Trong các Kinh Sơ Thời, không tìm ra chỗ nào có ý tưởng về các khoảnh khắc tâm (mind-moments), những người trên đường đạo rõ ràng là “những người” (“persons”) đang thực hành một con đường, và những người có thể, thí dụ, ngồi xuống và ăn một bữa ăn.
Trâu là dụ cho tâm mình, xe là dụ cho thân, chúng ta Thiền là hành thẳng nơi tâm mọi lúc, mọi nơi chứ không chỉ lúc ngồi Thiền. Người tại gia bận công lên việc xuống làm sao có nhiều thời gian để ngồi Thiền. Nếu ta chấp như vậy thì tu hoài cũng dậm chân tại chỗ, làm sao tu tiến cho được. Cho nên, người tại gia phải biết uyển chuyển tu từ khi mở mắt thức dậy cho đến khi đi ngủ, tu như vậy mới đủ khả năng hoá giải phiền não tham-sân-si. Người tại gia vì phải bận bịu với cơm áo gạo tiền, cha mẹ, vợ chồng, con cái, giao tế bạn bè, giữ mối quan hệ làm ăn nên phải Thiền bằng cách chú tâm, làm việc nào biết việc đó.
Một lòng tin chân chính phải đi theo với sự tìm tòi
bằng sự quán chiếu, xem xét, hiểu rồi mới tin, thì cái tin ấy mới là
chánh tín
Vì lợi ích của quốc gia - dân tộc, Phật giáo đã có những đóng góp quan trọng vào việc củng cố quốc gia thống nhất, vun đắp sự đoàn kết hữu nghị giữa 3 nước Đông Dương.
Kinh tạng Nikàya, Pàli và A-hàm Hán tạng là những bộ kinh thuộc Phật giáo truyền thống, còn gọi là Kinh tạng Nguyên thủy. Đó là những bộ kinh chứa đựng những gì Đức Phật đã dạy suốt trong 45 năm truyền giáo, gồm những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã...
Hai ngàn năm trăm năm
sau, tuy Phật giáo có khoảng 700 triệu tín đồ trên toàn thế giới, nhưng
lại biến mất trên đất nước Ấn Độ, nơi mà trước đó Phật giáo từng là một
trào lưu tình thần chính yếu, suốt cho đến thế kỷ thứ X. Tại sao lại xảy
ra như thế?
Chúng ta đã
biết xưa kia Phật giáo từ Ấn Ðộ truyền
thẳng sang Việt Nam; có thể, một số tông phái cũng
được truyền
sang Việt Nam nhưng không được truyền bá sâu
rộng, dần dần bị thất truyền. Các tông
phái Phật giáo Trung Hoa truyền sang Việt Nam, có lẽ
cũng gần giống như vậy, riêng
về Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông, Mật Tông vẫn
còn được truyền thừa. Có thể nói, tại
Việt Nam có những nét
đặc thù, nên có
những tông phái phát sinh tại Việt Nam, những tông
phái này cả Ấn Ðộ lẫn Trung Hoa đều không
có, chúng ta lần lượt tìm hiểu từng tông phái
chính tại Việt Nam.
Như
kinh sách đã ghi, sau khi Phật tịch diệt được 7 ngày,
trên đường du
hóa trở về để an cư kiết hạ, đoàn du tăng do Ngài
Ðại Ca Diếp thống lãnh, được
tin nầy từ một đạo sĩ, nhiều tăng chúng u buồn, có một vị tỳ kheo trẻ
Subhadha phát biểu : ‘‘ Khi đức Thế Tôn cò n
tại thế, mọi hành động
đều phải bó buộc trong phạm vi giới luật, mất quyền tự do. Ngày nay, đức Thế
Tôn đã diệt độ, từ đây trở về sau sẽ được
tự do hành động, không bị giới luật ràng buộc ‘’.
Tương truyền rằng đó
là nguyên nhân để Ngài Ðại Ca Diếp
triệu tập tăng
đoàn Kiết tập kinh điển lần thứ nhất.
...Trung đạo là một khái niệm do chính Đức
Phật nói lên sau những biến cố quan trọng trong cuộc hành trình trở về Niết bàn
của Ngài. Nó, ngay từ thời Phật giáo Nguyên thủy, vốn được xem là một giáo lý
đặc thù trên cả hai bình diện: đời sống thực tiễn tu hành và đạo lý đưa đến
giải thoát.
Thiên
Thai tông là một trong những tông phái được hình thành sớm nhất trong
lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Do vì người sáng lập ra tông phái này là
Trí Khải đại sư (538 - 598) sống vào đời Tùy, ngài cư ngụ ở núi Thiên
Thai (nay thuộc huyện Thiên Thai, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc), cho nên
có tên là Thiên Thai tông.
Các tin đã đăng: