Để biết thêm tình hình, vào vai một người nhàn tản, tôi phóng
xe máy đi chơi đây đó. Chỉ mươi phút ngồi ở quán nước đầu làng An Viên,
tôi đã tận mắt thấy hơn chục chiếc xe máy do các "tăng ni" điều khiển
từ trong chùa đi ra. “Làng mình chắc có chùa to lắm, bà nhỉ? Bao
nhiêu là sư qua lại…”.
Tôi tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi chủ quán. Bà bán hàng nước tóc đã điểm bạc,
dáng vẻ chân chất thở dài ngán ngẩm: “Sư sãi gì đâu ông. Họ chỉ là nông
dân đóng giả thành sư nam sư nữ đi các nơi để xin công đức và bán hương
nến đó…”. “Đông đến vậy cơ à?”. “Đông chứ. Nghề kiếm được mà. Cả làng
này đóng giả sư nam sư nữ có cả trăm người. Chẳng vậy mà dân trong vùng
gọi làng tôi là “ làng giả sư” đấy ông ạ…” Bà phân trần, nét mặt đượm
buồn.
Tôi lần dò vào làng chơi. Theo trí nhớ của ông Q, nguyên trưởng thôn
thì cuối những năm 90 của thế kỷ trước có mấy chị mấy cô người làng vào
Nam sinh sống lấy chồng rồi lập nghiệp trong đó đã phát hiện ra nghề giả
sư để đi bán hương, nến, làm từ thiện kiếm được khối tiền nên khi về
quê đã truyền lại mánh lới làm ăn này cho dân làng mình. Nghe bùi
tai, mới đầu có vài người đi thử sau thấy cách làm này kiếm tiền được
người nọ bèn rủ người kia rồi cả làng kéo nhau đi làm sư giả. Có gia
đình đi 2 – 3 người cả mấy anh chị em ruột, cả bố mẹ cũng tham gia.
Họ may quần nhuộm nâu, áo cà sa mặc vào, cổ cũng mang chuỗi tràng hạt
dài để đóng giả sư đi hành nghề. “Sư” ở đây được chia thành hai
loại: loại đi quanh năm và loại sư mùa vụ. Sư đi quanh năm là bỏ hẳn cầy
cuốc còn sư mùa vụ chỉ đi lúc nông nhàn; tháng ba ngày tám là thu xếp
đồ nghề, hương nến lên đường. Mà hầu hết các “ sư” đều đi xe máy để vươn
tới được các huyện, các tỉnh xa chứ đi bộ khất thực loanh quanh mấy xã
gần kiểu “ gà quê ăn quẩn cối xay” dân đã quen mặt dễ bị lật tẩy, bị
chửi rủa đuổi đánh là cái chắc.
Mỗi vị khi đi hành nghề đều có thẻ nhà Phật đeo trước áo cà sa ghi rõ
họ tên, trụ trì ở những ngôi chùa to, có tiếng nào đó cấp. Còn ai cấp
thẻ này cho họ thì ngay những người trong làng cũng không được biết. Chỉ
biết mười mươi đó là thẻ dởm. Trong vai nhà chùa, họ làm đủ mọi
mánh khóe để moi tiền như khất thực, xin quyên góp công đức để hỗ trợ
kinh phí trùng tu chùa này, dựng tượng nọ…
Họ bán hương nến với giá cao gấp từ 10 đến 15 lần giá thị trường.
Người Việt Nam vốn quí trong đạo Phật từ bi bác ái, vốn kính nể các tăng
ni nên rất nhiều người đã bị lừa. Có sư giả còn kiếm luôn nghề
bói toán xóc thẻ, xem phong thủy, địa lý đất đai mồ mả rồi phán xằng nói
bậy thế mà vẫn không ít người tin sái cổ, thù lao cho họ rất hậu hĩnh.
Một ngày hành nghề như vậy mỗi sư giả chịu khó lang thang vào các làng
quê, ngõ ngách thị xã, thị trấn, thành phố cũng kiếm được từ vài trăm
ngàn đến cả triệu đồng.
Nhiều ni cô giả như Hà Thị Đ., Phan Thị H. mới đi vài năm đã có tiền
xây được nhà mái bằng, nhà cao tầng kiên cố khang trang, có của ăn của
để. Tuy nhiên nghề giả sư này cũng mang lại không ít tai tiếng
xấu và hệ lụy buồn. Nguyễn Thị Thoa 27 tuổi đã bị công an Hải Phòng bắt
quả tang khi vừa đút túi được hai triệu đồng tiền quyên góp trái phép ở
quận Lê Chân. Ở chợ Ninh Hiệp – Đông Anh, Hà Nội, 2 sư giả khác của làng
An Viên, là Phan Thành Chung và Nguyễn Thị Hòa cũng bị bà con bắt tại
chỗ giao cho chính quyền xử lý vì tội lừa đảo...
Rõ ràng đây không thể gọi là "nghề phụ" như một số người trong làng
ngộ nhận. Vì nghề phụ phải là nghề chân chính, dùng sức lao động của
con người làm ra sản phẩm của cải vật chất cho xã hội, góp phần tăng
trưởng kinh tế. Chứ còn “ nghề giả sư” này chỉ là hành vi, mánh khóe
kiếm tiền một cách gian manh chụp giật, phạm pháp cần phải xử lý bằng
pháp luật để trả lại sự yên bình lành mạnh hiền hòa trong sạch vốn có
của làng quê Việt Nam.
Hai kẻ hành nghề giả sư bị bắt
Thế Trường ( Giáo Dục thời Đại )