Lễ chọn và tấn phong diễn
ra theo đúng các quy tắc và lễ nghi tôn giáo cổ truyền. Người được chọn
làm Đệ lục thế đức chu hoạt Phật (Đức Phật truyền thế đời thứ 6) là Lạc
Tang Đa Cát sinh ngày 30/11/2005 tại huyện Long Tử, khu Sơn Nam (Tây Tạng).
Sự kỳ bí "độc nhất vô nhị" của
nghi thức Lễ tấn phong Phật sống truyền thế cũng như vai trò cực kỳ to
lớn của Phật sống sau khi được tấn phong, đã thu hút sự quan tâm không
những của người dân Trung Quốc (TQ), mà còn nhận được sự quan tâm rộng
rãi của cộng đồng quốc tế.
Nằm ở phía tây nam có đường biên giới chung với nhiều quốc gia như Ấn Độ, Nepal, Myanmar, Afghanistan,
Tây Tạng là vùng đất rộng lớn của TQ. Do địa hình hiểm trở, giao thông
khó khăn, dân cư thưa thớt nên vùng đất này hầu như bị tách khỏi phần
còn lại của thế giới. Người ta chỉ biết tới Tây Tạng là "nóc nhà của
thế giới" với dãy núi Himalaya cao
nhất hành tinh, quanh năm tuyết phủ. Nhưng Tây Tạng không phải chỉ có
vậy. Nơi đây còn ẩn chứa một nền văn hóa rất phong phú và đặc sắc
nhiều khi mang đậm màu sắc tâm linh với những tập tục rất riêng. Một
trong những số đó là tập tục Phật sống truyền thế.
Phật giáo ở Tây Tạng và cả
vùng Nội Mông (một vùng đất nằm ở phía tây bắc TQ, được gọi chung là
Thanh - Tạng), được coi là "quốc giáo". Ngay từ giữa thế kỷ VII, theo
chân các nhà sư, Phật giáo đã từ Ấn Độ, Nepal và Trung nguyên (tức TQ)
du nhập vào vùng Tây Tạng và cả vùng Nội Mông Thanh Hải. Tại những nơi
này Phật giáo từ bên ngoài kết hợp với một số tôn giáo bản địa đã dần
dần hình thành nên môn phái Phật giáo mang đặc điểm riêng của vùng và
được gọi là Tạng truyền Phật giáo (hoặc còn có các tên gọi khác như Tây
Tạng Phật giáo, Tạng ngữ hệ Phật giáo, hoặc Lạt Ma giáo).
Tạng truyền Phật giáo gồm 5
giáo phái chủ yếu là Ninh mã phái (Hồng giáo), Cát đương phái (Hắc
giáo), Cát cử phái (Bạch giáo), Tát già phái (Hoa giáo) và Cách lỗ phái
(Hoàng giáo). Một trong những đặc điểm riêng của Tạng truyền Phật giáo
là thực hành chế độ Phật sống truyền thế, tức Hoạt Phật truyền thế.
|
Đại Chiêu tự - Ngôi chùa linh thiêng nhất thuộc Lhasa.
|
Phật sống truyền thế là một
tập tục chỉ có riêng của Phật giáo Tây Tạng. Tập tục này xuất hiện ở
Tây Tạng vào khoảng thế kỷ thứ XIII do giáo phái Cát cử (Bạch giáo)
định chế ra, sau đó được tất cả các giáo phái Phật giáo ở Tây Tạng
phỏng theo mà áp dụng cho giáo phái mình.
Tập tục Phật sống truyền thế
được lập ra căn cứ vào giáo lý "Tọa hóa độ sinh" (đức Phật tái thế) của
Đức Phật Thích Ca. Theo giáo lý này thì khi Đức Phật (tức người đứng
đầu giáo phái) viên tịch (chết đi) sẽ đầu thai và mang hình hài một đứa
trẻ nào đó (gọi là linh đồng).
Các vị cao tăng của giáo phái
đó sẽ căn cứ vào vô số các lời dặn dò trước khi viên tịch của vị Phật
sống của giáo phái mình và cả những lời báo mộng của vị thần Hộ pháp có
tên Lạp Mục Xuy Trung về phương hướng và địa danh mà linh đồng sinh
ra, đồng thời kết hợp với sự quan sát hình tích của linh đồng đã được
thể hiện trong "hình mẫu thánh hồ" (tức là hình bóng của Đức Phật in
trên mặt nước) v.v... mà chia thành nhiều nhóm để đi tìm vị linh đồng
đó.
Sau khi tìm được linh đồng (có
thể có nhiều linh đồng, thí dụ vào năm 1994 người ta đã tìm được 28
linh đồng ở rải rác trong 46 huyện thuộc 5 tỉnh của vùng Tây Tạng và
Nội Mông), các vị cao tăng lại sẽ căn cứ vào phương và năm (tính theo
can chi), kết hợp với phong thủy của vùng đất nơi linh đồng sinh ra và
những điều kiện khác như tướng mạo, khả năng đối đáp của linh đồng khi
được hội đồng các vị cao tăng hỏi han v.v... để tiến hành phân tích, so
sánh sàng lọc một cách hết sức cẩn thận.
Cuối cùng chọn lấy một danh
sách khả dĩ các linh đồng có thể được chọn làm Phật sống để sau đó trở
thành người đứng đầu giáo phái của mình (thí dụ năm 1994 danh sách này
gồm 7 linh đồng). Cho tới lễ tuyển chọn thì lọc một lần nữa để có danh
sách cuối cùng (năm 1994 còn 3 linh đồng, còn năm 2010 thì chọn được 2
linh đồng).
Bước quyết định là lễ tuyển
chọn được tiến hành trong một ngôi chùa linh thiêng nhất của giáo phái
đó. Trước tượng Thích Ca Mâu Ni và với sự hiện diện của các vị cao
tăng, đại đức, các quan chức chính quyền từ trung ương tới địa phương,
người ta viết tên của các linh đồng đã "qua các bước sơ tuyển và được
vào vòng chung kết" lên những tấm thẻ làm bằng ngà voi.
|
Buổi lễ được truyền hình trực tiếp. Trong ảnh là bình vàng kim bôn ba.
|
Các tấm thẻ này được cho vào
các túi bằng lụa hoàn toàn giống nhau. Sau khi được niêm phong cẩn
thận, các túi có đựng thẻ này được cho vào một cái bình bằng vàng (gọi
là bình Kim Bôn ba) và được đặt trên bệ thờ. Sau một loạt các nghi thức
hành lễ tôn giáo, một vị cao tăng xóc những tấm thẻ đó trong bình và
rút ngẫu nhiên một cái túi có đựng thẻ rồi giao cho vị chủ lễ.
Tấm thẻ trong túi được rút ra
cho tất cả các vị cao tăng và quan chức cùng xác định tên tuổi của
người được viết trên tấm thẻ đó. Khi mọi người không còn thắc mắc gì
nữa, vị chủ lễ tuyên bố tên vị linh đồng được chọn làm Phật sống. Và vị
Phật sống này sẽ trở thành người đứng đầu giáo phái.
Việc rút thẻ để xác định Phật
sống truyền thế (còn gọi là lễ "rút thẻ bình vàng", hay còn được gọi là
lễ " Kim bình xiết thiêm"), được quy định từ năm 1792 do Vua Càn Long
(làm vua 60 năm, từ năm 1736 đến 1796, được coi là thời thịnh trị nhất
của nhà Thanh) đặt ra.
Còn trước năm 1792 thì việc
xác định "linh đồng" chỉ là sự chọn lựa của những vị chức sắc Phật giáo
của môn phái đó. Điều này dẫn đến những việc làm sai trái.
Thí dụ có những trường hợp do
mối quan hệ gia đình họ hàng thân thiết mà người ta đã lựa chọn "linh
đồng" là người của gia tộc mình, như trường hợp Đạt Lai Trát Tất Khắc
của vùng Nội Mông đã "tiến cử linh đồng" là con của Vương Công gia (một
người họ hàng với mình).
Hoặc cũng có trường hợp sau
khi Phật sống Triết Bố Tôn Ban viên tịch thì tộc trưởng Phúc Tấn (là
người có quyền chọn linh đồng) đã chỉ vào bụng vợ đang có mang và bảo:
đó là linh đồng truyền thế. Nhưng đến khi sinh ra lại là con gái! Và
việc này đã sinh ra chuyện thị phi trong cả giáo phái.
Nói chung chuyện tương tự như
vậy là không hiếm. Vì vậy năm 1792, Vua Càn Long đã ra một chỉ dụ: Chế
ra một bình làm bằng vàng tặng cho Tây Tạng. Khi tiến hành lễ chọn Phật
sống thì viết tên của tất cả những người được lựa chọn, tên mỗi người
được viết vào một cái thẻ đặt vào bình vàng. Sau đó sẽ rút thẻ để xác
định "linh đồng truyền thế". Tất nhiên việc này cũng không thể xóa bỏ
hoàn toàn tệ nạn đã nêu, nhưng dù sao cũng làm giảm đi những điều tai
tiếng.
Vì Tạng truyền Phật giáo gồm
nhiều giáo phái khác nhau. Trong quá trình phát triển của mình, một số
giáo phái đã tìm cách giành được sự ủng hộ của chính quyền ở địa phương
và trung ương nên nắm được chính quyền, hình thành nên một chính quyền
- tôn giáo hợp nhất, tức là người đứng đầu giáo phái (Phật sống của
giáo phái đó) cũng đồng thời là người đứng đầu chính quyền của cả vùng
Tây Tạng, Nội Mông.
Thí dụ từ năm 1253 đến 1270,
Nguyên Thế tổ Hốt Tất Liệt đã phong cho Bát Tư Ba, Ngũ tổ của giáo phái
Tát già chức Đại Bảo pháp vương, được quyền lĩnh chức Hành chính trưởng
quan khu Tây Tạng. Đến thế kỷ XIV, Cát cử phái cướp chính quyền ở Tây
Tạng và được sự thừa nhận của chính quyền Trung ương. Nguyên Huệ tông
đã phong Giáng Khúc Tương Tham (Phật sống của phái Cát cử) chức Đại tư
đồ đứng đầu chính quyền Tây Tạng.
Khoảng giữa thế kỷ XVII, Cách
lỗ phái trở thành giáo phái đứng đầu ở Tây Tạng, thay thế cho Cát cử
phái và duy trì vai trò đó cho tới tận ngày nay. Cách lỗ phái (hay còn
gọi là Hoàng giáo, do các môn đệ của giáo phái này đầu luôn đội mũ màu
vàng) xuất hiện vào đầu thế kỷ XV do Tông ca ba đại sư sáng lập. Tông
ca ba đại sư còn có tên gọi Lạc Tang Trát Ba sinh năm 1357 tại làng
Tông Ca huyện Hoàng Trung, tỉnh Thanh Hải thuộc Nội Mông. Lúc nhỏ tu
tại chùa Hạ Quỳnh (Thanh Hải), năm 16 tuổi vào Tây Tạng. Sau nhiều năm
trời tu hành khổ luyện, tinh thông Phật pháp, Tông ca ba đại sư đã khai
sáng một giáo phái mới có tên Cách lỗ phái (tiếng Tạng “cách lỗ” nghĩa
là thiện quy).
|
Trước chùa Đại Chiêu Tự.
|
Tông ca ba đại sư có hai đại
đồ đệ tài hoa xuất chúng giúp đỡ, một vị có tên Căn Thục Châu Ba, một
vị tên là Khải Châu (hay còn gọi là Khắc Châu Kiệt). Sau khi hai vị này
tạ thế, theo chế độ Phật sống truyền thế, cả hai vị đều lần lượt được
truy tặng là Phật sống tối cao của Hoàng giáo. Căn Thục Châu Ba được
gọi là Đệ nhất Đạt Lai Lạt ma, Khải Châu được gọi là Đệ nhất Ban Thiền
Lạt ma (một số tài liệu dịch Ban Thiền Lạt ma là Pachen Lạt ma).
Tương truyền danh hiệu Đạt Lai
(tiếng Tạng có nghĩa là "đạo đức sâu rộng, vô sở vô năng") và Ban Thiền
(có nghĩa là “đại trí đại dũng”) là do Vua Thuận Trị (vua nhà Thanh từ
năm 1644 đến 1662) phong tặng. Vị Ban Thiền Lạt ma hiện nay của Hoàng
giáo là Thập nhất thế Ban Thiền (tức Ban Thiền Lạt ma thứ 11 tính từ Đệ
nhất Ban Thiền Khải Châu), có tên là Gian Sena Norbi, sinh ra trong một
gia đình nông dân ở làng Gia Lễ khu Tây Tạng, lên ngôi Ban Thiền ngày
8/12/1995, khi đó mới tròn 6 tuổi.
Từ trên giáo nghĩa mà xét thì
danh phận của Đạt Lai và Ban Thiền là hoàn toàn tương đồng với quyền
lực của tôn giáo, còn xét về mặt lịch sử thì quan hệ giữa hai vị đại
Phật sống này là quan hệ thầy trò (Đạt Lai được coi là thầy của Ban
Thiền). Cho tới năm 1751, triều đình nhà Thanh đã tiến hành cải cách
chế độ chính trị của Tây Tạng bằng việc cử một vị Khâm sai đại thần
thường trú tại đây, đồng thời thành lập Chính phủ Catxia (Các hạ) để
phối hợp với Đạt Lai và Ban Thiền trong việc chủ trì công việc của Tây
Tạng.
Từ năm 1949, Tây Tạng trở
thành một khu tự trị của nước Trung Hoa mới thì chính quyền Trung ương
đã tôn trọng những nghi lễ của các giáo phái Phật Tạng, trong đó có
nghi lễ Phật sống truyền thế. Ngay từ khi Đệ ngũ thế hoạt phật Giang
Bạch Các Tang Gia Thố từ trần ngày 11/3/2000, chính quyền khu tự trị
Tây Tạng căn cứ vào tập tục "Tạng truyền Phật giáo hoạt phật truyền
thế" đã ra thông báo về quyết định "phê chuẩn việc tìm vị Hoạt Phật
mới".
Sau đó tiểu tổ tìm kiếm Hoạt
Phật được thành lập do các vị cao tăng, đại đức của ngôi chùa Trát Quả
tự phụ trách. Trải qua hàng chục năm tìm kiếm, cuối cùng tiểu tổ đã
tìm được 2 "linh đồng". Và tới cuộc "xóc bình vàng" rạng sáng 4/7 đã
xác định được Đệ lục thế Hoạt Phật của Phật giáo Tây Tạng.
Theo: ANTG