-
Đại đức nghĩ gì về sự việc 15 cô gái Việt Nam trong đường dây đẻ thuê
cho những người Đài Loan hiếm muộn bị phát hiện tại Thái Lan trong thời
gian gần đây?
|
Đại đức Thích Thanh Thắng |
Đại đức Thích Thanh Thắng:
Trước khi xét đến động cơ cụ thể của từng người, tôi cho rằng họ là
những người phụ nữ đáng thương, bởi trong từng hoàn cảnh, không phải ai
cũng có thể đi đến những quyết định như vậy. Đó là chưa kể đến việc họ
có thể gặp phải rạn nứt, đổ vỡ trong quan hệ gia đình, tình yêu, hôn
nhân.
Hơn
nữa, việc họ đẻ thuê được môi giới qua dịch vụ, thông tin cũng cho
biết vụ này có dấu hiệu của sự lừa đảo, ngược đãi. Một điều ai cũng rõ,
từ khi mang thai đến sinh nở bất cứ khi nào người mẹ cũng có thể đối
diện với rủi ro về sức khỏe.
Tôi
nghĩ chắc đã có những hứa hẹn rằng sang Thái Lan đẻ thuê sẽ được trả
giá cao hơn. Nhưng làm sao có thể mang một sinh thể trong người mà lại
không phải là kết quả của tình yêu thương, không có sự ràng buộc nào về
mặt tình cảm?
Họ
cũng là những phụ nữ với đầy đủ những thiên chức làm mẹ cao cả; họ
không phải là máy đẻ. Thêm nữa, những đứa trẻ kia sau này trưởng thành
sẽ phát triển nhân cách qua lòng yêu thương, hoàn toàn không phải là một
loại sản phẩm mà người có nhu cầu muốn là có thể mua được.
-
Theo Đại đức, điều này có nên được xem là thuận với niềm ao ước có một
đứa con của những người hiếm muộn hay nó chống lại quyền năng của tạo
hóa?
-
Điều này rõ ràng không thuận với bất cứ đứa trẻ nào, ngay cả ở những
nước không có kết cấu gia đình bền vững. Thực tế cho thấy, những trẻ mồ
côi, trẻ được nhận làm con nuôi khi biết rõ sự thật về thân phận đều
mong tìm về với bố mẹ đẻ của mình cho dù là họ giàu hay nghèo.
Đã
có những bậc cha mẹ nuôi hiểu được tình huyết nhục thiêng liêng không
thể thay thế ấy và đi tìm lại cha mẹ đẻ cho con. Trong mỗi con người
đều có tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh.
Vì
vậy, mỗi người được sinh ra đều có quyền được hưởng trọn vẹn sự thật
ấy.Tuy nhiên, tôi không nghĩ những người tham gia vào việc đẻ thuê có
thể nghĩ xa đến việc chống lại quyền năng tạo hóa. Trong quan hệ xã
hội, có "cầu" ắt có "cung". Vấn đề nằm ở cả hai phía.
Điều
mọi người muốn biết là họ có nghĩ đến tương lai, hạnh phúc của đứa trẻ
hay không, hay đó chỉ là những nhu cầu nhất thời nhằm thỏa mãn những
đòi hỏi ích kỷ của cá nhân.
-
Liệu có thể lấy lý do nghèo đói để biện minh cho việc mang thai hộ?
Bởi số tiền được trả công 5.000 đô la Mỹ cho chín tháng mang nặng đẻ
đau là cả một gia tài đối với những cô gái đó?
Thực
tế lý do này đã được một số người đưa ra để biện minh rồi. Nhưng nếu
phụ nữ nào cũng lấy nghèo đói để cho phép mình làm việc này thì nhất
định đạo đức xã hội sẽ bị tổn thương. Nếu ngay cả tình mẫu tử thiêng
liêng nhất cũng bị lợi ích vật chất thay thế, những quan hệ xã hội khác
sẽ diễn biến khó lường trước.
- Có thể nói gì về trách nhiệm của chính quyền các cấp và các tổ chức xã hội trong việc này?
Về
mặt chính sách, tôi cho rằng, khi người phụ nữ phải sống với "nghề" đẻ
thuê, đã cho thấy những thiệt thòi và bất bình đẳng về cơ hội trong
cuộc sống, đặc biệt ở những vùng nghèo, sự phân biệt nam nữ còn cao.
Theo
tôi, trước mắt không chỉ có định lượng mà còn phải định tính cho vấn
đề này nữa, nghĩa là phải có những điều tra, nghiên cứu xã hội học cụ
thể, để từ đó có những tư vấn cần thiết cho việc hình thành các văn bản
pháp luật.
- Xin hỏi Đại đức ủng hộ hay chống đối việc pháp luật cho phép hoạt động mang thai hộ vì lý do nhân đạo?
Cá
nhân tôi không ủng hộ điều này, bởi mối quan hệ mẹ - con vốn mang ý
nghĩa thiêng liêng. Đạo Phật chú trọng đến vấn đề thai giáo, tức giáo
dục con cái từ khi còn trong bào thai, thông qua những tâm niệm lành của
người mẹ. Đứa trẻ nào sinh ra cũng có những cảm nhận đặc biệt với
người mẹ, vì thế không có đau khổ nào bằng một đứa trẻ sinh ra mà không
được sống trong vòng tay yêu thương của người mẹ. Một đứa trẻ được
sinh ra bởi dịch vụ đẻ thuê như thế thì khác nào một đứa trẻ mồ côi mẹ.
Nhưng
nếu pháp luật cho phép mang thai vì lý do nhân đạo thì cần có tiêu chí
cụ thể. Ở một số nước, dịch vụ đẻ thuê được nhìn nhận dưới góc độ y
khoa, tức thông qua việc cấy ghép tinh trùng. Trong khi ở ta, một số sự
diễn giải, kể cả trên phim ảnh vẫn chưa có được sự minh bạch khi phần
nào gắn việc đẻ thuê với những quan hệ tính giao.
- Qua sự việc này Đại đức nghĩ gì về thân phận người phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là phụ nữ nghèo?
-
Tôi không rõ những nhận xét rằng người Việt mình có chỉ số hạnh phúc
cao được căn cứ trên những tiêu chí nào, độ xác thực được bao nhiêu.
Nhưng khi có dịp đi đến một vùng nào đó, tôi luôn quan sát khuôn mặt,
dáng người của dân mình.
Với
rất nhiều phụ nữ, tôi thấy có biết bao lo toan cuộc sống đè nặng lên
vai, nên nỗi buồn, sự cơ cực hằn lên trên khuôn mặt của họ.Đã vậy, theo
tôi, tác động hàng ngày của các phương tiện truyền thông đối với người
dân nông thôn là rất lớn. Lối sống sung túc trên phim ảnh, trên truyền
hình tác động không nhỏ đến đời sống của họ khiến họ không thể không
suy nghĩ hay so sánh và muốn cuộc sống của mình phải thay đổi.
Tuy
nhiên, do bất bình đẳng về cơ hội, chỉ cần có ai lợi dụng, dụ dỗ là họ
có thể làm bất cứ điều gì. Những người bán thân, bán máu, bán nội
tạng, đẻ mướn... đều bỏ vốn trên chính cơ thể của mình, điều vốn dĩ để
lại nhiều hậu quả đau lòng.
Nhà
nước cần quan tâm thực sự đến y tế và giáo dục ngay ở những vùng nghèo
vì đó chính là đầu tư dài hạn cho tương lai của dân tộc. Tôi nghĩ các
quan chức chính quyền và những doanh nhân cũng như những người làm giàu
từ dân nhiều hơn mình làm giàu cho dân, cần thường xuyên suy nghĩ về
hình ảnh ấy của người phụ nữ để sống sao cho đúng lương tâm và trách
nhiệm.
Còn những người tu hành như chúng tôi cũng phải nỗ lực để đáp ứng nhu
cầu tinh thần, tâm linh của dân, nhằm trả cái ơn tin tưởng, bố thí của
dân.
Theo: TBKTSG