Cư sĩ là một trong bốn chúng đệ tử của Đức Phật. Cư sĩ gồm có số đông,
trong khi các tu sĩ Phật giáo, là thành phần nổi bật, xuất thân từ Cư
sĩ. Do đó giới Cư sĩ là lực lượng cần phải tu học, phải thăng hoa để
trong hoàn cảnh thuận tiện trở thành tu sĩ. Mặt khác, nhận giáo pháp của
đức Phật, người cư sĩ có bổn phận phải nổ lực tu tập, thực hành và góp
phần truyền bá giáo pháp, tức là góp phần chuyển pháp luân để đem ánh
sáng giải thoát cho đời. Như vậy, chức năng, vị trí của người Cư sĩ vô
cùng quan trọng trong việc phát triển Phật giáo trong ý nghĩa độ tha
cũng như chuẩn bị hoàn cảnh tốt đẹp cho việc tự độ của mình.
I.CHỨC NĂNG, VỊ TRÍ CỦA NGƯỜI CƯ SĨ PHẬT
TỬ
Cư sĩ là một trong bốn chúng đệ tử của Đức Phật. Cư sĩ gồm
có số đông, trong khi các tu sĩ Phật giáo, là thành phần nổi bật, xuất
thân từ Cư sĩ. Do đó giới Cư sĩ là lực lượng cần phải tu học, phải thăng
hoa để trong hoàn cảnh thuận tiện trở thành tu sĩ. Đức Phật luôn dặn dò
chư đệ tử “Vì lợi ích và hạnh phúc số đông”, số đông ở đây nổi rõ nhất
là thành phần cư sĩ. Như vậy, Cư sĩ là đối tượng để được xây dựng và xây
dựng một xã hội đúng theo Chánh Pháp của đức Phật. Đức Phật từng dạy Cư
sĩ Anathapindika: “Này gia chủ, vị Thánh đệ tử hộ trì các Tỳ-kheo bằng
cách cúng dường y phục, thực phẩm, sàng tọa và dược phẩm”. Lời dạy ấy đã
thành truyền thống hộ trì chư Tăng Ni của các Cư sĩ kể từ 25 thế kỷ
qua.
Mặt khác, nhận giáo pháp của đức Phật, người cư sĩ có bổn
phận phải nổ lực tu tập, thực hành và góp phần truyền bá giáo pháp, tức
là góp phần chuyển pháp luân để đem ánh sáng giải thoát cho đời. Như
vậy, chức năng, vị trí của người Cư sĩ vô cùng quan trọng trong việc
phát triển Phật giáo trong ý nghĩa độ tha cũng như chuẩn bị hoàn cảnh
tốt đẹp cho việc tự độ của mình.
II.SỰ THAM GIA XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN PHẬT GIÁO CỦA NGƯỜI CƯ SĨ PHẬT TỬ
Trong thời đức Phật,
giáo đoàn Tỳ kheo phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, mang hình thức Giáo
hội là do sự hộ trì, đóng góp xây dựng của quần chúng cư sĩ. Tên tuổi
các vị vua như Bimbisara, Ajatasattu, Pasenadi…, các đại Cư sĩ như
Anathapindika, Visakhà, Migaràmata, Jivaka, Mahanàma, Ambapàli… Cư sĩ
Citta Machikasandika đứng đầu một hội chúng gồm nhiều ngàn người cùng
học, cùng thảo luận pháp được đức Phật khen ngợi. Ngoài ra còn có nhiều
Cư sĩ nổi danh về thuyết pháp như nam Cư sĩ Hathaka Alavaka, nữ Cư sĩ
Suppavasà Koliyadhità, được đức Phật khen ngợi là đệ nhất thuyết pháp.
Trong kinh điển Đại thừa, Ngài Duy Ma Cật được xem là vị Cư sĩ có tuệ
giác bậc nhất trong thời kỳ đức Phật.
Về sau, khi đức Phật đã
nhập Đại Niết bàn, nhiều vị vua chúa ở Ấn Độ, Tích Lan, Trung Hoa, Việt
Nam… đều ra sức ủng hộ Phật giáo, trong đó vị vua có công lao lớn nhất
trong việc hoằng dương Chánh pháp là vua Asoka ở Ấn Độ. Ở Việt Nam, sự
đóng góp của Cư sĩ trong công cuộc phát triển Phật giáo nổi rõ nhất là
vào đời Trần, khi vua quan và cả hoàng tộc đều một lòng ủng hộ Phật
giáo. Vua Trần Nhân Tông được xem như một Asoka của Việt Nam và Tuệ
Trung Thượng Sĩ có thể được ví như Duy Ma cật của Ấn Độ, như Bàng Uẩn ở
Trung Hoa.
Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến công lao xây dựng
và phát triển Phật giáo của giới cư sĩ Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ
chấn hưng Phật giáo và trong suốt 5, 6 mươi năm tiếp theo cho đến ngày
nay. Trước làn gió mới chấn hưng Phật giáo Trung Hoa và Ấn Độ, Phật giáo
Việt Nam cũng chuyển mình và những cải cách mới xứng đáng để tạo thành
một phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam, trong đó lực lượng cư sĩ,
đặc biệt là giới trí thức tân học đã có những đóng góp lớn lao.
Tại
Nam Kỳ, năm 1930, hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học ra đời với một lực
lượng Cư sĩ khá mạnh gồm Phạm Ngọc Vinh, Huỳnh Văn Quyền, Trần Nguyên
Chấn, Trần Văn Khuê, Nguyễn Văn Nhơn, Lê Văn Phổ, Nguyễn Văn Cần, lấy
tạp chí Từ Bi Âm làm tiếng nói chính. Năm 1932, Phật học Tùng thư ra đời
nhằm phổ biến kinh sách Phật học, do cư sĩ Đoàn Trung Còb đứng đầu vớI
sự hợp tác của một nhóm cư sĩ Nguyễn Văn Vật, Nguyễn Trung Hiếu, Nguyễn
Văn Thiện… Năm 1934, một số đông Cư sĩ với sự lãnh đạo của chư tôn Hòa
Thượng, Thượng tọa thành lập hội Lưỡng Xuyên Phật học. Năm 1936, các cư
sĩ mở Hội Tịnh Độ cư sĩ có tầm họat động lớn khắp các tỉnh Nam bộ, đến
các vùng xa xôi. Hội có tạp chí Pháp Âm làm tiếng nói, với các cư sĩ chủ
đạo như Lê Văn Hậu, Trần Quỳnh… Đồng thời, Hội Phật học Kiêm Tế cũng
hầu hết là cư sĩ, có khuynh hướng cải tiến xã hội với tạp chí Tiến Hóa.
Năm 1950, Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền cùng một số cư sĩ Phật tử trí
thức tân học, lập hội Phật học Nam Việt, tạo nên một sinh khí mới trong
giới học Phật với những sinh hoạt sáng tác, nghiên cứu dịch thuật Phật
học. Tạp chí Từ Quang của Hội ra đời từ năm 1950 đến năm 1973 đã giúp
ích rất nhiều cho sự học hỏi của giới Phật tử. Hội có tầm hoạt động khá
rộng rãi, gồm 40 tỉnh hội và chi hội khắp miền Nam.
Tại Bắc Kỳ,
năm 1935, Hội Phật giáo Bắc kỳ ra đời, nòng cốt gồm các cư sĩ giới trí
thức Tân và Cổ học như Sở Cuồng Lê Dư, Nguyễn Hữu Kha, Nguyễn Năng Quốc,
Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Cung Đình Bính, Trần Văn Giáp, Nguyễn Can Mộng,
Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn Tố… Tờ báo Đuốc Tuệ của Hội đã góp phần không
nhỏ trong công cuộc truyền bá Giáo lý Phật giáo.
Tại Trung kỳ,
năm 1932, Hội An Nam Phật học ra đời, mở đầu một giai đoạn phát triển
mạnh của Phật giáo miền Trung và đóng góp lớn cho phong trào chấn hưng
Phật giáo cả nước. Ngoài chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa sáng lập, các Cư
sĩ có công lao rất lớn trong việc xây dựng và phát triển Hội cũng như
cải tiến, chấn hưng Phật giáo như Bác sĩ Lê Đình Thám, Nguyễn Khoa Tần,
Ưng Bàng, Bửu Bác, Viễn Đệ, Trần Đăng Khoa, Tôn Thất Tùng, Nguyễn khoa
Toàn, Bà Diệu Không… Tạp chí Viên Âm của Hội sớm có uy tín nhờ nỗ lực
hiệu năng của Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Năm 1940, Đoàn Thanh niên
Phật học Đức Dục ra đời, sau đó là Gia đình Phật Hóa Phổ do cư sĩ Lê
Đình Thám sáng lập, nhằm giáo dục, truyền bá Phật pháp cho thanh thiếu
niên. Trong khoảng thời gian này, Cư sĩ Lê Đình Thám tham gia giảng kinh
luận Phật học, đào tạo nhiều vị xuất sắc, sau này là những bậc Tôn túc
nòng cốt trong giáo hội. Năm 1947, Gia đình Phật tử ra đời, như là một
sự hóa thân và phát triển của Gia đình Phật Hóa Phổ, ban Hướng dẫn đầu
tiên của Gia Đình Phật tử Thừa thiên gồm các cư sĩ Võ Đình Cường, Tống
Hồ Cầm, Phan Cảnh Tuân, Văn Đình Hy, Cao Chính Hựu, Phan Xuân Sanh,
Hoàng Thị Kim Cúc, Đặng Tống Tịnh Nhơn, Lê Văn Dũng… Từ những GĐPT đầu
tiên ở Huế, phong trào GĐPT đã phát triển ra nhiều tỉnh ở trong Nam và
ngoài Bắc. Đến năm 1973 số Đoàn sinh Gia đình Phật tử lên đến 200.000
người.
Song song với việc phát triển GĐPT, một đóng góp lớn khác
của giới cư sĩ Phật tử là việc xây dựng và phát triển hệ thống trường Bồ
Đề. Thành phần ban Giám hiệu, ban Bảo trợ, Văn phòng và nhất là lực
lượng Giáo sư phần lớn đều là các Cư sĩ Phật tử. Chỉ tính đến năm 1963,
đã có 163 trường Bồ Đề tại miền Nam.
Một góp công khác cũng là
một hy sinh to lớn của giới cư sĩ Việt Nam được thể hiện nổi bật là
phong trào chống độc tài và kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình
Diệm 1963. Các cư sĩ Phật tử, gồm đủ mọi thành phần trí thức, lao động
chân tay, thương gia, tiểu thương… gồm nam nữ, già trẻ, dưới sự lãnh đạo
chư Tôn đức trong Giáo hội, hoặc tự phát, đã đứng lên đấu tranh, vận
động quần chúng và đã bị giết, bị tù đày, tra tấn không kể xiết.
Thực
ra, nếu không có sự đóng góp công sức của hàng Cư sĩ thì Phật giáo
không thể nào phát triển được; vì như trên đã nêu về chức năng và vị trí
của người cư sĩ, chúng ta thấy Cư sĩ là đối tượng truyền bá, học tập,
thực hành giáo lý của đức Phật, chính các Cư sĩ đang sống trong lòng xã
hội, đang làm văn hóa, chính trị, đạo đức, cũng như đang thực hiện, đang
cải tạo và đang sống trong các lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng cũng như
các kiến trúc thượng tầng của mọi sinh hoạt của con người.
III.PHƯƠNG
HƯỚNG ĐÓNG GÓP CHO PHẬT GIÁO CỦA NGƯỜI CƯ SĨ PHÂT TỬ TRONG HIỆN TẠI
CŨNG NHƯ TRONG TƯƠNG LAI
Sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ
thuật trong những thập niên cuối thế kỷ 20 đã tạo ra những vấn đề lớn
cho xã hội loài người. Chiến tranh, suy thoái đạo đức, khủng bố bạo lực,
ô nhiễm môi trường, sinh thái v.v… là những biểu hiện của tham sân si,
điều này cũng có ý nghĩa là hạnh phúc con người bị giảm thiểu, trong khi
đau khổ vẫn cứ tăng lên. Phật giáo luôn nêu cao thông điệp cứu khổ và
cứu cánh giải thoát, cần phải nhập thế nhiều hơn và để được như thế,
người Cư sĩ Phật tử với truyền thống đóng góp, xây dựng và phát huy đạo
Phật, là những người đang sống trong lòng xã hội, nhạy bén với các vấn
đề của thời đại, cần phải có phương hướng hoạt động cụ thể để hành động
vì lý tưởng của Phật giáo, vì hạnh phúc của số đông:
1.Trước hết
là giới Cư sĩ cần phải tranh thủ được sự chứng minh và lãnh đạo của chư
vị cao Tăng, chư tôn túc trong Giáo hội. Được như thế, ý nghĩa Tam Bảo
được trọn vẹn, tự bản thân Cư sĩ đang làm Phật sự cũng như quần chúng sẽ
được khích lệ, niềm tin Phật sẽ gia tăng không ngừng.
2.Người
Cư sĩ phải không ngừng tu tập giáo lý của đức Phật để tự mình thăng tiến
và lôi cuốn những người chung quanh. Nhiều nhóm Phật học Cư sĩ cần phải
được thiết lập có tổ chức và mở rộng sinh hoạt trong từng chùa, từng
địa phương, từng tỉnh, trong nước và tùy theo tầm cỡ hoạt động, có thể
mang tính chất quốc tế. Người cư sĩ trong hội cần tham gia nghiên cứu
kinh điển, giảng pháp, thảo luận. Do vấn đề tổ chức và quan điểm, không
phải đặt vấn đề thống nhất các hội đoàn Phật học khi hoàn cảnh chưa
thuận tiện. Càng nhiều hội đoàn, không khí sinh hoạt càng phong phú, đa
dạng. Sách báo của từng hội đoàn cần phát hành đều đặn để khích lệ quần
chúng nghiên cứu và học Phật.
3.Cần thành lập các hội đoàn
chuyên ngành để chuyên môn hóa sinh hoạt của các Cư sĩ Phật tử, ví dụ
Hội hay Đoàn Phật tử nghiên cứu hay thực hiện kế hoạch phát triển xã
hội, bảo vệ môi sinh, bảo vệ hòa bình, xây dựng và phát triển đạo đức,
giáo dục, văn hóa Phật giáo. Thậm chí cần có những hội đoàn nghiên cứu
khoa học kỹ thuật, thương mại, ngân hàng v.v…. Nói chung, cần thể hiện
nếp sống Phật giáo trong tất cả mọi lĩnh vực sinh hoạt của xã hội.
4.Xây
dựng, giáo dục thế hệ trẻ có nếp sống năng động, phù hợp với thời đại
nhưng lấy giáo lý Phật giáo làm chỉ nam. Người Cư sĩ có thể đứng ra mở
trường, nhà giữ trẻ… tiến đến một hệ thống trường Bồ-đề như mấy chục năm
trước đây ở Việt Nam. Tổ chức Gia đình Phật tử cần được xây dựng, phát
triển và cải tiến về tổ chức và nội dung sinh hoạt cho phù hợp với thời
đại, từng địa phương…
5.Người Cư sĩ có cần phải giữ bổn phận đối
với chư Tăng Ni, tham gia các công tác Phật sự tại chùa, thường xuyên
đến chùa để nghe giảng kinh, sinh hoạt tôn giáo, cúng dường Tăng Ni,
trong hoàn cảnh cho phép, người Cư sĩ cần tham gia vào ban lãnh đạo
trong các tổ chức của giáo hội, cố gắng làm một thành viên trong tổ chức
Giáo hội địa phương hoặc trung ương, thể hiện ý nghĩa tứ chúng đồng tu
mà đức Phật đã thiết lập.
IV.KẾT LUẬN
Vì đệ tử Phật gồm
tứ chúng, trong đó có hai chúng là Cư sĩ nam và nữ, cho nên nếu không có
Cư sĩ thì không thành ý nghĩa Giáo Hội Phật Giáo. Nếu không có Cư sĩ,
những Cư sĩ có điều kiện tốt để tu tập, để trở thành Tu sĩ sẽ không có,
và do đó sẽ không có Tăng già. Xây dựng và phát triển Phật giáo là bổn
phận của người Cư sĩ, thực tế lịch sử đã chứng minh Phật giáo muốn phát
triển mạnh cần phải có sự đóng góp tích cực công sức của giới Cư sĩ.
Những
nét khái quát về phương hướng hoạt động trên chỉ là những gợi ý, cần
được bổ sung, cần được lập kế hoạch cụ thể theo từng nội dung hoạt động.
Và trước hết, để có thể thực hiện lý tưởng giải thoát, diệt trừ khổ
đau, người Cư sĩ cần có lòng tin kiên cố đối với Tam Bảo, có trí tuệ và
khả năng trong thực hành, có đức hạnh và có quyết tâm vì Đạo vì Đời.
Võ
Đình Cường |