Năm 14 tuổi, khi đã học xong cấp tiểu học đương thời, Ngài tiếp tục vừa học chữ vừa học nghề dưới sự dạy dỗ, đùm bọc của người anh là nhà giáo Nguyễn Văn Kính. Do sẵn có thiện duyên từ bao đời với Phật pháp, nên trong thời kỳ đi học Ngài có xu hướng thiên về học Đạo nhiều hơn. Với tấm lòng đầy ngưỡng mộ đạo Phật, năm 16 tuổi, Ngài đã lặng lẽ từ biệt gia đình tìm đường xuất gia cầu đạo.
Danh đức của Tổ Vĩnh Nghiêm - Thiền gia Pháp chủ Thích Thanh Hanh đã tác động mạnh mẽ, thôi thúc Ngài đến chiêm bái Tổ đình Quán Sứ, đỉnh lễ Tam bảo, bái kiến Tổ Vĩnh Nghiêm.
Ngay lần gặp gỡ đầu tiên, được Tổ giáo huấn đôi điều diệu lý, tâm thức tỏ rạng, Ngài quyết một lòng thỉnh cầu Tổ chứng minh cho được xuất gia làm Tăng. Tổ nhận lời, giao cho Hòa thượng Thích Thái Hòa đưa về tỉnh Hà Nam, đỉnh lễ Đệ tứ Tổ Tế Xuyên - Bảo Khám Thích Doãn Hài và được Hòa thượng Thiện Bản - trụ trì chùa Cao Đà, xã Nhân Mỹ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam làm thầy nghiệp sư thế phát, quy y.
Tại Tổ đình Tế Xuyên, đời sống thiền môn, thanh bần lạc đạo, viễn ly trần thế, tịch nhàn phạm hạnh đã trở thành nếp quen thường nhật của Ngài.
Khi tuổi đời vừa tròn 21, Ngài được thụ Thập giới Sa di do Hòa thượng Thích Doãn Hài làm Đàn đầu Hòa thượng. Sau thời gian tiến tu đạo hạnh, Ngài được Hòa thượng nghiệp sư cho đi nhập chúng cầu học Kinh, Luật, Luận với Tổ Tuệ Tạng - Đức Thượng thủ Tăng già toàn quốc tại chùa Quán Sứ, khởi đầu cho một thời kỳ dài tu tập, hóa đạo trên đất Thăng Long - Hà Nội.
Năm 1939, chùa Quán Sứ khai mở Đại giới đàn do Hòa thượng Thích Thanh Ất (Tổ Trung Hậu) làm Đàn đầu. Đây là giới đàn quy mô nhất của Phật giáo Bắc Kỳ bấy giờ. Giới tử phải nhập chúng lễ sám hối 21 ngày, sau đó trải qua thời kỳ khảo hạch để xếp thứ tự, Ngài được cử đứng đầu hàng giới tử Sa di cầu thụ Cụ túc giới.
Với 25 tuổi đời, Ngài chính thức được dự vào hàng Tăng bảo. Từ đó, Ngài được thiện duyên theo hầu Tổ Tuệ Tạng và tham học Phật pháp tại các trường Phật học: Quán Sứ, Bồ Đề, Cao Phong… Trong học chúng và các khóa hạ bấy giờ, Ngài luôn được cử giữ chức Chánh Duy Na, nêu gương và hộ trì kỷ cương giới đức phạm hạnh cho đại chúng Tăng già noi gương lập chí tu hành.
Sau 14 năm cần mẫn tu học, hành trì phạm hạnh, tích lũy tâm đức của một Tỷ khiêu, Ngài được chư Tôn đức đương thời thỉnh làm Giới sư rồi làm Hòa thượng Đàn đầu… truyền trao giới pháp cho các thế hệ hậu học tại:
- Đại giới đàn chùa Quán Sứ, Hà Nội năm 1953.
- Đại giới đàn chùa Tế Xuyên, tỉnh Hà Nam năm 1955;
- Đại giới đàn chùa Phật Ấn, thị xã Hà Đông- Hà Tây, năm 1957;
- Đại giới đàn chùa Thần Quang, Hà Nội năm 1959;
- Đại giới đàn chùa Bà Đá, Hà Nội năm 1976;
- Đại giới đàn chùa Quán Sứ, Hà Nội năm 1978.
Từ năm 1981, sau khi GHPGVN và Thành hội Phật giáo Hà Nội được thành lập đến năm 2001, mỗi năm sau ngày kết hạ an cư, Thành hội Phật giáo Hà Nội đều tổ chức Đại giới đàn truyền giới cho Tăng Ni. Tất cả những Đại giới đàn này, Thành hội Phật giáo Hà Nội đều cung thỉnh Ngài làm Đàn đầu Hòa thượng, truyền trao giới pháp cho các giới tử. Ngoài cương vị là thầy Hòa thượng các giới đàn, Ngài đã truyền thụ Tam quy, Ngũ giới, Bồ tát giới cho hàng ngàn Phật tử thủ đô và các tỉnh, thành khác.
Với đạo nghiệp sâu dày, Ngài đã từng được sơn môn, pháp phái thỉnh cử và Giáo hội Trung ương chỉ định trụ trì các chốn Tổ Già lam như:
- Năm 1958, Đức Thượng thủ Tuệ Tạng chỉ định Ngài làm giám tự Tùng Lâm Quán Sứ.
- Năm 1962, Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Bản (Tổ Cao Đà) viên tịch, Ngài được chư Tôn đức sơn môn giao phó trọng trách trụ trì chùa Cao Đà - Lý Nhân, tỉnh Hà Nam - khởi đầu sự nghiệp trụ trì, hoằng hóa độ sinh.
- Năm 1979, Hòa thượng Thích Trí Hải viên tịch, sơn môn thỉnh Ngài giữ chức vụ trụ trì Tổ đình Bồ Đề - Gia Lâm - Hà Nội.
- Năm 1981, sau khi thành lập GHPGVN, Đức cố Đệ nhất Pháp chủ Thích Đức Nhuận chỉ định Ngài giữ chức Chánh trụ trì Tùng Lâm Quán Sứ - Trụ sở Trung ương GHPGVN.
- Năm 1997, Đại lão Hòa thượng Thích Thông Ban, trưởng sơn môn viên tịch, Ngài nhận lãnh trách nhiệm Viện chủ Tổ đình Tế Xuyên - Bảo Khám, Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Đức Đệ nhị Pháp chủ đã thực hiện trách nhiệm Phật sự liên tục từ khi tuổi đời còn trung niên cho đến cao niên trưởng lão; chẳng những kham nhẫn các trọng trách trong Đạo mà còn cho Dân tộc và xã hội:
- Năm 1958, Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam thành lập, Ngài được suy cử làm Uỷ viên Trung ương hội, đồng thời làm Uỷ viên Uỷ ban MTTQVN thành phố Hà Nội (từ năm 1958-1980).
- Từ năm 1976 đến 1981, là Uỷ viên Thường trực Trung ương Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam.
- Năm 1984, Đức Đệ nhất Pháp chủ Thích Đức Nhuận tuyên chỉ Ngài giữ chức vụ Chánh Thư ký HĐCM GHPGVN. Cũng năm này, Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Hà Nội đã cung thỉnh Ngài làm Trưởng ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự cho đến tháng 9 năm 2002.
- Tháng 11 năm 1992, tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ III, Ngài được Đại hội suy tôn làm Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư ký HĐCM GHPGVN.
- Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IV (nhiệm kỳ 1997-2002) cũng như Đại hội lần thứ V (nhiệm kỳ 2002-2007), tại Hà Nội, đã suy tôn Ngài lên ngôi vị Pháp chủ, giữ ngôi vị “Tùng lâm thạch trụ”của GHPGVN.
Trân trọng những công đức cao quý Ngài đã đóng góp cho Đạo, cho Đời, Nhà nước đã trao tặng Ngài Huân chương Độc lập hạng Nhất; Uỷ ban Trung ương MTTQVN trao tặng Ngài Huy chương Vì sự nghiệp Đại đoàn kết toàn dân, v.v.
Từ cuối năm 2001, thân tứ đại của Ngài luôn có bệnh duyên chi phối; khi bệnh duyên càng tăng thì Ngài cũng gia sức an trú nhiếp phục; càng an trú nhiếp phục, hành trạng Ngài càng trở nên bình dị, an nhiên vẳng lặng. Mỗi ngày, Ngài vẫn thường tịnh tam nghiệp, tay lần chuỗi bồ đề niệm Phật, giữ chính niệm chú tâm tỉnh giác trước sự mòn mỏi của huyễn thân tứ đại.
Công đức hóa duyên viên mãn, Đức Đệ nhị Pháp chủ GHPGVN đã Viên tịch vào hồi 14 giờ 30 phút ngày 6 tháng 3 năm 2005 (nhằm ngày 26 tháng Giêng năm Ất Dậu), trụ thế 91 năm, trì Đại giới 66 năm.
Trong suốt cuộc đời tu hành và hóa đạo, Đức Đệ nhị Pháp chủ luôn thể hiện tâm đức của người con Phật “xuất trần thượng sĩ” hành trì “Giới - Định - Tuệ”, phụng sự “Đạo pháp - Dân tộc - CNXH”.
Xin giới thiệu một số hình ảnh buổi lễ: