Đặt vấn đề
Ngày trước, việc giảng các bộ kinh Phật chỉ được tổ chức ở các chùa lớn, các Phật học viện.
Hiện
nay, việc giảng kinh có ở khắp nơi và được ghi bằng dĩa để phổ biến.
Cả Phật tử cũng “đăng đàn thuyết pháp” tại… phòng ghi âm, nhưng băng
dĩa được gởi bán rộng rãi ở nhiều chùa lớn nhỏ, kể cả bán…lưu động. Người ta không ngần ngại giảng các bộ kinh lớn như Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa, Đại Bảo Tích, cho đến các bộ kinh A Hàm, Nikaya…
Người viết bài này có thỉnh một số bộ băng giảng kinh về nghe. Nhiều
bộ rất “đồ sộ”, đến mấy dĩa MP3, hay mấy chục cuộn băng cassette, nghe
có khi năm bảy chục giờ mới hết. Nghe qua mới thấy được nhiều vấn đề.
Chất
lượng việc giảng kinh không đồng đều, nếu không muốn nói là chênh
lệch. Có nhiều trường hợp chênh lệch hết sức nghiêm trọng. Nếu việc
giảng kinh được thực hiện nghiêm túc, thì không đặt vấn đề bàn luận làm
gì.
Nhiều vị chưa ý thức được tầm quan trọng của việc giảng
kinh, cứ nhắm mắt làm đại việc diễn giải phân tích lời Phật, mà có khi
chưa hiểu thật rõ, thật thấu đáo. Cứ giảng để mà có giảng.
Từ
đó, có tình trạng 3,4 bộ băng giảng cùng một bộ kinh, nhưng nội dung
hoàn toàn khác nhau, đưa đến những cảm nhận hoàn toàn khác nhau từ phía
người nghe. Chừng như là có nhiều bộ kinh khác hẳn nhau, dù các băng
giảng cùng có tựa đề một bộ kinh.
Nhiều bộ băng giảng chỉ là
việc kể những câu chuyện bên ngoài mà người giảng kinh cho là liên hệ
với nội dung kinh. Từ đó, nội dung lời giảng đi rất xa so với nội dung
kinh. Với kiểu “giảng” này người nghe không còn thấy được diện mạo bộ
kinh Phật đâu nữa, mà chỉ nghe những câu chuyện ngoài lề, có chuyện
không dính dáng gì đến nội dung bản kinh, dẫn người nghe đi lan man…
Loại băng giảng này không có đủ bộ cũng không sao, nghe vẫn “hiểu”, dù
nghe cuốn băng sau trước, cuốn băng trước lại nghe sau. Tư tưởng chính
của đức Phật thể hiện trong bản kinh biến mất chỉ còn nghe được những
câu chuyện minh họa chủ quan của người “giảng” kinh. Không thể coi đây
là những buổi giảng kinh, mà chỉ có thể là những buổi kể chuyện, kể
kinh nghiệm mà thôi… Đó là chưa nói đến việc kể chuyện đi lạc đề, câu
chuyện kể xa lạ với nội dung kinh, người giảng cố ý đưa vào một cách
sống sượng, khiên cưỡng, gượng ép…
Có trường hợp người “giảng”
kinh không kể chuyện liên hệ thực tế, mà đi diễn nôm nội dung kinh. Tức
là kể lại nội dung kinh bằng hình thức diễn giải dài dòng. Tóm lại,
cũng không giảng gì cả. Người nghe “giảng” cảm nhận một sự pha loãng
lời kinh bằng sự hiện hữu của người “giảng”. Lời “giảng” không đóng góp
vào việc làm sáng rõ lời kinh, mà nó gián tiếp làm mờ nhạt đi lời
kinh.
Cũng có trường hợp cách “diễn nôm” và kể chuyện liên hệ
thực tế được kết hợp với nhau tạo thành bài giảng kinh. Việc kết hợp
này càng đẩy người nghe giảng đi xa bản kinh hơn nữa. Lời kinh vừa bị
làm cho loãng, sau đó chỉ kể chuyện vòng ngoài. Cũng là một hình thức
không giảng gì cả!
Một trường hợp khác cũng cần nhắc đến là người
giảng chỉ giảng một số khái niệm Phật học trong một số lời kinh và bỏ
qua những lời kinh khác. Người nghe giảng sẽ được chú giải một số khái
niệm Phật học, nhưng diện mạo bản kinh cũng đã phần nào thay đổi, vì có
nội dung được nhấn mạnh chú giải, có nội dung bị bỏ qua, chừng như
không có. Sau khi nghe giảng, người ta sẽ cảm nhận một bản kinh mới,
không giống với kinh văn nguyên thủy. Vai trò của người giảng đã làm
biến dạng tư tưởng đức Phật ở một chừng mực nào đó. Người nghe cảm nhận
những điều người giảng nhấn mạnh và tập trung chú giải hơn là toàn bộ
tư tưởng đề cập trong bản kinh. Người giảng đã thay đức Phật tạo thành
một bản kinh mới, chỉ có một số yếu tố của bản kinh nguyên thủy.
Cũng
có trường hợp người giảng “đại luận”, nói ra những điều mà thực tế mà
nội dung kinh không có, thoát ly nội dung kinh nhằm biểu diễn vốn kiến
thức Phật học chứ không giảng bám sát nội dung kinh. Kết quả là gì nếu
không là… một bộ kinh khác! Người nghe giảng có thể được phổ biến một
số kiến thức Phật học, nhưng không gắn gì với nội dung bản kinh, Rốt
cuộc đây cũng không giảng gì vào kinh cả. Băng nghe cuốn nào trước hay
sau đều có “kiến thức” Phật học, không cần phải nghe theo thứ tự. Cũng
là một bản kinh “mới” hình thành thông qua chủ quan riêng của người
giảng.
Hiện nay, nhiều ý kiến nói đến những kiến giải riêng của
người giảng kinh trái ngược với tinh thần nội dung kinh, hoặc những ý
kiến mở rộng quá mức, thậm chí là phê phán cả nội dung kinh, cho rằng
không thích hợp với ngày nay, v.v… Tất nhiên đây không phải là giảng
kinh, mà vẫn được giới thiệu như là giảng cụ thể một bộ kinh nào đó.
Những lời bình luận, phê phán như vậy xuyên tạc hẳn nội dung kinh, còn
đâu việc giảng?
Có lẽ, không thể cấm những ý kiến về một số nội
dung nào đó trong một bản kinh cụ thể, nhưng đó hoàn toàn không phải
giảng kinh, mà phải tách hẳn ra ở một lãnh vực khác.
Cũng có
trường hợp, người giảng e người nghe nhàm chán, buồn ngủ, nên cố xen
vào những câu chuyện vui, pha trò, hài hước. Tác dụng của những câu
chuyện như vậy gây tươi vui cũng có, nhưng làm mất trang nghiêm cũng
có. Đó là con dao hai lưỡi, mà nhiều khi người giảng quá lạm dụng. Kết
quả là bản kinh cũng biến dạng vì những câu chuyện hài hước ngoại đề
như vậy. Thật ra, Phật tử tìm nghe giảng kinh chứ không phải nghe… tấu
hài. Không thể khỏa lấp những hạn chế trong kỹ thuật diễn giảng bằng
phương thức “cù léc” được. Tiếng cười trong cử tọa là phản ứng tự nhiên
của những câu chuyện vui, không nên coi là một sự hưởng ứng tích cực,
cổ võ. Tiếng cười làm mất ngay tâm thế thành kính khi nghe kinh dù nó
làm tỉnh ngủ, hay gây không khí sinh động.
Băng giảng tràn ngập
trên tủ kính phòng phát hành các chùa, phát hành lưu động trước cửa
chùa vào những ngày lễ lớn, thậm chí bày bán trên xe đẩy, hay tặng biếu
ấn tống dưới những cái tên rất bảo đảm: Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng
Nghiêm, Kinh Đại Bảo Tích, v.v… Nhưng một phần trong số đó có những vấn
đề như vừa kể trên, nội dung kinh đã biến dạng thành nội dung gì đó,
không thể thống kê hết được. Hoạt động tưởng chừng như hoằng pháp,
trong những trường hợp như vậy lại có tác dụng ngược lại. Vai trò chủ
quan của người giảng kinh loại trừ vai trò đức Phật, tác giả thực sự
của các bộ kinh.
Những yêu cầu của người nghe giảng kinh đối với việc giảng kinh
Cũng
như nhiều Phật tử khác, người viết bài này cũng thường xuyên nghe
giảng kinh, và tất nhiên, cũng có nhiều yêu cầu, mong mỏi đối với việc
giảng kinh từ cương vị của người nghe giảng. Dưới đây, xin ghi lại
những yêu cầu chính:
Người nghe giảng kinh khác với người đi
nghe pháp nói chung ở chỗ người nghe giảng kinh muốn tìm học sâu vào
một bộ kinh cụ thể, xác định. Chính việc tìm học sâu một bộ kinh cụ
thể, xác định khiến yêu cầu đối với việc giảng kinh có thể nói là cao
hơn yêu cầu của việc nghe thuyết pháp nói chung. Trong việc nghe thuyết
pháp, người pháp sư giữ vai trò chủ động hoàn toàn trong việc truyền
giảng nội dung kiến thức Phật học nói chung, còn trong giảng kinh, vai
trò của vị giảng sư trở nên thụ động hơn, vì đã trở thành người giúp
người nghe giảng học một bản kinh cụ thể.
Do vậy, vị giảng sư
không thể có vai trò lấn át tác giả bản kinh, tức đức Phật, và phải phụ
thuộc vào nội dung kinh văn. Như vậy, việc trung thành và bám sát nội
dung kinh văn là yêu cầu hàng đầu. Vẫn đề cập đến kiến thức Phật học
nhưng xa rời nội dung kinh văn là đã lạc đề, chệch hướng.
Chúng
tôi nghĩ rằng bỏ qua việc đọc nội dung kinh văn như một số vị giảng
kinh vẫn làm có lẽ để tiết kiệm thời gian, như vậy thật là một điều hết
sức đáng tiếc. Kinh văn, trước hết là kim ngôn của đức Phật, là đối
tượng mà buổi giảng kinh đang tìm hiểu, nghiên cứu. Không có việc đọc
kinh văn, đối tượng nghiên cứu bị tách rời khỏi hoạt động nghiên cứu,
người nghe giảng kinh cảm thấy thêm khó hiểu, người giảng kinh dễ bị
lạc đề. Vị tôn đức giảng kinh mẫu mực là Hòa thượng Thích Thiện Hoa,
trong những tập giảng kinh trong bộ Phật học phổ thông, luôn luôn có
phần “chánh văn” đặt trước phần lược giải. Để học kinh, hiểu kinh thì
không thể bỏ qua, không nhắc đến kinh văn. Kinh văn là yêu cầu quyết
định trong việc giảng kinh.
Việc dẫn rõ lời kinh là cũng để xác
định đâu là lời Phật, đâu là lời người giảng. Giảng kinh mà không có
kinh văn được dẫn lại rõ ràng, thì tất sẽ dẫn đến sự lầm lẫn, ngộ nhận
nguy hiểm. Người nghe sẽ mù mờ, không biết đâu là “chánh văn”, đâu là
diễn giải. Khi đó, vai trò của người giảng sẽ lấn át vai trò của đức
Phật - tác giả bộ Kinh. Người nghe giảng không xác định được rõ ràng
lời Phật, ý Phật, mà tất cả chỉ thông qua lời giảng mà thôi.
Tôn trọng, dẫn lại kinh văn, buổi giảng kinh mới đúng là một buổi giảng kinh thật sự, không bị nhiễu tạp, pha lộn.
Nắm
được lời kinh là yếu tố bắt buộc phải có để hiểu kinh. Do đó, kinh văn
không những cần được dẫn lại qua lời của vị giảng sư, mà còn cần phải
đọc rõ nguyên văn (từng đoạn, từng phần). Trong Phật học Phổ thông,
phần “Chánh văn” không những tách biệt lên phía trên, mà còn được in
đậm. Kinh Phật là những tác phẩm triết học cao sâu, thâm thúy. Con
đường để hiểu một tác phẩm triết học trước hết là phải đọc. Đọc lời
kinh Phật trước khi bắt đầu tìm hiểu kinh Phật là thỉnh đức Phật về
giữa chúng ta. Việc đọc chính xác và trang trọng lời kinh có tác dụng
tạo trạng huống đưa người nghe về với khung cảnh khi Phật thuyết kinh,
tạo một tâm thế nghe kinh. Điều đó rất thuận lợi cho quá trình nghe
giảng kinh tiếp sau đó.
Đọc văn kinh để xây dựng tâm thế nghe
kinh nơi người giảng là cơ sở tâm lý cho buổi giảng kinh thành công.
Không có kinh văn, mà trái lại là những câu chuyện dông dài, pha trò,
buổi giảng kinh sẽ biến thành một buổi nói chuyện vui về kinh, “tán”
rông về kinh mà thôi, không còn tính chất thiêng liêng, trang nghiêm
nữa.
Tâm thế nghe kinh là một tâm lý thành kính, lắng lòng, cộng
với xúc động trong tình cảm tôn giáo. Trạng thái tâm lý đó không đồng
đều cường độ ở mỗi người nghe giảng, nhưng cần luôn duy trì khi nghe
giảng kinh, mà việc đọc trang trọng các đoạn kinh văn góp phần duy trì
quá trình tâm lý đó. Khi có được tâm lý nghe kinh, người nghe giảng như
nâng mình lên, trở về gần với Đức Phật hơn qua chính văn lời kinh được
đọc nghiêm cẩn. Lời kinh văn là sự gián tiếp xác định việc hiện diện
của đức Phật. Đọc kinh văn cũng là xác định việc giảng kinh phải bám
sát nội dung kinh văn được đọc. Có thể liên hệ thực tế, có thể tự kể
kinh nghiệm bản thân…, nhưng tất cả đều phải phục vụ cho việc hiểu sâu
hơn lời kinh. Kinh văn tạo thành một cái trục, một cái xương sống, mà
lời giảng bám vào đó để phát triển, bồi đắp, đào sâu phân tích. Không
có lời kinh văn, buổi giảng kinh trở thành một thứ cấu trúc không khung
sườn, chông chênh, lệch lạc.
Việc đọc kinh văn trong các buổi giảng kinh tạo cho người nghe kinh đồng thời 2 quá trình “thâm nhập kinh tạng”.
Quá trình thứ nhất là hiểu kinh thông qua chính văn trực tiếp.
Quá
trình thứ hai là hiểu kinh thông qua người giảng. Hai quá trình này bổ
sung cho nhau, tạo nên “thâm nhập kinh tạng” ở người nghe giảng. Không
có kinh văn trong buổi giảng kinh, nhất là không được đọc trang trọng
là điều hết sức bất bình thường khi thâm nhập kinh tạng. Nó tạo ra một
thứ “kinh văn mới” thông qua diễn giải của người giảng kinh và người
nghe kinh chỉ biết đến “kinh văn” chủ quan, đã khúc xạ qua người giảng.
Đây là điều nên hết sức tránh. Vì qua khúc xạ, mỗi bài giảng từ mỗi
người hình thành những bộ “kinh mới”, ngày càng xa dần lời Phật dù rằng
lời Phật vẫn còn đó.
Một trong những yêu cầu nữa của người nghe
giảng kinh đối với việc giảng kinh là được chỉ ra và khắc sâu các ý
chính. Trong khi đó, việc giảng kinh hiện nay lại thiên về hướng mở
rộng, bàn ra… là chính.
Mục tiêu của việc nghe giảng kinh không
phải chỉ là “mãn nhĩ”, hỷ lạc tức thời, mà quan trọng là nắm được toát
yếu của từng bộ kinh, làm kim chỉ nam cho việc tu học, hành đạo. Vì
vậy, việc giúp người nghe giảng kinh thấy được chủ đề bộ kinh, ghi nhớ
những ý chính là điều cần thiết hàng đầu. Học kinh không chỉ nghe suông
rồi quên đi, mà cái cần là người nghe giảng nắm và nhớ được những điều
gì. Được xoáy sâu vào những chủ đề chính của bộ kinh, hướng vào trong
thay vì bàn ra, người nghe giảng sẽ hết sức biết ơn người giảng kinh.
Lời
kinh là lời Phật, bàn rộng ra nhiều quá, e có khi sai ý Phật, hay gán
ghép cho kinh những liên hệ có thể không có. Yêu cầu bám sát kinh văn,
hướng vào lời kinh cũng là nhằm bảo đảm tính chính xác của lời giảng.
Giảng sâu vào lời kinh, lấy lời kinh làm trung tâm là bước thứ hai của
việc đọc lại kinh văn trong buổi giảng. Hướng vào lời kinh, tập trung
vào ý nghĩa bên trong là điều kiện để việc giảng không lạc đề, hay đi
lan man quá xa chủ đề bộ kinh. Tất nhiên, giảng “ra”, kể chuyện ngoài
quá nhiều là làm mờ nhạt đi vai trò của đức Phật. Khi đó, người nghe
giảng chỉ biết đến những câu chuyện liên hệ minh họa, kinh nghiệm tu
tập cá nhân của người giảng. Đây là khuyết điểm thường thấy ở việc
giảng kinh.
Thường, đến nghe giảng kinh, người nghe giảng còn
mong được bổ sung những hiểu biết xung quanh về bộ kinh. Thường kinh
văn chỉ gói gọn trong nội dung kinh, ít đề cập đến hoàn cảnh ra đời của
bộ kinh, bối cảnh xã hội đương thời khi đức Phật thuyết kinh, những
nguyên do chính đưa đến bộ kinh, quá trình lưu hành, phiên dịch bộ
kinh… cho đến khi bản dịch đến trên tay người nghe giảng. Để làm được
việc này, đòi hỏi trước tiên là người giảng phải am hiểu lịch sử của
đức Phật, lịch sử Phật giáo. Không có hiểu biết nhất định về những vấn
đề trên, thì không dễ làm sáng tỏ nội dung kinh. Đức Phật không giảng
kinh theo một “kế hoạch” đã định sẵn, mà người tùy thời mà thuyết pháp.
Đối với giới luật cũng vậy. Kinh và luật không thể tách rời bối cảnh
sản sinh ra nó. Làm sáng tỏ bối cảnh đó là giúp cho người nghe giảng
hiểu sâu hơn về bộ kinh. Đây là nghiên cứu những vấn đề ngoài bộ kinh,
nhưng vẫn đi theo hướng đào sâu vào bộ kinh, tìm hiểu những yếu tố gắn
bó mật thiết với kinh, không phải giảng theo hướng bàn ra, đề cập đến
những yếu tố không liên hệ, hay chỉ có liên hệ mờ nhạt.
Tìm hiểu
bối cảnh lịch sử xã hội của việc ra đời bản kinh không phải đơn thuần
chỉ là chuyện nhắc lại lịch sử, hay đối chiếu văn bản kinh với lịch sử,
mà người nghe giảng yêu cầu chỉ ra mối liên hệ giữa hoàn cảnh lịch sử
và việc hình thành bộ kinh. Mối liên hệ đó biến lịch sử, yếu tố bên
ngoài của bộ kinh, thành một thành tố của chính bộ kinh.
Được
nghe chú giải về bộ kinh cũng là một yêu cầu quan trọng của người nghe
giảng kinh. Kinh văn là những văn bản đã có lịch sử 2.500 năm và ra đời ở
một quốc gia cách chúng ta cả chục ngàn km. Vì vậy, những khoảng cách
về thời gian, không gian tất yếu sẽ làm nảy sinh yêu cầu chú giải nhiều
chi tiết, từ ngữ, tên người, tên đất, v.v… Chú giải cũng là giảng theo
hướng đi sâu vào nội dung kinh, bám sát nội dung kinh, trung thành với
nội dung kinh. Chú giải là phá vỡ các chướng ngại về không gian, thời
gian, đưa kinh văn thâm nhập sâu hơn vào người nghe giảng. Chú giải là
bước phát triển của bước đọc kinh văn trong giảng kinh.
Từ trước
đến nay, việc giảng kinh thường chỉ là một chiều. Người ngồi trên pháp
tòa cứ nói, người nghe giảng ngồi nghe một cách thụ động. Phương thức
này chẳng những xa lạ với phương thức truyền đạt kiến thức trong giáo
dục hiện đại, mà nó cũng không giống với tinh thần thuyết pháp của đức
Phật ngày xưa. Hơn 2500 năm trước, đức Phật đã vận dụng những phương
thức của giáo học pháp hiện đại: hoạt động truyền thụ kiến thức không
phải là hoạt động một phía, một chiều, mà người dạy, người học cùng làm
việc để truyền đạt và lãnh hội. Kinh Phật không chỉ là lời đức Phật mà
còn là lời đối đáp giữa đức Phật và các đệ tử. Đức Phật đã dùng đến
phương pháp giáo dục mà ngày nay gọi là phương pháp gợi mở.
Các
câu hỏi của đức Phật không những để thu nhận những phản hồi từ các đệ
tử, kiểm tra sự tiếp thu, lãnh hội của họ mà còn có tác dụng thúc đẩy cử
tọa cùng suy nghĩ, cùng đào sâu vấn đề, tham gia bàn luận… không thụ
động nghe giảng pháp một chiều.
Rất tiếc là từ các băng giảng
kinh và cả thuyết pháp hiện nay, chúng ta chỉ nghe được lời của giảng sư
và phần nhiều là như vậy. Đây là một bước lùi so với giáo học pháp
hiện đại, mà còn là lùi so với 2500 năm trước thời đức Phật còn hiện
tiền.
Việc so sánh, mở rộng bản kinh hiện đang giảng với các bộ
kinh khác, với các tư tưởng khác và với đời sống thực tế là điều thường
gặp trong các buổi giảng kinh hiện nay. So sánh mở rộng, liên hệ là
rất cần thiết. Tuy nhiên, trong đó, việc liên hệ thực tế cuộc sống hiện
tại, liên hệ kinh nghiệm bản thân người giảng kinh, kể chuyện ví dụ…
lại chiếm một tỷ trọng áp đảo. Người nghe giảng kinh mong tỷ lệ này
được điều chỉnh lại.
Phần dành cho việc so sánh kinh đang giảng
với các bộ kinh Phật khác, với các luồng tư tưởng triết học khác có lẽ
cần được chú trọng hơn. Điều này đòi hỏi ở người giảng kinh kiến thức
vừa sâu, vừa rộng, lại vừa linh hoạt. Chỉ so sánh mở rộng với đời sống
thực tế, buổi giảng kinh sẽ trở thành nôm na, hời hợt. Chỉ so sánh, đối
chiếu với các bộ kinh khác, với các trước tác triết học khác buổi
giảng kinh sẽ trở nên kinh viện, hàn lâm, cao siêu…, tất nhiên khó
hiểu. Vì vậy, yêu cầu của người nghe giảng kinh là mong được cân đối ở
giữa hai cực này của hoạt động giảng kinh.
Giảng kinh là cùng
học kinh, tìm hiểu kinh, không phải là “bình” kinh, đánh giá kinh. Xu
hướng bình “kinh” giống như bình văn rõ ràng không thích hợp với việc
giảng kinh. Nếu chỉ khen kinh, lật tới lật lui lời kinh để rồi tấm tắc,
ca ngợi những chỗ hay của kinh là làm què quặt đi tiến trình giảng
kinh. Giảng kinh, nếu chỉ có vậy thì chỉ là những lời tán than suông,
không giúp ích thiết thực cho việc giảng kinh, hiểu kinh. Càng không
nên phê phán một số điểm trong kinh như một vài xu thế nổi lên gần đây.
Có
thể người viết chưa chia sẻ với một số vấn đề trong kinh điển, đây là
điều có thể chấp nhận, nhưng nêu ra trước đại chúng, lại thu vào băng
phổ biến, qua nhiều năm tháng, số người nghe có thể lên đến hàng chục
ngàn và hơn nữa, thì việc “bình” kinh theo hướng phê phán, nghi vấn,
cho là không hợp thời… là điều cần phải hết sức thận trọng. Mai kia nếu
người giảng suy nghĩ lại, phát hiện ra ý kiến mình nếu lúc trước là
sai, muốn rút lời lại cũng không thể được.
Người nghe giảng kinh
cũng không chia sẻ với việc đi quá sâu vào những ý nhỏ mà người giảng
tâm đắc. Như vậy, cấu trúc của buổi giảng kinh chẳng những mất cân đối
mà ngay cả diện mạo của bộ kinh cũng phần nào biến dạng. Người giảng
cần tự hạn chế những cảm hứng chủ quan của mình khi giảng kinh, dành
vài trò chủ đạo cho lý trí. Giảng kinh khác rất xa với giảng văn. Giảng
văn thiên về tình cảm còn giảng kinh yêu cầu cao ở lý trí, kiến thức
người giảng, kinh nghiệm tự học. Cảm hứng tùy tiện, sa đà cũng không
thích hợp với việc giảng văn huống hồ là đối với việc giảng kinh.
Giảng
kinh khó hơn nhiều lần so với thuyết pháp, cả đối với người giảng lẫn
người nghe giảng. Vì thế, ngày xưa Hòa thượng Thích Thiện Hoa xếp giảng
kinh vào phần nâng cao của bộ Phật học Phổ thông. Về phía người nghe
giảng yêu cầu đặt ra đối với việc giảng kinh, như trình bày ở trên chỉ
là tối thiểu, để có những buổi giảng kinh thực sự là giảng kinh. Những
yêu cầu cao hơn cần được tiếp tục nghiên cứu cả ở người nghe giảng lẫn ở
phía giảng sư.
Minh Thạnh
(phapluanonline.com)