôi cũng có viết thư cho Trịnh Công Sơn yêu
cầu Trịnh Công Sơn phổ nhạc dùm một số bài kinh. Vì tôi biết rằng nếu
Trịnh Công Sơn phổ nhạc những bài kinh này thì Phật tử đọc, tụng, hát sẽ
hay lắm, sẽ được nhiều lợi lạc. Thế nhưng thư của tôi bi thất lạc, đến
khi Trịnh Công Sơn nhận được thư đó thì ông đã bị bệnh nặng nên không
làm được. Thật đáng buồn! Nhưng Trịnh Công Sơn vẫn đang còn đó. Trịnh
Công Sơn đang nghe lời tôi nói, mai mốt Trịnh Công Sơn sẽ sáng tác những
bài thơ, bài nhạc, bài kinh theo tinh thần của Trịnh Công Sơn. Trịnh
Công Sơn đang ở đây, đang ở trong quý vị. Trong số các thượng tọa, ni sư
từ Việt Nam sang có Trịnh Công Sơn trong đó. Đừng tưởng Trịnh Công Sơn
chết rồi. Trịnh Công Sơn đang sống hùng mạnh hơn bao giờ hết. Đám mây
kia không phải từ hư vô tới và nó cũng không phải trở thành hư vô. Mai
mốt nó sẽ biến thành mưa. Nó chỉ biến đổi hình thức thôi.
Bây giờ xin quý vị quán chiếu với tôi:
giả dụ 2/3 đám mây kia gặp khí lạnh trở thành mưa, rơi xuống, một phần
biến thành dòng, thành khe, một phần đi vào trong ruộng lúa xanh tươi.
Đứng trên cao, đám mây kia nhìn xuống và nhận ra mình đang ở dưới đó.
Một phần của mình biến thành ruộng lúa xanh tươi, một phần biến thành
dòng suối. Rồi đám mây nói:“Chào em, tôi biết em là tôi, em là sự tiếp
nối của tôi”. Như vậy đám mây kia đâu chết, khi không còn hình thức của
đám mây nữa thì nó biến thành một hình thức khác, hình thức của dòng
suối hay hình thức của đám mạ xanh tươi. Thế nên trong đạo Bụt nói bản
tánh của chúng ta là “vô sinh bất diệt”, chúng ta chỉ thay đổi hình thức
thôi. Tự tánh của đám mây cũng vô sinh bất diệt. Trịnh Công Sơn cũng vô
sinh bất diệt.
Nếu ta có con mắt của Bụt, nếu ta có
con mắt của thầy thì ta có thể thấy Trịnh Công Sơn có mặt một cách rất
đích thực ngay trong thính chúng này. Quý vị có thấy được Trịnh Công Sơn
trong trái tim mình hay không? Ngày hôm qua thầy nghe thầy Thông Hội
hát nhạc Trịnh Công Sơn. Người ta thường hỏi: “Sau khi chết ta sẽ đi về
đâu?” Câu hỏi đó làm tốn rất nhiều bút mực và nước bọt để giải thích.
Thông thường muốn trả lời câu hỏi đó phải trả lời một câu hỏi khác là
“Trong giây phút hiện tại chúng ta đang đi về đâu?” Chúng ta tưởng rằng
sau khi thân xác này tàn hoại chúng ta mới đi, nhưng kỳ thực bây giờ
chúng ta đang đi, chúng ta đang trở thành một cái khác.
Hãy tưởng tượng Trịnh Công Sơn lúc 5
tuổi và Trịnh Công Sơn lúc 25 tuổi, hai người rất khác nhau, và khi
Trịnh Công Sơn 45 tuổi thì lại khác nữa. Chúng ta chuyển biến, sinh diệt
trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày. Đứng về phương diện năm uẩn
(sắc, thọ, tưởng, hành, thức) ta so sánh ta trước khi vào đây và ta bây
giờ là đã có sự khác nhau rồi. Bao nhiêu sinh diệt, bao nhiêu biến
chuyển đã đi qua trong chúng ta và chúng ta luôn luôn được tiếp nối.
Nước mưa tiếp nối đám mây, sương mù cũng tiếp nối đám mây. Khi chúng ta
nâng một tách trà lên để uống, nếu có chánh niệm, có tuệ giác của Bụt,
thì chúng ta thấy rằng mây đang nằm đây trong ly trà này. Thay vì đang
uống nước chúng ta đang uống mây. Đây là một sự thật rất khoa học. Nó
không phải chỉ là thi ca mà thôi.
Tôi đang uống mây và đám mây chiều nay
có thể trở thành một bài thơ, hay ngày mai mây trở thành bài pháp
thoại. Mây biến hóa vô cùng. Cho nên ta phải có khả năng nhận diện sự có
mặt của Trịnh Công Sơn dưới những hình thái biểu hiện khác của Trịnh
Công Sơn. Thế nên ta không thể nói Trịnh Công Sơn chết được. Vì sự thực
không có cái gì chết đi cũng không có cái gì sinh ra. Chết nghĩa là từ
có trở thành không, Trịnh Công Sơn không phải từ có trở thành không. Đã
không có từ không mà trở thành có thì cũng không thể nào từ có mà trở
thành không được. Nếu quý vị vừa mới mất một người thân mà quý vị tưởng
người thân đó không còn nữa là quý vị lầm. Người thân đó bây giờ đang
biểu hiện dưới một hình thức khác. Nhìn cho kỹ ta sẽ thấy được người
thân của mình và ta nói: “Chào em, chị rất hạnh phúc nhận ra em dưới một
hình thức mới”. Đó là diệu dụng của thiền quán.
Trong những năm 80, 90 nếu Trịnh Công
Sơn có được tuệ giác đó thì Trịnh Công Sơn sẽ không bị ám ảnh bởi cái
chết, vì Trịnh Công Sơn biết rõ mình không bao giờ chết cả. Trong mỗi
giây phút của đời sống hằng ngày, mình đã hiến tặng những lời nói, những
lời ca, những tư duy và những hành động của mình cho đời và đó là sự
tiếp nối của mình. Đó gọi là ba nghiệp. Ba nghiệp là thân, khẩu, ý. Cũng
như cây đèn cầy, khi được thắp sáng lên thì trong mỗi giây phút nó đều
hiến tặng ánh sáng, sức nóng và hương thơm. Con người cũng vậy, trong
mỗi giây phút của đời sống hằng ngày, chúng ta đã hiến tặng tư duy, lời
nói và hành động của ta. Nếu tư duy của ta đầy tham, sân, si thì những
hiến tặng của ta sẽ không có giá trị, chúng sẽ làm hư xấu cuộc đời, như
thế chúng ta sẽ không có sự tiếp nối đẹp đẽ. Còn nếu tư duy của ta có
lòng thương yêu, có lòng nhân ái, có tha thứ, bao dung thì sự tiếp nối
của ta sẽ đẹp đẽ.
Trịnh Công Sơn đã hiến tặng tư duy của
mình qua nhiều hình thái khác nhau. Hình thái mà ta dễ thấy nhất là
những ca khúc của ông. Trịnh Công Sơn đã cống hiến những ngôn từ, hành
động, cử chỉ biết thương yêu, chăm sóc, biết tha thứ, bao dung. Có lần
ngồi chơi với Hoàng Phủ Ngọc Tường trong một quán cà phê ở Huế, cô bé
bán quán bưng tới cho Trịnh Công Sơn một ly cà phê, nhưng vô tình, bé
làm đổ hết ly cà phê vào chiếc áo vest của Trịnh Công Sơn, bé sợ xanh
mặt, bà chủ tới la bé rất dữ dội. Cô bé sợ quá co rúm người lại. Rất tội
nghiệp! Trịnh Công Sơn thấy vậy thương quá, liền nói: “Không phải nó
làm đổ đâu, chính tôi làm đổ đó”. Và Trịnh Công Sơn móc túi lấy tiền ra
trả cho ly cà phê ấy để cho bà chủ đừng la bé. Sau khi trả tiền Trịnh
Công Sơn đứng dậy, nháy mắt cô bé đó rồi ra đi. Đó là một hành động biểu
dương lòng tốt của tình thương trong Trịnh Công Sơn. Những cái đó không
bao giờ mất đi cả. Đó là nghiệp. Chúng ta đừng hiểu nghiệp là xấu.
Nghiệp có thể xấu mà cũng có thể là tốt. Nghiệp xấu gọi là ác nghiệp,
nghiệp tốt gọi là thiện nghiệp.
Trịnh Công Sơn đã làm ra những thiện
nghiệp và những thiện nghiệp ấy đang tiếp tục đi về tương lai. Chúng ta
có thể nhận diện sự có mặt của Trịnh Công Sơn qua những thiện nghiệp mà
Trịnh Công Sơn đã tạo tác ra qua những tư duy, lời nói và hành động của
ông. Trịnh Công Sơn chưa bao giờ giết người. Trịnh Công Sơn không kỳ
thị, Trịnh Công Sơn có can đảm dám nói ra sự thật, yêu nước, yêu dân. Ba
mẹ Trịnh Công Sơn phải hãnh diện về điều đó.
Quý vị đã nghe và đã thấy Trịnh Công
Sơn có mặt trong mình và bây giờ tôi muốn chia sẻ để quý vị thấy mình
cũng có mặt trong Trịnh Công Sơn. Có một lần Trịnh Công Sơn được nhà báo
hỏi: “Anh có bao giờ hình dung ra thân xác và tâm hồn mình lúc ở bờ bên
kia chưa?”- “Chưa! Đó là tại do lười biếng mà ra.” Do không chịu quán
chiếu. Mình có tự do, có thiền đường mà không chịu tham khảo đề tài sống
chết, để rồi mai mốt khi nằm trên giường không biết mình đi về đâu.
Trịnh Công Sơn công nhận mình làm biếng, không chịu giành thời gian để
quán chiếu sâu sắc về vấn đề sinh tử. Các cô, các chú có thấy mình có
trong Trịnh Công Sơn không?
Trịnh Công Sơn nói: “… Vì do lười
biếng mà ra cả, mình không bao giờ chuẩn bị trước cho mình cái gì hết
cho những ngày sắp tới, như thể là khi muốn về Huế là cứ bỏ đồ đạc vào
vali mà đi thôi”. Ra Huế thiếu gì thì tính sau. Điều đó rất con người.
Và ta thấy sự lười biếng đó nằm trong tất cả chúng ta. Chúng ta giãi
đãi, làm biếng, như thể là mình sẽ sống cả ngàn năm và mình có cả ngàn
năm để thiền quán, nhưng kỳ thực chúng ta không biết mình sống được bao
lâu. Vì vậy chúng ta phải tinh tiến và phải làm thay cho Trịnh Công Sơn.
Trịnh Công Sơn chưa làm được thì mình phải làm cho Trịnh Công Sơn. Thầy
cũng đang làm cho Trịnh Công Sơn, các thầy, các sư cô cũng đang làm cho
Trịnh Công Sơn. Quý vị cũng phải làm cho Trịnh Công Sơn. Chúng ta phải
đưa Trịnh Công Sơn đi tới. Bởi vì Trịnh Công Sơn không phải là Trịnh
Công Sơn. Trịnh Công Sơn là quý vị. Khi người ta hỏi Trịnh Công Sơn:
“Không biết có cõi nào mà sau khi chết mình đi về hay không?” Thì Trịnh
Công Sơn trả lời:
“Nếu có một sự tiếp nối ở một cõi
khác, một thế giới khác thì chắc là vui lắm. Và tôi nghĩ nếu thực sự có
một cõi khác với cõi đời này thì tôi hy vọng chúng ta sẽ được rong chơi
mãi mãi”.
Rong chơi là từ của Trịnh Công Sơn.
Mình ở trên cuộc đời này là để rong chơi, và nếu hết cuộc đời này có một
cõi khác, mình cũng sẽ tiếp tục rong chơi. Đó là hy vọng. Cõi đó gọi là
thiên quốc hay thiên đường. Nhưng nếu Trịnh Công Sơn nhưng nếu biết
quán chiếu sâu hơn thì sẽ thấy được rằng thân xác này chẳng qua là sự
chấm dứt của một giai đoạn biểu hiện và mình sẽ được biểu hiện lại dưới
một hình thức khác trong giai đoạn kế tiếp. Đám mây khi không còn là
hình thức của đám mây nữa thì nó tiếp tục làm con suối hay làm tảng
băng. Làm mây bay trên trời cũng vui mà làm mưa rơi xuống ruộng đồng
cũng vui. Tại sao phải sợ?
Trịnh Công Sơn có thể rong chơi mãi
mãi trên thế gian nầy mà không cần phải giả định có một thế giới khác
hay có một cõi nào khác nữa. Không có cái gì tự nhiên mà có, cũng không
có cái gì từ có trở thành không. Trịnh Công Sơn là một thực tại. Trịnh
Công Sơn là mãi mãi. Trịnh Công Sơn tha hồ rong chơi, nếu không dưới
hình thức của một người Huế, thì dưới hình thức của người Thụy Sĩ. Làm
người Huế cũng vui mà làm người Thụy Sĩ cũng vui. Làm một bông hoa thủy
tiên cũng hay, làm một bông sen cũng hay. Hình thức nào của sự sống cũng
đẹp cả.
Khi Trịnh Công Sơn thấy được điều đó
thì Trịnh Công Sơn sẽ thấy được tự tánh của mình là vô sinh bất diệt,
mình có thể rong chơi mãi mãi hoài hoài. Mong rằng các thầy, các sư cô,
các sư chú, các đạo hữu nắm được chân lý này và thấy được tự tánh vô
sinh bất diệt của mình. Cho nên đối với tôi, Trịnh Công Sơn chưa bao giờ
chết. Nếu thắp một nén hương cho Trịnh Công Sơn thì chúng ta không nên
thắp bằng sự tiếc thương mà thắp bằng ý thức là Trịnh Công Sơn đang còn
đó với mình và mình có thể mang Trịnh Công Sơn đi về tương lai, để Trịnh
Công Sơn có thể tiếp tục sứ mạng của mình, sứ mạng chuyên chở thông
điệp thương yêu. Chúng ta hãy cùng hát với nhau bài “Nối vòng tay lớn”
để tưới tẩm hạt giống của tình huynh đệ, của hy vọng và của tình thương
yêu trong ta.
Phiên tả từ pháp thoại của thầy Làng Mai ngày 01/02/2004 tại tu viện Lộc Uyển.