Tôn giáo có mặt cùng thời với lịch sử con người. Có vật chất, tất phải
có tinh thần. Có sống chết, có hiện tượng còn mất trong đời sống vật lý,
tất phải có các mô thức tâm lý và tâm linh để chống lại sự mất còn bèo
bọt đó. Từ đấy, tham vọng bất tử của con người là phải xây dựng một hệ
thống thần linh để nuôi lớn hy vọng (có thật) thành đức tin (ước mơ)
rằng, con người sẽ sống đời vĩnh hằng sau khi chết trong một thế giới
thiêng liêng của thần linh. Phản ứng tâm linh thời sơ khai nhất của con
người trước một cuộc sống biến động vô thường là sự sợ hãi và kính
ngưỡng đối tượng thiên nhiên chung quanh như đất, đá, núi sông... cũng
như những hiện tượng thiên nhiên như mây mưa, sấm sét, gió bão...
Khi
nếp sống bầy đàn từng bước vào tổ chức xã hội – có người cầm đầu, có kẻ
thừa hành – thì sinh hoạt tôn giáo cũng dần dà phát triển tương ứng.
Con người đi từ hình thức tâm linh nguyên sơ như bái vật giáo, phiếm
thần giáo thành hình thức tôn giáo có quy củ và quy mô như ngày nay.
Thế
quyền và giáo quyền theo nhau như bóng với hình. Thế quyền có hệ thống
lý thuyết, chủ nghĩa; có lãnh tụ, quan chức, binh sĩ thì giáo quyền cũng
phải có giáo lý, giáo chủ, giáo hội và tu sĩ.
Khi có từ hai đến
nhiều tôn giáo trong cùng một xã hội thì sự xung đột nội tại và ngoại
cảnh xảy ra như một điều tất yếu. Hiện tượng thay đổi xảy ra thường
xuyên khi âm thầm, riêng tư và thuận chiều; khi ồn ào, xung đột và vọng
động giữa những người theo các tôn giáo khác nhau là sự cải đạo. Cải đạo
là một tiến trình chuyển đổi đức tin và phương tiện gìn giữ, thể hiện
đức tin tâm linh riêng của cá nhân hay tập thể. Biểu hiện thông thường
nhất là sự thay đổi từ tôn giáo nầy sang tôn giáo khác do động cơ và
hoàn cành riêng. Trong vòng từ 5 nghìn năm qua – thời điểm mà Ấn Độ giáo
(Hinduism) được xem là tôn giáo xưa nhất của con người ra đời theo tinh
thần kinh Vệ Đà (Vedas) – nhân loại đã tốn quá nhiều tâm não, thời gian
và máu lệ cho sự thay đổi tôn giáo nầy.
Việt Nam là một nước
nông nghiệp truyền thống nên có thể nói rằng, tín lý cổ sơ nhất của dân
tộc là nếp sinh hoạt tâm linh do sự kết hợp đồng bộ giữa lòng kính
ngưỡng sức mạnh thiên nhiên Trời Đất; sự tưởng nhớ biết ơn, thờ phụng Tổ
Tiên và nếp sống lương thiện làm người cho Phải Đạo. Có thể nói một
cách nôm na rằng, Sống-Cho-Phải-Đạo là hình thức "tôn giáo" đầu tiên của
dân tộc Việt từ thời mở nước trải hơn 4 nghìn năm qua. Cho đến khi đạo
Phật truyền sang Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ 2 và đạo Thiên chúa truyền
vào Việt Nam vào thế kỷ thứ 16 thì vấn đề cải đạo mới được xem như một
hiện tượng xã hội và tâm linh.
Cải đạo là chuyển đổi cả một hệ
thống tín lý đã biến thành đức tin nơi mỗi con người, nên còn có người
liên tưởng một cách nghiêm trọng rằng, "cải đạo là thay đổi linh hồn"!
Trong những cộng đồng và xã hội càng bảo thủ, khép kín thì sự cải đạo
diễn ra càng tạo nên áp lực và phản ứng gay gắt.
Luật pháp thế
quyền phần lớn tôn trọng sự chọn lựa cải đạo như một quyền tự do tín
ngưỡng. Thế nhưng phản ứng giáo quyền thường khống chế gay gắt sự cải
đạo và răn đe như là "theo ngoại đạo tà giáo" hay "bán linh hồn cho quỷ
sứ"!
Gần đây, khi sự giao lưu thế giới trở nên cởi mở, nhanh
chóng và rộng rãi hơn người ta thường xuyên nghe đến những sinh hoạt của
nhiều cá nhân, phe nhóm, giáo phái... nhiều nơi trên thế giới rất lạ
lùng. Có khi thú vị, hài hòa; có khi xót xa, thô bạo.
Để minh
họa cho hiện tượng cải đạo một cách cụ thể và tương đối quảng bá rộng
rãi trên mạng lưới truyền thông (người viết tránh dùng chữ "ồn ào"), xin
đơn cử trường hợp cải đạo của ông Nguyễn Huệ Nhật, do chính ông thuật
lại bằng giấy trắng mực đen.
Hội
Thơ Tài tử Việt Nam được thành lập năm 1994 tại Sacramento, tiểu bang
California, nuớc Mỹ. Đây cũng là địa phương mà người viết bài nầy đang
sinh sống.
Một hôm, nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh, người chủ
trương Hội Thơ Tài tử Việt Nam nói trên, gọi điện thoại cho tôi, nói về
tác phẩm mới của một hội viên trong Hội Thơ Tài tử vừa mới xuất bản. Anh
Như Hoa cẩn thận giới thiệu trước tác giả của tập sách nầy là một người
từ Việt Nam mới qua Đức theo diện "xuất khẩu lao động". Đó là cuốn
Từ áo cà sa đến thập tự giá của Nguyễn Huệ Nhật
[1]
. Tập sách nầy đã được anh Như Hoa và các cộng tác viên của anh trong
Hội Thơ bảo trợ trang trí, trình bày, lên khuôn, in ấn và phát hành. Anh
ngỏ lời muốn tôi đọc và có ý kiến về cuốn sách này. Vốn rất kính mến
anh và các vị khác trong Hội Thơ cộng với tinh cảm yêu chuộng văn học
nghệ thuật sẵn có, tôi nhận lời. Tôi vốn quý sách như quý tình bằng hữu
nên sáng hôm sau, vội vã ra báo Làng, Sacramento, để nhận tập sách.
Lòng
tự dặn lòng là sẽ giữ lời hứa với anh Lê Quang Sinh; cũng như từ trong
thâm sâu của ý thức, tôi tự hứa là sẽ đọc và phân tích tác phẩm một cách
khách quan bằng cảm quan nghệ thuật và sự hiểu biết khiêm tốn của mình.
Về hình thức, tập sách dày 300 trang và in ấn rõ ràng. Hình bìa
chụp chân dung tác giả Nguyễn Huệ Nhật mặc áo cà sa vàng, đứng bên
tường hoa giấy màu hồng leo quanh lưới trông lờ mờ như dây kẽm gai. Và
phía góc chân trời nổi lên cây thánh giá màu xám gắn trên một điểm tựa
không có hình thù rõ rệt. Hình bìa sau là ảnh chụp chung của tác giả
Nguyễn Huệ Nhật và thi sĩ Bùi Giáng.
Tôi đọc đi, rồi đọc lại để
cố gắng nắm bắt một cách tương đối chuẩn xác nội dung của tập sách hầu
tránh những nhận xét có tính cách chủ quan và thiên vị khi nhận định.
Nội dung chủ yếu là tự truyện về cuộc đời của tác giả Huệ Nhật. Tất cả cuốn sách có thể tóm gọn trong ý chính là:
"Thuở
nhỏ tu hành theo đạo Phật, rồi hoàn tục. Lấy vợ lần thứ nhất. Rồi lấy
vợ lần thứ nhì, có con, làm ăn, mánh mum đòn phép, chịu đựng nhiều vinh
nhục. Cuối cùng cải đạo, theo Tin lành. Phương tiện sử dụng tạm thời là
quay lại phê phán, phủ nhận đạo Phật để giải thích tại sao bỏ Phật theo
Chúa. Ngôn ngữ và văn phong trong toàn tập sách thuộc trường phái "thích
chi nói đó". Bằng chứng và luận chứng được chọn làm xương sống cho tác
phẩm là sự suy diễn tùy tiện căn cứ trên những "sự cố" cá nhân và xã hội
không có cơ sở để kiểm chứng hay đối chứng được". Một dòng
đời như thế của Nguyễn Huệ Nhật, thật ra, không có gì mới lạ trong một
xã hội còn khó khăn, nghèo đói của buổi giao thời.
Điều diễn ra
đầy vẻ bi hài ở đây là tuy Huệ Nhật đã cởi áo cà sa từ ba mươi năm trước
nhưng vẫn còn nhân danh "đại đức" để lôi kéo sự chú ý mà ông đang cần.
Theo tiểu sử của tác giả tự ghi là ông đã ra đời, lấy hai vợ, sống một
cuộc đời đủ mùi vị chua cay của trần tục. Ông theo đạo Tin lành là một
chọn lựa cá nhân sau mấy chục năm rời xa đạo Phật. Nay bỗng dưng ông
quàng áo cà sa vào chụp hình dưới chân thập tự giá và cho in lên bìa
sách là một cách tái tạo hình ảnh hí lộng tôn giáo khó hiểu so với trình
độ và năng lực ở tuổi Huệ Nhật.
Để diễn tuồng? Để nhấn mạnh và
minh họa cho sự "ưu việt" của hành động từ bỏ Phật giáo qua Tin lành
chăng? Để minh chứng cho đức tin của anh đi từ si mê đến giác ngộ chăng?
Hay chỉ để bôi lem những biểu tượng thiêng liêng của giới tu sĩ Phật
giáo? Dù xuất phát từ bất cứ động cơ nào đi nữa, thì việc một người đi
tu (bất cứ đạo nào) đã cởi áo hoàn tục; nay lại dùng hình ảnh chiếc áo
nhà tu truyền thống của giới tu sĩ tôn giáo mà mình không theo nổi nên
trả áo xuống đời để làm trò quảng diễn hay để phục vụ cho ý đồ cá nhân
của mình đều là một lối hành xử thiếu ngay thẳng.
Về nội dung, tập sách
Từ áo cà sa đến thập tự giá,
Huệ Nhật đã sử dụng nhiều chi tiết "thâm cung bí sử" nhất của đời mình
để làm tài liệu viết lách, minh họa và suy diễn. Lối văn trong sách ông
không phải là văn chương sáng tạo mà cũng chẳng phải là ngôn ngữ nghị
luận. Đấy là một lối hỏi đáp thắc mắc giữa Huệ Nhật với chú em tên Thúc ở
Mỹ. "Dữ kiện" làm nền tảng cho lý luận và chứng minh chính là cuộc đời
và sự suy nghĩ của ông. Bởi vậy, chính "thân thế và sự nghiệp" của Huệ
Nhật là toàn bộ linh hồn và nội dung của tạp sách 300 trang này.
Khi
đọc một câu chuyện nói về đời tư của một người thì người đọc để tìm
hiểu và phân tích cần phải cẩn trọng gấp đôi, nhất là khi những điều đề
cập có liên quan đến tôn giáo. Bởi vậy, tôi cảm thấy cần thiết nói rõ
quan điểm về tôn giáo của mình trước khi có đôi lời nhận định.
Tôi
là một người theo đạo Phật và học Phật, nhưng đồng thời cũng là một học
sinh xuất thân "trường Đạo" từ hệ thống giáo dục của Thiên chúa giáo
Dương Sơn. Từ năm 1972 đến tháng 2-1975 tôi tình nguyện tham gia đoàn
Giáo chức Công tác Xã hội Quảng Trị. Trong nhiều năm công tác, tôi có
dịp điều hợp và thực hiện những chương trình xã hội và cứu trợ của các
cơ quan Xã hội Tin lành Á châu (ACS), cơ quan Xã hội Tin lành Việt Nam
(VNCS), chương trình Cứu tế Xã hội Công giáo (CARITAS). Từ 2 năm nay,
tôi là giáo sư thỉnh giảng của Phân khoa Tâm lý thuộc hệ thống đại học
Tin lành Presbytarian. Chính những họat động không có biên giới tôn giáo
nầy đã mở mắt cho tôi có được một cách nhìn rất cởi mở và thoáng đạt về
đức tin tôn giáo. Khi được học triết học Tây phương, tinh thần và thái
độ thông thoáng về tôn giáo của tôi càng được khẳng định về khái niệm
"Oneness" (Uyên nguyên) khi suy tư về Tánh không, Duyên nghiệp của đạo
Phật; về Thượng đế, về thánh linh của các tôn giáo khác. Tôi đồng tình
với quan điểm:
"Đạo là con đường (dẫn đến chân, thiện, mỹ), chứ
không phải đạo là pháo đài để cho con người tấn kích nhau từ trong lỗ
châu mai của đức tin khép kín và tư tưởng hẹp hòi" (Gabriel Marcel). [2] Với một tinh thần tôn trọng đức tin và cung kính với tất cả các tôn giáo, tôi xin được đi vào nội dung của tập
Từ áo cà sa đến thập tự giá (TACSĐTTG).
Tác
giả Huệ Nhật, theo tiểu sử ghi trên bìa sau của sách, sinh năm 1946,
cùng tuổi với tôi; nghĩa là cùng một thế hệ "chiến tranh Việt Nam" – một
thế hệ mà niềm tin, tư tưởng, và ước vọng thường xuyên bị thử thách từ
chân đến giả; chao đảo từ tả đến hữu; lung lay từ gốc đến ngọn theo đà
ác liệt của cuộc chiến trên quê hương – Phải chăng vì thế mà tôi rất
chia sẻ sự trăn trở, thao thức, xót xa của Huệ Nhật về sự khổ nhục của
chính mình, của suy tư thầm lặng, của hoàn cảnh gia đình và xã hội chung
quanh. Tất cả đều được thể hiện rõ nét hay bàng bạc từ đầu đến cuối tác
phẩm.
Tập sách TACSĐTTG là một sự tập hợp tùy nghi, không có
chương mục hay hệ thống rõ ràng. Đó là tập hợp những bức thư trả lời
từng đoạn một của Huệ Nhật cho một bức thư dài của người em tên Thúc ở
Mỹ với ngôn ngữ châm biếm, ca tụng Huệ Nhật lên tận mây xanh ở chỗ nầy;
rồi mỉa mai đá ông lăn lóc ở chỗ khác. Người đọc không cần phải bận tâm
đặt câu hỏi là có thật một bức thư như thế hay không? Vì dù có hay không
thì đây cũng chỉ là một cách riêng để gợi ý và đặt vấn đề của tác giả.
Nguyễn Huệ Nhật đã tự kể lại cuộc đời của mình trong tập sách như sau:
Trước hết, theo sự mô tả trong thư của người em tên Thúc thì bản chất "chông chênh" của Nguyễn Huệ Nhật được ghi nhận rằng:
"Từ
một chú bé sáng trường làng, chiều chăn trâu, đã húi đầu hôm sớm kinh
kệ, học hành đạo pháp, qua một thập niên lên đến chức đại đức. Thạo Phật
pháp, biết rõ ngọn ngành rồi ‘xù’ Phật. Đến cuối thập niên 70 bắt đầu
biết đến kinh thánh, tin Chúa... Một ngày nào đó chắc anh xù Chúa của
giáo phái Tin lành nhảy qua rao giảng đức tin với Mohamét." (Trang 16) Tuy
đã đi tu, đã thọ cụ túc giới và trở thành một đại đức trong hệ thống tu
sĩ Phật giáo nhưng Huệ Nhật chưa tự mình thực chứng bất cứ một kiến
giải nhỏ nào về lý thuyết hay thực hành. Với một tu sĩ Phật giáo, chỉ
sau khi được thọ cụ túc giới mới bắt đầu tình tuổi đạo, bất luận tuổi
đời già trẻ bao nhiêu. Nếu căn cứ theo sự trích dẫn và luận giải trong
sách thì tác giả Huệ Nhật chỉ mới "sơ sinh" trong hàng ngũ tu sĩ Phật
giáo thời bấy giờ. Do đó, ông chỉ mới biết về đạo Phật qua lễ nghi hình
tướng. Tác giả tự nhận là thiếu tri thức sâu rộng về Phật học nên ông
đâm ra hoài nghi, bối rối trước một tàng thư kinh điển mà ông cho (hay
thú nhận) là khó hiểu, mênh mông; thậm chí có nhiều chỗ mâu thuẫn của
triết lý Phật giáo. Ông bị danh từ lôi kéo, hành hạ nhưng lại không có
căn tính và không đủ bản lĩnh để tự mình tìm hiểu rốt ráo "chân thiệt
nghĩa" của các khái niệm cơ bản sau những danh từ ấy. Thật ra, trong đời
sống khép kín của chùa chiền tự viện, hoàn cảnh tri thức nhập nhằng
"thấp chẳng thèm vào, cao không với tới" về mặt đức tin và nhận thức như
một thời tu hành bế tắc của trường hợp Huệ Nhật không phải là ít. Rốt
cuộc, kiến thức Phật học của ông có vẻ là một mớ kinh, luật, luận hỗn
mang chưa tới bờ mà cũng chẳng tới bến như Huệ Nhật tự nói lên khi trả
lời cho người em tên Thúc vừa nêu ở trên:
"Ngày xưa đi tu trong Phật
giáo, anh (Huệ Nhật) học những giáo lý sâu xa và phức tạp khiến cho sự
tu hành có cái vẻ cao siêu, nhưng với anh thì rất mệt mỏi và gặp nhiều
mâu thuẫn khó nói lắm." (Trang 22) Nếu dày công tu tập và
quán niệm rốt ráo hơn thì Huệ Nhật đã không đến nổi mệt mỏi và gặp nhiều
mâu thuẫn quá sớm như thế. Triết lý Phật giáo ở một mức độ nào đó quả
thật là phong phú và cao siêu thật sự chứ không phải là "sâu xa, phức
tạp" hay "có vẻ" cao siêu như trong giới hạn hiểu biết của Huệ Nhật đâu.
Phật pháp ví như một trận mưa mà sự thẩm thấu tùy theo đối tượng. Con
lạc đà mang căn tính và chỉ biết vùi đầu vào gió cát sa mạc nên bị chết
đuối giữa ao hồ sông nước thì cũng chẳng có gì lạ. Huệ Nhật tự khai ra
trong sách là đã đi tu mà cá nhân vẫn còn bị cột trói, dính mắc với quá
nhiều hệ lụy phàm tục nên càng tu lâu càng không hiểu nổi đạo Phật thì
cũng là chuyện thường tình, dễ hiểu mà thôi.
Thế nhưng ông Huệ
Nhật có tính "can đảm liều mạng" hơn đời. Trong hai đêm thứ Bảy và Chủ
nhật (12-3-2006) Huệ Nhật thuyết giải những lý thuyết cơ bản của Phật
giáo cho các tín hữu của Tin lành của ông nghe tại Westminster,
California và
"Vấn đề khai tâm giác ngộ và đức tin" qua sự hiểu
biết sai lạc gần như chẳng hiểu gì "chơn thiệt nghĩa" triết lý Phật
giáo; nếu không nói là hiểu ngược lại. Huệ Nhật đã hiểu khái niệm Giác
ngộ trong đạo Phật một cách ngây ngô khi ông tự đặt câu hỏi như một cách
trả lời để tự giải quyết vấn nạn của chính ông, rằng là:
"Đức Phật đã giác ngộ nhưng đã 3000 năm qua, có ai giác ngộ được chưa." Tiếc
thay, con ngựa Kiền Trắc gần ba nghìn năm trước không còn để Huệ Nhật
lên ngựa ra roi, đi tìm một hình tướng "giác ngộ" xứng hợp với tư duy
đồng dao của ông! Nhất quán với một kiến thức Phật học đáng xót xa như
thế, Huệ Nhật, trong một bài viết nhan đề: "Ai sinh ra Đức Chúa Trời?"
đã hiểu khái niệm Vô ngã trong giáo lý đức Phật Thích Ca như là khái
niệm
Hư vô trong triết học phương Tây. Hiểu lạc thì sẽ nói lạc. Nói lạc thì sẽ dẫn người nghe đi lạc là một hậu luận tất nhiên mà thôi.
Cũng
trong nội dung tập sách TACSĐTTG, phần viết thiếu hồn, thiếu phách và
thiếu hẳn sự thuyết phục cần thiết của tác giả là khi ông thuyết giảng
về niềm tin Thiên chúa. Trong đạo Chúa, sự hiện hữu của Thượng đế và đức
tin thánh linh là một sự mặc khải – một chứng ngộ thiêng liêng và thầm
lặng giữa con người nhỏ bé và suối nguồn vũ trụ vô biên – chứ không phải
là hình thức tồ tồ quảng bá bất tịnh đầy vẻ thô phàm trần lụy như thế.
Tuyệt nhiên địa vị xã hội, tuổi tác, bằng cấp, hình tướng chẳng đóng một
vai trò quan trọng nào trong phẩm chất tâm linh thuần khiết cả. Huệ
Nhật đã "thuyết thánh linh" bằng đại ngôn và suy diễn chủ quan nên cảm
thức chân thành và nghiêm kính về một Thượng đế toàn năng chưa thấy xuất
hiện trong sách và trong hết thảy những bài viết của ông sau nầy (nếu
tính đến tháng 6 năm 2008 là khi những dòng nầy đang viết lên).
Phong
cách truyền thống của người Ki-tô hữu cũng như người Phật tử là sự
khiêm cung. Đức chúa Giêsu khuyên người mến Chúa hãy mang theo và nâng
cao thánh giá mà đi. Thập tự giá là biểu tượng cho sự quên mình; cũng
như đức Phật nêu cao tinh thần vô Ngã để đi vào cuộc đời. Thế nhưng đã
có biết bao người nhân danh theo Phật, theo Chúa đi lạc đường vì đã đem
cái Tôi trần gian đầy nghiệp chướng của mình đặt ngay trên đường tìm đạo
nên nói đạo thật nhiều mà không tìm ra đạo.
Tại sao một tín đồ
tân tòng đạo Chúa xông xáo như Huệ Nhật lại thiếu tính thuyết phục trong
những bài viết về kinh Thánh và Thượng đế đến như thế? Có lẽ tại vì
trong văn phong và nội giới của ông thiếu mất sự khiêm tốn cần thiết để
quên bớt cái Tôi của một linh hồn bơ vơ đang ở trên trần thế. Một trong
nhiều ví dụ cụ thể là tuy Huệ Nhật đã lặp đi lặp lại nhiều lần về đức
tin của mình đối với Thiên chúa, quyết theo Chúa để tìm sự sống đời đời.
Nhưng đức tin của ông còn quá mỏng hay quá sơ cơ. Xin mời đọc lời viết
của ông trong sách, đoạn gửi cho người em tên Thức:
"Trong tình anh
em, anh có thể nói rằng tôn giáo nào cũng có tiền và cũng có kinh doanh
cả. Tôn giáo là một môi trường 'kinh doanh' béo bở. Riêng tiền dâng hiến
của hàng tỷ tín đồ cũng đã nhiều lắm rồi... Đối với anh, nghèo cũng là
một sự phước hạnh, mặc dầu anh vẫn muốn mình giàu." Trong
phần tiểu sử và thư giãi bày tâm sự, hình như suốt một đời ông chưa bao
giờ được yên nghỉ. Như một đứa trẻ bơ vơ bị ném ra quá sớm giữa dòng đời
xuôi ngược, Huệ Nhật đã vật vờ đi từ cực đoan nầy đến cực đoan khác.
Tuổi trẻ anh vào chùa đi tu theo Phật giáo. Sau đó anh bỏ tu lấy vợ,
theo phong trào phản chiến "chống Mỹ cứu nước". Sau năm 1975, ông lãnh
đạo chương trình lo cho 1500 người hồi hương bị chính quyền mới "bỏ quên
nên bị tình nghi là CIA" và đã bị bỏ tù trong một thời gian ngắn (?).
Tiếp theo bị vợ bỏ. Ông liền lấy vợ lần thứ hai. Vợ mới bỏ. Gia đình
ruồng rẫy. Anh em hắt hủi, cháu chắt đánh đập. Ông
"xù Phật theo Chúa" (Chữ của chính Huệ Nhật),... vân vân và vân vân.
Đời
tư của Huệ Nhật dù có vinh quang hay khốn đốn đến mức độ nào thì đó
cũng là chuyện riêng của ông, nếu đìều đó không liên quan đến ai cả. Thế
nhưng, ông đã đem chuyện đời tư của mình để làm bằng chứng và phương
tiện để làm cặp kính màu xám xịt mà ngoái đầu lại nhìn Phật giáo một
cách tự phát tùy tiện và đơn giản đến độ kinh ngạc. Sự lương thiện tri
thức của Huệ Nhật đã vượt qua giới hạn... đèn đỏ khi ông "thừa thắng
xông lên" chụp cho Phật giáo và các nhà sư Phật giáo có danh tiếng những
chiếc nón tả hữu, xanh đỏ lập lòe đầy chất sáng tạo ngô nghê.
1. Trường hợp bi hài: Khi thánh sống... muốn chết Huệ Nhật đã lặp đi lặp lại nhiều lần từ đầu đến cuối tập sách về điều gọi là "Hai lần tự thiêu hụt" của ông.
Lần
thứ nhất, Huệ Nhật kể lại rằng, năm 1963, khi mới 18 tuổi, vừa mới đi
tu theo Phật giáo được 4 năm, ông đã tình nguyện tự thiêu 2 lần: Một lần
tại Nha Trang, tháng 8/1963 và cả hai lần đều bị từ chối. Thế nhưng sau
đó Huệ Nhật đã được giới tu sĩ Phật giáo và Phật tử coi như một vị
"thánh sống". Sau đó Huệ Nhật laị bay về Quảng Trị và tình nguyện tự
thiêu tại Huế, tháng 10/1963 và cũng bị từ chối (Sđd, trang 246-254).
Đâu là sự thật về "lịch sử tự thiêu" của Huệ Nhật?
Về mặt nguyên
tắc: Trong năm 1963, đã có 7 tu sĩ Phật giáo tự thiêu, gồm 2 Hoà thượng
và 5 Đại đức (tuyệt nhiên không có một vì nào thấp hơn hàng đại đức hay
ở lứa tuổi mới qua khỏi vị thành niên hoặc còn ở hàng sa-di như Huệ
Nhật cả). Tự thiêu đối với Phật giáo là một sự tự nguyện hiến dâng nhục
thể để cúng dường tam bảo, vì vậy hình thức cung hiến nầy mang một ý
nghĩa rất thiêng liêng và cao cả. Huệ Nhật thuở đó còn là vị thành niên,
vào ở chùa 4 năm, nếu chịu tu hành nghiêm túc cũng chỉ mới lên được
hàng sa-di, nghĩa là một chú tiểu ở chùa, chưa được đứng vào hàng ngũ
tham gia những sinh hoạt bên ngoài của giáo hội. Thế mà ông lại tự
"phong thánh" cho mình với những sự việc trọng đại có vẻ như đã được
giáo hội chấp thuận trên nguyên tắc để đứng vào hàng "tu sĩ chuẩn bị tự
thiêu".
Về mặt sự kiện: Tại Huế, có hai cuộc tự thiêu. Vụ đầu
tiên là Hòa Thượng Thích Tiêu Diêu ngày 26-6-1963 và vụ thứ hai là Đại
đức Thích Thanh Tuệ ngày 15-8-1963. Thời đó danh sách các tu sĩ tình
nguyện lên tới 36 vị, nhưng giáo hội đã chấm dứt việc tự thiêu vào tháng
8-1963. Trong lúc đó Huệ Nhật lại xin tự thiêu vào tháng 10-1963. Oái
oăm hơn nữa là địa điểm dự trù là khách sạn Thuận Hóa, trong lúc khách
sạn này lại nằm ẩn kín sau Morin, ít khi có bóng người lai vãng. Trường
hợp nầy không biết có nên mượn nhận xét của nhà văn hài hước Bernard
Shaw không:
"Nói dối mà thiếu thông minh cũng như mặc quần thủng đáy, càng kéo càng lòi... ra!" Sự hư cấu đầy tính chất hoang tưởng của Huệ Nhật nhằm mục đích gì?
Chính Huệ Nhật đã trả lời ngay trong tập sách của ông:
"Khi
còn nhỏ, anh mơ ước đi tìm chân lý như thái tử Tất Đạt Đa. Cạo đầu cầu
đạo đi tu. Đang học đạo anh tình nguyện tự thiêu chống bất công tôn giáo
ở miền Nam, vì lúc ấy anh tin rằng đó là cách tìm gặp chân lý mau nhất,
nhưng suýt nữa mà anh bị ‘VC’ lợi dụng tổ chức cho cái chết của anh
dưới danh nghĩa hy sinh cho Đạo Pháp" (Trang 73&74). Lần
thứ ba vào cuối năm 1964, tại Nha Trang Huệ Nhật lại mon men xin tự
thiêu, đã không được ai coi ra gì lại bị mang một tên mới là "Thánh
Chuối" vì bị người dân thường và giới tu sĩ coi như một gã bất lương
(theo lời của Hoà thượng Thích Thiện Trì, viện chủ chùa Kim Quang ở
Sacramento là giáo thụ thường trú tại hoc Viện Phật học Nha Trang vào
những năm 60). Vì vậy, hậu quả khinh ghét ấy đã làm ông tuyệt vọng, như
Huệ Nhật đã tự ghi lại trong sách:
"Khi nhìn biết một sự ganh ghét
xấu xa, những hành vi gỉa hình của người tu sĩ thuộc bậc anh, bậc thầy
của mình, anh có cảm giác gớm ghiếc, khinh bạc và nghĩ đến cái chết để
được giải thoát. Anh cảm thấy cần một cái chết để giải quyết những hậu
quả phiền toái về sự sống sót của anh." (Trang 258) Những
trang tiếp theo, Huệ Nhật đã dùng hết lời lẽ nặng nề mà hàng thức giả
bình tâm nên tránh và lối suy diễn chủ quan đầy cảm tính một chiều để
mạo phạm đến hàng hòa thượng, thượng tọa lãnh đạo cao cấp của Phật giáo
còn tại thế hay đã viên tịch (Trang 246 đến 273. Sđd). Người đọc lấy làm
tiếc cho một quá trình cải đạo đáng lẽ phải giàu tính văn hóa và nặng
chiều sâu tâm linh; chứ không phải theo một dòng xuôi "tội tình" như
thế. Dẫu ra đi hay quay về thì một kẻ có lòng vẫn không thể đánh mất
mình. Loại cá hồi đi năm sông bảy suối còn nhớ nguồn; cáo chết vẫn quay
đầu về núi cũ lẽ nào con người có lương tri và trí tuệ lại nỡ quên!
2. Trường hợp bi đát : Cải đạo mà chưa... cải tà Trong
đức tin tôn giáo, ra đi cũng là quay về... quay về với lòng thành (chân
tâm) và nẻo chánh (chánh đạo). Đạo Phật gọi sự quay về đó là quy y và
đạo Chúa gọi đó là sự trở về. Tất cả chỉ là phương tiện. Chỉ sợ lạc
đường mất lối đi về chứ tìm cho mình một phương tiện thích hợp để tiến
tới sự thành thật với chính mình và khai phá một hướng đi nhằm đạt mục
đích cao đẹp cuối cùng của Đạo là đìều đáng trân trọng. Tâm là con đường
đạo. Tâm trong sáng, đường thong dong. Tâm mê mờ, đường khúc khuỷu. Cải
đạo, bất cứ là đạo chính đáng nào, đều đáng quý. Nhưng điều quan trọng
hàng đầu là phải cải tà (tà tâm, tà kiến, tà đạo) trước khi cải đạo.
Trường
hợp Huệ Nhật cải đạo thật đáng chúc mừng. Nhưng ông đã để lộ ra phản
ứng quá đà. Thật ra, Huệ Nhật đâu cần phải nhuộm chàm áo cà sa để qua
truông. Sự lương thiện trí thức không cho phép người ta phát biểu theo
kiểu
"Xã Xệ chê con đường cái tối tăm, không có thật chỉ vì gã tìm đường không ra". Có
thể sau khi cải sang đạo Chúa, Huệ Nhật sẽ được kính trọng hơn nếu ông
chỉ cần bình tâm để vinh danh và ngợi ca Thiên chúa mà không cần phải
xông xáo lên giọng chê bai, bài bác một đạo Phật đã cưu mang ông thuở
đầu đời. Ước chi Huệ Nhật gia công tìm hiểu và học hỏi nghiêm túc hơn về
đạo Phật và đạo Chúa để tránh tình huống mà ông tự mệnh danh là "xù
Phật, theo Chúa" thì sẽ hay cho ông hơn khi nhìn ra và hay cho kẻ bàng
quan hơn khi nhìn vào. Động cơ lẫn ý hướng "xù" hay "theo" một đức tin
tôn giáo (Phật hay Chúa) của Huệ Nhật đều nông nổi và tiêu cực một cách
đáng tíếc như ông đã viết ra trong tập sách. Ông cải được đạo nhưng chưa
cải được tà nên vẫn canh cánh bên lòng cái mặc cảm đầy u ám "phản sư,
diệt tổ" hay "lừa thầy, phản bạn" mà luân lý xã hội và văn hóa truyền
thống của dân tộc Việt Nam nghiêm khắc lên án. Để giải thích và giải tỏa
phần nào mặc cảm tâm lý cho hành động bỏ đạo Phật theo đạo Chúa của
mình, Huệ Nhật tự so sánh, ví von hành động lựa chọn của mình cũng giống
như đức Phật Thích Ca và đức chúa Kitô:
"Khi em nói tới chữ lừa
thầy phản đạo là đã bày tỏ một tinh thần hẹp hòi, nông cạn, không hiểu
gì về ý nghĩa của đạo. Anh phải nhắc lại một lần nữa là chính Đức Thích
Ca cũng đã mang tiếng lừa thầy phản đạo sau khi rời bỏ con đường tu khổ
hạnh với năm anh em Kiều Trần Như, Ác Bệ, Ác Đà... Một trong những lý do
mà nhóm thầy tu Biệt Phái (Pha-ri-si) kết án chúa Jesus để đónh đinh
Ngài cũng là vì họ cho rằng Chúa Jesus đã hủy bỏ truyền thống có sẵn
trong đạ Do Thái (phản đạo)!" (Trang 289) Rõ ràng là Huệ Nhật muốn xây dựng luận điểm rằng, ông bỏ đạo Phật qua đạo Chúa vì đạo Phật không phải là chánh đạo:
"Đối
với những bậc thầy của Ngài như năm anh em Kiều Trần Như, Ác Bệ, Ác
Đà... Ngài cũng lìa bỏ khi nhận ra rằng những người nầy không dạy cho
mình chánh đạo." (Trang 288) Nhưng không rõ vì vô tình hay cố ý, người cải đạo tân tòng Huệ Nhật đã "phang" luôn cả đạo Chúa:
"Anh
tin Chúa trong hoàn cảnh bị đối phương khủng bố, chứ không phải tin
Chúa để kiếm mùng mền cơm gạo như nhiều người Việt Nam trong chiến
tranh. Những người Việt Nam đã theo Chúa vì muốn có hàng viện trợ của Mỹ
ngày xưa chẳng có phước hạnh gì hơn." (Trang 289) Huệ Nhật đã lửng lơ mô tả hàng ngũ tu sĩ Phật giáo là những người cũng tương tự như Huệ Nhật, rằng:
"Cũng
có những người ăn cơm chùa từ khi còn rất nhỏ, nhưng trí óc thuộc loại
độn căn; học thêm một chữ là đã quên đi hai chữ, vì thế khi lớn lên chỉ ở
trong chùa, dù rất muốn ra đời cũng không dám ra. Ngày nay những người
ấy trở thành những bậc sa môn. Chễm chệ làm ông thầy. Chỉ ngồi niệm hai
chữ Nam Mô là cả vạn người nghe theo dâng đầy tiền của. Tu lâu phải
thành sư cụ. Anh bước ra khỏi chùa để sống thật với con người mình hơn."
(Trang 288) Huệ Nhật đã làm nhiều pha so sánh khập khiễng
và lạm bàn những đề tài tôn giáo quá lớn so với năng lực cá nhân quá nhỏ
bé và giới hạn của ông. Bởi vậy, ông đã để lộ năng lực giới hạn đó qua
những dòng chữ nói về đạo Phật và đạo Chúa môt cách khiên cưỡng, đơn
giản đến độ đáng kinh ngạc, như là:
"Phật giáo rất rộng nên đúng và
sai không có biên giới. Có khi bỏ Phật mà lại đúng hơn là cứ đường đường
theo đạo Phật một cách hữu sắc vô hương. Phật giáo là một tôn giáo có
nhiều giáo lý mênh mông bát ngát đến nỗi người đi theo có khi đã đi lạc
đường gần hết một đời mà vẫn không biết. Nhưng đức tin đi trong Chúa là
đi trong Đường Hẹp, bước ra khỏi Kinh Thánh là thấy lạc đường ngay. Ngày
nay có một số giáo hội vẫn thờ Chúa, nhưng không làm theo kinh Thánh.
Nhiều tín đồ của họ không hiểu gì về Đấng mà họ thờ cả." (Trang 171) Nếu
có một tấm lòng ngay thẳng thì đạo Phật và đạo Chúa đều là những con
đường tư tưởng, hành xử và uốn nắn để vươn lên đỉnh núi an lạc và hạnh
phúc của sự giác ngộ hay cứu rỗi. Nếu hành giả hay tín đồ lên đường mang
một cái tâm vọng động thì rốt cuộc cũng chỉ đi loanh quanh dưới chân
núi vì bị vướng mắc vào hình tướng sai lạc từ cái nhìn chủ quan của
chính mình mà thôi.
Với tinh thần tự do và phóng khoáng của đạo
Phật xưa nay, bất cứ một người Phật tử bình thường nào cũng đều hoan hỷ
khi có người đem chuyện cửa thiền nói cho những người thuộc các tôn giáo
bạn được nghe. Tất nhiên là người nói chuyện đó cần thiết có 3 đìều:
(1) Có hiểu biết căn bản và nghiêm túc về Phật giáo; (2) có tấm lòng
lương thiện và ý hướng ngay thẳng; (3) có ý thức tôn trọng đức tin tôn
giáo của người khác. Trên mạng lưới truyền thông đại chúng trong những
năm qua, phản ứng gay gắt từ nhiều phía đối với ông Nguyễn Huệ Nhật có
thể chưa hẳn đã hoàn toàn khách quan và công bằng. Nhưng ít nhất đấy
cũng là những dấu chỉ đậm nét của phản ứng quần chúng từ nhiều phía về
một trường hợp cải đạo khá đạc biệt.