Hoằng pháp: Bài toán vừa khó, vừa dễ
Thiện Hòa
12/03/2010 00:55 (GMT+7)

Nói đến hoằng pháp là nói đến sự ưu tư trước cơ đồ phát triển của Phật Giáo trong thế kỷ mới. Bởi nhìn vào con số thống kê của thế giới, thì các tôn giáo khác đều có hơn 1 tỷ tín đồ, trong khi PG chỉ mới vài trăm triệu.

Đó là tính trên lượng. Còn trên chất, thì chúng ta đào tạo được bao nhiêu Phật tử có học hành, hiểu biết giáo lý đúng đắn? Hay chỉ là những con số đến quy y rồi trở về với nguyên trạng mê tín, lạc hậu? Trong khi đó, PG lại được các nhà khoa học, nghiên cứu trên thế giới, kể cả nhà bác học Anh-xtanh công nhận là ưu việt hơn cả. Sự mâu thuẫn này thật sự rất đau xót, và trách nhiệm lớn nhất có lẽ ở ngành hoằng pháp, ở vai trò của người xuất gia đã không làm tròn câu “Hoằng pháp vi gia vụ- Lợi sanh vi bổn hoài”.

Tất nhiên, người xuất gia có nhiều hạnh nguyện, nhưng hạnh nguyện cao nhất phải là hoằng pháp. Vì nếu không như thế, thì giáo pháp cao quý của Đức Phật sẽ mai một dần, và Tam Bảo sẽ không còn đủ 3 ngôi. Mà xét cho cùng, giáo pháp mới là ngọn đuốc dẫn đường cho người ta biết sống thế nào an lạc, hạnh phúc. Giáo pháp như tấm bản đồ giúp con người tìm lối đi tốt đẹp giữa rừng rậm cuộc đời, mất tấm bản đồ ấy, chắc chắn con người sẽ lạc bước vào tội lỗi. Thế cho nên, coi trọng công tác hoằng pháp cũng không có gì quá đáng.

Và hiện tại, chúng ta đang phải giải một bài toán hoằng pháp vừa có nhiều khó khăn lẫn thuận lợi trong một bối cảnh xã hội mới, hiện đại hơn, phát triển hơn.Qua thời gian hoạt động thực tế, lẫn quan sát, suy tư, và rút kinh nghiệm, chúng tôi tạm đặt nghiệm số của bài toán là x, trong khi những tham số có sẵn là a, b, c, d, e, f, sẽ lần lượt được trình bày để quý vị tham khảo và góp ý.

a= KHẢ NĂNG GIẢNG SƯ

Khả năng giảng sư có thể coi là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc hoằng pháp. Vì không có con người thực hiện, thì sẽ không có công việc hoàn thành. Và khả năng giảng sư bao gồm những yếu tố như sau:
a1: nhiệt tình
a2: năng khiếu
a3: sáng tạo, năng động
a4: rèn luyện, học tập
a5: các kỹ năng khác hỗ trợ
a6: phước đức

*nhiệt tình: hay đúng hơn phải gọi là tâm nguyện của vị giảng sư. Người có tâm nguyện mạnh mẽ đối với hoằng pháp, thì sẽ không ngại khó, ngại khổ, không cân đo quyền lợi, không tính toán thù lao. Có khi phải lạy Phật, khấn trước Phật, phát nguyện nghiêm túc, như một lời thề, như thế sẽ có thêm sức mạnh bản thân, đồng thời thêm lực gia hộ từ chư Phật, chư thiên. Không phát nguyện đàng hoàng, chúng ta sẽ vui làm, buồn bỏ, không cố gắng giữ uy tín. Từ tâm nguyện, nhiệt tình này, sẽ chiêu cảm nhiều thứ khác, thí dụ chúng ta sẽ ham học hỏi, nghiên cứu tài liệu để giảng dạy cho sâu sắc (a4), cố gắng sáng tạo cách dạy hấp dẫn, dễ hiểu (a3), tìm thêm các hoạt động khác lôi cuốn người học đến chùa (a5) v.v... Nói chung, nhiệt tình là cái gốc của vị giảng sư dấn thân, và khi đã dấn thân thì sẽ xoay sở để vượt qua mọi khó khăn.

*năng khiếu: có nhiệt tình rồi, nếu có thêm năng khiếu nữa thì giảng sư sẽ thành công lớn. Thực tế, trong tăng đoàn chúng ta số người có năng khiếu giảng dạy không nhiều lắm. Đây là món quà “trời cho” không thể trách móc ai được. Tuy nhiên, trong trường hợp ít năng khiếu sư phạm đi nữa mà có nhiệt tình thì việc hoằng pháp cũng được bù đắp ít nhiều, cũng thành công khả quan. Bù đắp từ đâu? Từ việc nghiên cứu, học hỏi tài liệu, từ việc mày mò sáng tạo. Bản thân chúng tôi cũng không hề có năng khiếu sư phạm, nhưng khi lên giảng chúng tôi đã chuẩn bị giáo án rất chu đáo, làm thêm những mô hình minh họa cho bài học, cắt dán từ tranh ảnh, vui mắt, dễ thuộc, khiến Phật tử thích thú, không buồn ngủ. Tóm lại, giảng sư không có “năng khiếu” cũng đừng sợ, cứ mạnh dạn vào cuộc, dần dần “nghề sẽ dạy nghề”.

*sáng tạo, năng động: điều này tưởng trùng lắp với năng khiếu, nhưng thật ra không phải. Có người năng khiếu sư phạm đầy mình, nhưng lười động não, thì chỉ dừng lại ở mức độ nào đó. Còn người có tính sáng tạo, dù họ không chuyên dạy học, mà chuyên về mỹ thuật, văn chương, trồng cây kiểng chẳng hạn, khi cần tham gia hoằng pháp họ vẫn động não tìm ra cách dạy tốt. Tính sáng tạo nằm trong mỗi con người, bất luận đang theo nghề gì, và khi cần thiết thì họ có thể áp dụng vào mọi hoạt động khác nhau. Chúng tôi là người chỉ quen làm thơ, làm báo, chưa đi dạy bao giờ, vậy mà đã cố gắng sáng tạo ra những cách cho Phật tử học pháp dễ nhớ, mau thuộc. Nói cho cùng, dù có năng khiếu hay không thì vị giảng sư cũng phải sáng tạo thường xuyên, để tránh sự đơn điệu, nhàm chán cho người học lẫn cho bản thân mình.

*rèn luyện, học tập:  giảng sư phải bổ sung kiến thức, cập nhật hoá những thông tin mới, tiếp cận được với hơi thở cuộc sống và con người hôm nay, thì mới tìm ra cách thuyết phục thính chúng. Cho nên, bên cạnh học nội điển, chúng ta còn ủng hộ việc đọc báo, xem thời sự, xem phim, ca nhạc, với mục đích không phải tham luyến mà là quan sát cuộc sống, tìm lối đi phù hợp cho hoằng pháp. Khi giảng, nếu dẫn chứng ngay những gì đang xảy ra trong xã hội, thì mọi người thú vị hơn. Thí dụ, trong một buổi nói chuyện về chữ hiếu, chúng tôi đã kể câu chuyện một ông phó chủ tịch UBND tỉnh bất hiếu với mẹ già, bị đăng báo cách đây mấy năm, ai nấy đều thích nghe. Hoặc khi nói về cõi trời, chúng tôi dẫn chuyện phim Tây Du Ký khiến các em thiếu nhi dễ hình dung, thậm chí còn cười rộ, khoái chí. Nhờ vậy, giữ được không khí lớp học sinh động, tươi tắn.

*các kỹ năng khác hỗ trợ: qua kinh nghiệm, chúng tôi thấy rằng muốn tạo cho Phật tử ham học lâu dài thì ngoài việc giảng pháp chúng ta có thể chen vào những sinh hoạt tập thể lành mạnh, để tạo một không gian vui vẻ, phong phú. Chẳng hạn, có thể ca hát, vẽ vời, đố vui, nữ công gia chánh, thơ văn, học ngoại ngữ, tin học... Ngôi chùa biến thành một trung tâm văn hoá, giúp ích cho đời sống tinh thần của Phật tử, chứ không quá xa lạ, trang nghiêm, đặc biệt với Phật tử trẻ. Như thế họ sẽ gắn bó với Tam Bảo, thì lúc ấy muốn hoằng pháp cỡ nào cũng được. Vị giảng sư nên học thêm vài môn thế học lành mạnh để làm phương tiện. Nếu không, có thể mời những Phật tử thành thạo đến hợp tác, giúp sức.

*phước đức: đây mới chính là tiềm lực ẩn phía sau, gần như quyết định sự nghiệp của vị giảng sư. Người có phước đức lớn, từ nhiều đời nhiều kiếp, thì nổi tiếng ngay, thuận lợi đủ bề. Người kém phước đức, thì gặp nhiều nghiệp duyên, thậm chí muốn lên giảng cho người ta cũng không được, vì không đủ hảo tướng, hoặc ngôn ngữ, hoặc sự ủng hộ v.v... Tuy nhiên, với một tâm nguyện mạnh mẽ thì chúng ta có thể chuyển nghiệp được. Có người cứ cần mẫn làm công tác cho chùa, cho huynh đệ, chuyện nhỏ chuyện lớn gì cũng không từ nan, tích lũy phước đức để sau này thực hiện hoài bão. Có người bắt đầu bằng những buổi dạy pháp rất khiêm tốn, chỉ một vài Phật tử cũng tận tụy truyền trao sở học. Có người lặn lội vùng sâu vùng xa, tìm nơi đói pháp mà trao. Có người ủng hộ tài vật cho giảng sư khác, hoặc lo cho tăng ni sinh ăn học, cúng dường sách vở. Có người ấn tống kinh sách, băng đĩa phát cho Phật tử...

Những nhân tốt đó đều đưa đến quả lành là vị ấy sẽ đạt được tâm nguyện hoằng pháp. Thật ra, khi đã phát nguyện mạnh mẽ là vị ấy đã nuôi cái đức rồi, trước sau gì cũng được gia hộ. Chúng tôi nghĩ rằng đây mới là cái gốc để giảng sư vun bón nhiều nhất, vì có phước đức thì tự nhiên sinh ra năng khiếu, sinh ra sự sáng tạo, trí thông minh học hỏi, và những thuận duyên khác nữa (như sự ủng hộ của trụ trì, chính quyền, tài chánh...). Ngược lại, nếu có sẵn phước đức mà không biết giữ gìn, lại làm hao tổn đi, như tính toán thù lao, chê vùng khó khăn, xa xôi, ganh tỵ đồng nghiệp, kiêu căng, mất oai nghi phẩm hạnh... thì sự nghiệp hoằng pháp cũng bị gãy đổ.

b= SỰ ỦNG HỘ CỦA TRỤ TRÌ, CHÍNH QUYỀN, GIÁO HỘI

Chúng ta đang sống trong quốc độ nào thì đương nhiên phải tôn trọng sự quản lý của chính quyền sở tại, và khi làm Phật sự thì chịu sự quản lý của Giáo hội, của trụ trì nơi trú xứ ấy. Nghị định của Chính phủ đã cho phép các hoạt động của tổ chức tôn giáo trong đó có hoạt động truyền đạo, giảng đạo tại cơ sở (điều 7, chương III), do đó chúng ta hãy tuân thủ những nguyên tắc cần thiết để bảo đảm sự an toàn, minh bạch. Thí dụ xin cấp giấy phép nếu có tổ chức đạo tràng quy mô, hoặc những buổi lễ long trọng. Nếu cần thiết, có thể giải thích cho địa phương hiểu mục đích tốt đẹp của việc hoằng pháp là góp phần nâng cao trí tuệ người Phật tử, để họ góp phần đúng đắn vào công việc xây dựng đạo pháp, xây dựng quốc gia, xã hội.

Thông thường, vị trụ trì gây được thiện cảm với chính quyền thì việc hoằng pháp rất thuận lợi. Có những nơi, chỉ cần xin giấy phép lần đầu tiên và mời đại diện chính quyền tham dự, thế là những lần sau họ không thắc mắc, đòi hỏi nguyên tắc gì nữa. Nói chung, đức độ của vị trụ trì thuyết phục được mọi người xung quanh. Chính vì thế, trong những lần tổ chức hoằng pháp, chúng tôi thường chú ý chọn những ngôi chùa có vị trụ trì đức độ, dù vị ấy không giỏi giang, không học hành nhiều cũng chẳng sao. Đức độ ấy đủ chiêu cảm những yếu tố thành công khác.

c= CƠ SỞ VẬT CHẤT

Dĩ nhiên, công tác hoằng pháp phải cần một số cơ sở vật chất làm phương tiện hoạt động. Thí dụ, phòng ốc, ampli, loa, đèn, phấn bảng, bàn ghế, bút mực v.v... Tuy nhiên, đừng quá quan trọng tiêu chuẩn này rồi thấy cái gì cũng khó khăn, không đủ điều kiện hoạt động, rồi bỏ cuộc. Hoằng pháp có nhiều dạng, nhiều cách. Có khi tổ chức thành buổi giảng quy mô cho hàng trăm Phật tử, có khi tổ chức thành lớp học cho vài chục người, có khi chỉ cần trao đổi đơn giản trong vòng vài người bằng dạng đàm đạo...

Vấn đề là đem được giáo pháp đến cho Phật tử, bất luận nhiều ít, đừng tham lam phải làm lớn, làm rình rang mà quá sức mình, quá sức cung cấp của trú xứ. Tuỳ duyên mà độ chúng sanh, miễn sao tâm nguyện của mình chân thành là được. Có nhiều vị học ra trường về lại địa phương, bảo rằng chùa nhỏ, chùa nghèo, không hoằng pháp được. Nhưng chúng tôi đã thử nghiệm tại những ngôi chùa cực kỳ hẻo lánh, tạm thu xếp cho các em ngồi tại chánh điện, lấy kệ tụng kinh làm bàn viết, hoặc tận dụng một chái nhà kho ngổn ngang, nóng nực làm nơi ngồi học, không có bàn ghế thì dùng những bộ ván lung lay thường ngồi ăn cơm, không có ampli thì dành dụm tiền mua tạm một bộ loa mini...

Ấy thế mà lớp học rất đông, từ 40 tới 100 em, và học cả năm trời không bỏ cuộc, kết thúc giáo trình 10 bài chính quy gồm Lịch sử Đức Phật, Tam quy Ngũ giới, Bổn phận Phật tử tại gia, Thập thiện nghiệp, Tứ nhiếp pháp, Vu lan bồn, Nhân quả, Vô thường, Luân hồi, Thiểu dục tri túc. Dẫn chứng dài dòng như thế để khuyến khích tinh thần tăng ni sinh trẻ đừng ngại khi phải dấn thân hoằng pháp trong điều kiện thiếu thốn. Cơ sở vật chất đôi khi chỉ là ngoại lực, nhưng nội lực trong bản thân chúng ta mới là quan trọng.

d= ĐỐI TƯỢNG HOẰNG PHÁP

Bài toán này thành công bao nhiêu còn tuỳ thuộc vị giảng sư biết đánh giá đối tượng nghe pháp để chọn lọc bài học, chọn cách giảng dạy cho phù hợp. Chúng tôi tạm chia theo các yếu tố sau:

d1: độ tuổi

*già: đa số thích nghe chuyện nhân quả, chuyện cổ, cõi nào sẽ về sau khi mệnh chung... Cái lo của họ là tương lai nằm ở kiếp sau và thêm nữa là bệnh tật đang làm họ khổ sở.

*trẻ: cái lo lại là tương lai nằm trong năm, mười năm tới, có thành đạt, giàu có hay không. Có thể nhấn mạnh nhân quả để định hướng thiện nghiệp cho họ. Nhưng trên hết vẫn là tính khoa học, dí dỏm, sinh động.
*trung niên: họ cần lý giải những ưu tư trong cuộc sống dưới cái nhìn của Phật Giáo, thắc mắc rất nhiều, và thường có chiều sâu do đã trải nghiệm cuộc sống. Vì vậy, vị giảng sư cần tham khảo nhiều tài liệu để giảng dạy sâu sắc hơn, nếu chỉ bám tài liệu một cách khô khan e rằng họ mau nản vì không giải quyết được những bận tâm của họ.

d2: thành phần

*nông dân: tất nhiên họ sẽ thích cách nói giản dị, dễ hiểu hơn là dùng chữ nghĩa văn hoa. Đôi khi giảng sư học được những phương ngữ nơi vùng đất ấy, sẽ tạo thêm thiện cảm với họ. Hoặc tìm hiểu hoàn cảnh vài người, rồi dẫn chứng, họ rất cảm động, nghĩ rằng giảng sư quan tâm đến họ. Người nông dân học chậm, nhưng tâm hồn lại thuần khiết, nên giảng sư dạy cái gì là họ tiếp thu trọn vẹn cái đó. Không cần dạy nhiều, chỉ cần xoáy vào những trọng tâm của cuộc sống là đủ giúp họ có cái nhìn đúng đắn với đạo, gây nhân quả tốt, chuyển nghiệp. Tham dạy nhiều mà họ học không nổi, họ sẽ chán, mà giảng sư cũng chán

*trí thức: đối tượng này lại rất khó chinh phục, nhưng khi đã chinh phục được rồi thì họ sẽ phát triển Phật pháp, rất đáng mừng. Trước hết, giảng sư phải giỏi. Giỏi về pháp lẫn về oai nghi, ngôn ngữ, kiến thức tổng quát. Họ không chấp nhận để người khác dắt đi dễ dàng, mà thường lắng nghe rồi suy tư, phản biện, thắc mắc... Mối quan tâm của họ không chỉ là những vấn đề thiết thực trong cuộc sống, mà còn là những vấn đề trừu tượng hơn, vĩ mô hơn. Có người học để thoả mãn khao khát về kiến thức nên họ càng đào sâu bài học, đào sâu vấn đề hơn nữa. Có trường hợp, họ cùng nghiên cứu song song với giảng sư, chứ không chỉ nằm ở vị trí thầy trò. Bởi thế, giảng sư phụ trách đối tượng này sẽ rất thú vị, nhưng cũng rất lo lắng, phải chuẩn bị bài vở chu đáo hơn, nghiên cứu trên diện rộng hơn.

*dân lao động thành thị: đối tượng này nói chung tập nhiễm nhiều thứ phức tạp hơn các đối tượng nêu trên, nên giảng dạy cho họ không đơn giản. Đa số họ bức bách với cuộc sống, một kiểu bức bách khác hẳn người nông dân, nên họ căng thẳng và nghi ngờ hơn. Có thể nói, đòi hỏi giảng sư kiên nhẫn và từ bi nhiều hơn, nếu không dễ bỏ cuộc.

d3: số lượng

*nhiều: thì giảng sư soạn bài theo kiểu chính quy. Giảng đường càng đông càng có sự trân trọng, cộng hưởng, xem ra không khó giảng dạy. Kinh nghiệm, nhiều giảng đường lớn hàng mấy trăm thính chúng mà vẫn rất trật tự.

*ít: số lượng ít đâm ra lễnh loãng, khó giữ được không khí phấn khởi. Vì thế giảng sư phải biết cách trò chuyện sao cho thân thiện một chút, đừng quá trang nghiêm sẽ gây sự mệt mỏi nhanh chóng. Kinh nghiệm chúng tôi từng được quý thầy giảng dạy trong bối cảnh gọn nhẹ, gần như đàm đạo, không ngờ hiệu quả lại rất cao.

e= ĐỊA PHƯƠNG

Tuỳ theo vùng nông thôn, biên địa, hay thành thị mà chúng ta có cách giảng dạy khác nhau. Chưa kể, phải quan sát vùng đó dân chúng nghèo hay giàu, sống bằng nghề gì là chính. Đôi khi những dẫn chứng, minh họa của chúng ta quá xa lạ với họ thì họ cũng không cảm nhận nổi. Chúng tôi có lần về một vùng sông nước miền Tây, khi giải thích bài học liền thí dụ ngay chuyện nước lũ và bông điên điển, làm ai nấy chịu liền. Ngược lại, về thành thị mà nói chuyện con ba khía chưa chắc có mấy người biết đến. Chúng ta nhớ câu “nhập gia tùy tục” là dễ chinh phục người ta nhất.

Nhưng qua kinh nghiệm thực tế, chúng tôi thấy nông thôn là mảnh đất tốt đẹp cho các tăng ni sinh trẻ khởi đầu sự nghiệp, hơn là chen chúc tại các khu đô thị. Chúng tôi sẽ phân tích kỹ hơn trong các bài khác, nhưng rõ ràng Giáo Hội đang có một chủ trương đúng đắn là khuyến khích lớp trẻ về với nông thôn, chắc chắn sẽ có những hỗ trợ cần thiết cho quý vị hành đạo.

f= TÀI CHÁNH

Tài chánh góp phần không nhỏ vào công tác hoằng pháp. Nó bao gồm chi phí cho in ấn tài liệu, mua sách vở tham khảo, phát thưởng cho học viên, trả thù lao cho giảng sư... Thực ra, tuỳ điều kiện mà có thể giảm hoặc tăng phần này phần kia. Thí dụ, tăng ni sinh trẻ về vùng sâu vùng xa hoằng pháp, dĩ nhiên không ai trả thù lao cho mình rồi, thậm chí còn chấp nhận dành dụm tiền in tài liệu học cho Phật tử, chịu tốn tiền xe đi lại. Bước đầu phải hy sinh vì lý tưởng, phải tạo phước đức, đừng lo không ai bù đắp. Tinh thần tận tụy ấy sẽ được chư Phật gia hộ sau này.

Qua những yếu tố kể trên, chúng tôi chỉ mạo muội phác thảo một sơ đồ cho bài toán hoằng pháp, để mong tìm ra lời giải tốt đẹp. Chúng tôi xin được nhận về những góp ý của chư vị tôn túc và Phật tử xa gần. Riêng đối với các tăng ni sinh trẻ đang ấp ủ hoài bão hoằng pháp, thì chúng tôi xin gởi gắm đôi lời như sau: hãy tuỳ duyên, tuỳ điều kiện của mình mà giải bài toán, không tự ti, bỏ cuộc, cũng không tham vọng to tát. Nghiệm số x có thể lớn, có thể nhỏ, nhưng tâm nguyện thì bình đẳng như nhau.

Chúng tôi chợt nhớ câu chuyện của ĐĐ Chúc Phú kể rằng, ngày xưa khi thầy còn nhỏ, ở trong một vùng quê hẻo lánh của miền Trung, có một vị tăng về trụ trì ngôi chùa làng nghèo khó. Vị này không học hành bao nhiêu, chỉ có thể dạy cho lũ trẻ trong xóm những bài học rất vỡ lòng như Tam quy, Ngũ giới. Không ngờ ấn tượng tuổi thơ đó đã khiến cậu bé yêu mến đạo Phật và xuất gia tu hành.

Sau này cậu bé trở thành vị đại đức học cao, hiểu rộng, vừa làm báo Giác Ngộ, vừa quản lý tăng chúng của một ngôi chùa lớn, vừa đi giảng dạy, chính là thầy Chúc Phú bây giờ. Câu chuyện đó khiến chúng tôi cảm động, và chợt nghĩ, công lao vị thầy trụ trì ngày xưa tưởng nhỏ nhưng không nhỏ chút nào. Tại sao chúng ta cứ ngồi mơ ước những gì to tát, có khi vượt quá tầm tay, mà không biết nắm bắt những gì giản dị hơn? Bài toán hoằng pháp khó khăn, hay chính chúng ta luôn đòi hỏi quá nhiều?

Các tin đã đăng: