ĐÁP: Căn cứ vào bộ “Thiền Môn Chánh Độ
Thế Nhân Tang Tấn Khoa Nghi” của Hoà thượng Bích Liên (bản chép tay) và
“Nghi Lễ Phật Giáo” của Thích Diệu Tánh thì trong một tang lễ gồm có 
những lễ chính sau đây: 1. Lễ trị quan nhập liệm; 2. Lễ thành phục; 3. 
Lễ Tịch điện; 4. Lễ triều tổ; 5. Lễ khiển điện; 6. Lễ an sàng. Đây là 
những lễ chính. Tuy nhiên, tuỳ theo phong tục, tập quán của từng nơi và 
điều kiện không gian, thời gian mà có sự uyển chuyển khác nhau không 
nhất thiết phải tuân thủ một cách cứng nhắc. 
Theo
quan điểm của Phật giáo, cầu siêu cho những người mất có những tác dụng
tích cực. Thế nhưng, tác dụng ấy vẫn có những giới hạn nhất định. Vì 
tính chất của cầu siêu là khắc phục hậu quả, mang tính thụ động trong 
việc hướng dẫn và chuyển hoá hương linh. Bởi lẽ, điều kiện căn bản để tu
thiện, gây tạo những nhân lành là thời gian khi đương sự đang còn sống,
ý thức dễ kiểm soát và tự chủ. Sau khi đương sự chết rồi, thần thức tán
loạn, khổ đau do nghiệp dĩ chi phối rất mãnh liệt, nên khó có cơ hội 
tiếp nhận Chánh pháp để chuyển hoá tâm thức. Mặt khác, dẫu cho người 
sống tổ chức lễ cầu siêu và hồi hướng công đức tu thiện, làm phước cho 
người chết nhưng người chết không thể nhận được trọn vẹn. Kinh Địa Tạng 
cho biết, lợi ích của lễ cầu siêu có bảy phần, thì sáu phần thuộc về 
người còn sống (tức là người tổ chức lễ cầu siêu) còn chỉ có một phần 
lợi ích thuộc về người đã chết. 
Đồng thời, đối với phương thức cầu 
siêu, quan niệm chính thống của Phật giáo có sự khác biệt so với tập tục
dân gian. Vì trong dân gian, do sự pha trộn nhiều yếu tố tín ngưỡng nên
có những hình thức cầu siêu mang nặng tính chất mê tín, cầu xin một 
năng lực siêu nhiên ban ân, cứu vớt. Trong khi đó, Phật giáo với lý 
thuyết nhân quả cực kỳ phân minh và hiệu ứng tác động của nghiệp báo rất
rõ ràng, nên lễ cầu siêu cho người quá cố ngoài nỗ lực để chuyển hoá 
tâm thức của hương linh còn là một phương tiện độ sanh mang tính tích 
cực. Việc siêu độ cho vong linh tức là độ thoát khỏi cõi khổ, siêu thăng
đến cõi vui, hoàn toàn dựa vào sự chuyển hoá của tự thân hương linh 
trên nền tảng khai thị, hướng dẫn của chư Tăng và sự thành tâm hộ niệm 
của gia đình, quyến thuộc và bằng hữu chứ không phải hoàn toàn chỉ do sự
tác dụng tụng kinh của Tăng Ni. Đó là sự thăng hoa tâm thức được cảm 
ứng do phối hợp nghiệp thiện của người tổ chức siêu độ và sự tu trì của 
người tụng kinh. 

Từ đó, cần phải thấy rằng, chủ thể của công việc cầu siêu 
không phải chỉ là Tăng Ni mà bao gồm gia thuộc và thân hữu của người 
chết. Trong đó, gia quyến có vai trò cực kỳ quan trọng. Thân nhân người 
chết - theo quan điểm của kinh Địa tạng - nếu biết đem các đồ vật ưa 
thích của người sắp chết, cúng dường Tam bảo, bố thí kẻ nghèo, và làm 
cho người sắp chết hiểu rõ, đó là làm công đức thế cho đương sự, thì sẽ 
có tác dụng rất lớn đối với vong linh người chết. Bởi, do sự cảm ứng của
một niệm thiện, tâm người lúc lâm chung được an ủi, nhờ vậy mà nghiệp 
thức của người chết hướng tới cõi lành. Đây không phải là mê tín, mà là 
hiệu ứng chuyển sanh của Cận tử nghiệp tích cực. Mặt khác, khi người 
thân đã chết mà con cháu, gia thuộc có lòng thành kính thiết tha, tổ 
chức trai tăng, bố thí, làm điều phước thiện lớn, tỏ lòng hiếu thảo khẩn
thiết cũng có thể tạo ra hiệu ứng tốt cho việc chuyển hoá tâm thức, 
giúp hương linh tỉnh thức và thành tựu vãng sanh. 
Tăng Ni tụng 
kinh là pháp tu hàng ngày của họ trong các chốn thiền môn, tụng kinh là 
một phương pháp tu hành, mục đích của tụng kinh không phải chỉ để siêu 
độ người chết. Phật giáo sở dĩ có nghi thức tụng kinh để siêu độ người 
chết, vì người chết cần có những lời khai thị để tỉnh thức ở trong kinh 
Phật. Do đó, các thành viên trong gia đình và bằng hữu có thể tụng kinh 
để siêu độ cho người thân của mình. Khi có đủ duyên lành thì thỉnh Tăng 
Ni tụng kinh trợ duyên thêm. Thực ra, chức năng của Tăng Ni là duy trì 
đạo Phật ở thế gian, lấy Phật pháp để hóa độ chúng sinh, chứ không phải 
chuyên làm việc siêu độ cho người chết. Công đức của tụng kinh là nhờ ở 
lòng tin Phật pháp và tu hành Phật pháp. Cho nên không phải chỉ có Tăng 
Ni mới tụng kinh, lại càng không phải chỉ khi có người chết mới tụng 
kinh. 
Hơn nữa, thời hạn siêu độ tốt nhất là trong vòng 49 ngày. 
Bởi vì, theo Phật giáo, chỉ trừ những trường hợp như người có phúc 
nghiệp lớn, chết thì tái sinh ngay ở sáu cõi trời Dục giới, hay là những
người tu định có kết quả, khi chết thì tái sinh ở các cõi trời Thiền 
định, hay là người có ác nghiệp nặng, chết thì đọa địa ngục lập tức; còn
thì đối với người bình thường mà nói, chết xong còn trải qua thời gian 
từ 1 đến 49 ngày chờ đợi cho nghiệp duyên chín muồi mới quyết định tái 
sinh. Nếu trong thời gian này mà con cái, thân nhân biết lấy công đức 
cúng dường Tam bảo, làm mọi điều phước thiện để hồi hướng cầu siêu độ 
thì người chết, nhờ công đức thiện nghiệp ấy cảm ứng hỗ trợ mà được sinh
lên cõi lành (Trời, Người) và được siêu độ. Nếu để qua 49 ngày khi thần
thức đã thọ sanh, mới tổ chức cầu siêu thì chỉ có thể tăng thêm phúc 
đức cho người chết, chứ không thể ảnh hưởng đến xu hướng tái sinh của họ
nữa. 
Tóm lại, việc cầu siêu cho người quá vãng là một việc làm 
có nhiều ý nghĩa tích cực và phương thức thực hiện cũng đa dạng, không 
giống nhau. Không nhất thiết chỉ có một việc là mời Tăng Ni tụng kinh là
đủ mà cần phải vận dụng các phương tiện hỗ trợ cho việc siêu độ như gia
quyến phải tụng kinh, cầu nguyện và làm các việc phước thiện để hồi 
hướng cho người thân của mình. Cầu mong cho họ vượt thoát khổ ách nếu có
và sẽ thêm vui nếu như họ đã đạt đến cảnh yên vui.