LTS: Giáo lý đạo Phật đã được Đức Thế Tôn dạy cách đây hơn 2.500
năm, nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá trị và ngày càng ưu thế cũng như
khả năng ứng dụng của Phật pháp vào trong khoa học, trong đời sống x
hội. Một trong những ngành khoa học khai thác được nhiều tiềm năng của
kho tàng Phật pháp nhất đấy là Tâm lý học, đặc biệt là tâm lý liệu pháp.
Ngày nay, có nhiều tâm lý liệu pháp đã tìm thấy rất nhiều liệu pháp để
chữa trị các chứng bệnh tâm lý rất hiệu quả từ trong Phật pháp. Sự ra
đời của chuyên ngành tâm lý liệu Phật giáo đã thể hiện rất rõ điều này.
Để góp phần nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng Phật pháp vào trong Tâm
lý liệu pháp, chúng tôi xin giới thiệu đến độc giả loạt bài về sự vận
dụng gio lý đạo Phật để chữa trị các chứng bệnh tâm lý mà con người
thường mắc phải trong xã hội hiện tại. Xin mời quý vị đón đọc.
“Tôi đã luôn nghĩ rằng, Hoa Kỳ sẽ là nướca khởi đầu cho việc này”,
nhà làm phim và nghệ sĩ người Hà Lan, cô Babeth Vanloo nói. Đây có nghĩa
là đầu tiên, và chỉ để xác định ngày tháng, kênh truyền hình độc lập ở
phương Tây đã phát những chương trình Phật giáo thông qua hệ thống
truyền hình công cộng của một quốc gia. Ngày nay, một thập niên sau ngày
BOS (Boeddhistische Omroep Stichting = Buddhist Broadcast Foundation -
Quỹ chương trình truyền thanh, truyền hình Phật giáo) được thành lập ở
Hà Lan, Hoa Kỳ vẫn chưa nắm bắt được ý tưởng này.
Đặt trụ sở tại Hilversum, một thành phố gần Amsterdam, một trung tâm
truyền thông của đất nước Hà Lan, BOS chính thức hoạt động vào tháng 1
năm 2001. Chương trình được lên kế hoạch phát sóng một tiếng đồng hồ
hàng tuần, gồm những đoạn phim khoảng 30 hay 60 phút. Những đoạn phim
này chuyển tải Phật pháp và giới thiệu về chư Phật, các bậc thầy, cũng
như điểm giao thoa của Phật giáo trong những nền văn hóa khác nhau. BOS
còn được phát trên mạng lưới internet và trên những chương trình truyền
thanh và chương trình truyền hình giác ngộ nhắm vào giới trẻ
(Youth-centered Bodhi TV). Theo Vanloo, người đồng sáng lập và chủ nhiệm
biên soạn chương trình BOS, vai trò quan trọng nhất của kênh truyền
hình BOS không phải là trình chiếu những phim về Phật pháp mà là nhắm
vào việc chuyển tải tinh thần của đạo Phật bởi những nhà làm phim mà bản
thân họ là những hành giả. Cô gọi chương trình ấy là “truyền hình sâu
sắc” - những chương trình có tính tư duy, chúng đem thời gian vào sự
kiện và cung cấp cho người xem một sự trải nghiệm ngay lập tức và thậm
chí là sự chuyển hóa như là một nét mới lạ đối với những chương trình
truyền thông giải trí hời hợt và xa rời thực tế đang chiếm ưu thế trên
các kênh truyền thông đại chúng ở châu Âu và Hoa Kỳ.
Vanloo, với đầu tóc hoe đỏ khá ấn tượng và trông có vẻ trẻ hơn nhiều
so với tuổi 61 của cô, đã đến văn phòng tạp chí Tricycle vào
tháng ba trước trong trang phục váy đen kiểu cách và áo thun cùng áo len
dài tay màu đen bạc và đôi ủng cao bồi. Với trang phục này tại buổi hội
nghị, dường như đã phản ánh một cách hoàn hảo về tính cách của cô khi
cô tâm sự về cuộc đời của mình. Mặc dù bây giờ Phật giáo đã đan kết
khăng khít vào chuyên môn cũng như vào tiểu sử cá nhân của cô ấy, Phật
giáo đã từng là bộ phim lần đầu tiên thu hút sự chú ý của cô.
Lớn lên ở Maastricht, một thành phố ở đỉnh đầu phía Nam của nước Hà
Lan, giáp những biên giới của nước Đức và nước Bỉ, Vanloo đã rời xa gia
đình ở tuổi 17 để học ngành kiến trúc, rồi nghệ thuật ở Đức. Tại khoa
nghệ thuật hàn lâm Dusseldorf, cô đã học ‘nghệ thuật điêu khắc xã hội’
với Joseph Beuys, một nghệ sĩ tiên phong có sức ảnh hưởng lớn, người đã
xem nghệ thuật như là một phần không thể tách biệt khỏi cuộc sống hàng
ngày, và như là một phương tiện để chuyển hóa xã hội. Beuys đã có sự ảnh
hưởng lớn đến công việc của Vanloo ngay cả khi cô ấy đã chuyển đến Hoa
Kỳ để tiếp tục việc học: Beuys là chủ đề của những bộ phim nổi tiếng đầu
tiên của cô sản xuất trong và sau khi cô lấy bằng thạc sĩ về phim và
nghệ thuật ở Viện nghệ thuật San Francisco.
San Francisco
vào thập niên 1970 là một nơi màu mỡ cho các loại hình nghệ thuật.
Vanloo đã làm những bộ phim về nghệ thuật và những đoạn video về những
họa sĩ, những nhạc sĩ, và thử nghiệm với những sự lắp đặt màn hình kết
hợp với âm nhạc sống động.
Vanloo đã gặp vị thầy trong Phật giáo đầu tiên - Dilgo Khyentse
Rinpoche - vào năm 1976 ở New
York. Mặc dù cô đã có cảm giác của sự trở về
nhà, nhưng sau đó vài năm cô mới bắt đầu thực tập hàng ngày. Ở San Francisco, cô
đã tham dự những buổi thuyết giảng của Dudjom Rinpoche. “Vào lúc đó tôi
thật sự đắm mình trong đời sống tình dục, thuốc phiện và điệu nhảy
rock, cho nên việc tham dự những buổi thuyết giảng ấy như là một thứ cứu
lấy cuộc đời của tôi”, cô hồi tưởng. “Tôi đã rất may mắn được nghe
những lời dạy về Dzogchen (Đại toàn thiện), vì đấy là con đường của sự
giải thoát”, cô nói thêm. “Tôi nghĩ đấy dường như là một điều tương hợp
với tâm hồn của một nghệ sĩ khi có hạt giống Drogchen”. Dilgo Khyentse
đã có lần miêu tả sự thực tập Drogchen như là “một sự thừa nhận hoàn
toàn vô tư, một sự cởi mở đối với tất cả mọi tình huống mà không hề có
giới hạn”.
Khi Vanloo chuyển về lại Hà Lan vào đầu thập niên 1980, cô vẫn tiếp
tục thực tập, cô thức dậy từ sáng sớm để tọa thiền trước khi các con của
cô thức dậy. Con gái của cô là Isadora, 23 tuổi, và con trai là Kimo,
27 tuổi, “đã được kéo theo để tham dự mỗi khóa tu mà tôi đã tham gia khi
chúng còn nhỏ”, cô nói, “nhưng tất nhiên bây giờ chúng không muốn có
bất cứ điều gì để làm với đạo Phật”.
Ngày nay, Vanloo tham dự những khóa tu với thầy Namkhai Norbu tại
trung tâm của thầy ở Merigar, nước Ý, và với Dzigar Kongtrul Rinpoche,
là thầy của Pema Chodron. Cô đã hoàn thành khóa đào tạo Madhyamaka
(Trung quán luận) với Dzigar Kongtrul và Dzongsar Khyentse Rinpoche, vị
Lạt ma người Bhutan và còn được biết đến với cái tên Khyentse Norbu,
người đã đạo diễn cho những bộ phim The Cup (Cái tách) và Travellers
and Magicians (khách du lịch và những nhà ảo thuật). “Tôi thật là
diễm phúc khi có được hai vị thầy vĩ đại, Dilgo Khyentse và Dudjom
Rinpoche, và cả Namkhai Norbu nữa”, Vanloo nói, “nhưng gặp được những vị
thầy trẻ này, những người không sinh ra ở Tây Tạng nhưng lại có được
tâm hồn và tấm lòng cao cả như thế quả là ngoài sức tưởng tượng”. Gần
đây cô cũng đã theo học với Sư cô Khandro Rinpoche: “Cô ấy là một vị
thầy rất giỏi, rất nhạy bén và thật tuyệt vời”.
Vào năm 1989, Vanloo đã thực hiện bộ phim Phật giáo đầu tiên, bộ phim
tập trung vào Dilgo Khyentse và những hình thái đầu thai diễn ra sau sự
qua đời của Dudjom Rinpoche. Thế rồi từ đó cô đã dựng phim về Đức Đạt
lai Lạt ma và một số vị thầy khác trong Phật giáo gồm có Sakya Trizin,
Sogyal Rinpoche, Lama Pema Wangyal, S.N.Goenka, và Mathieu Ricard - và
đã làm việc như là một biên tập viên hay là một nhà sản xuất ủy nhiệm về
những phim khắc họa nhiều hơn nữa, gồm có Sharon Salzberg, HT. Thích
Nhất Hạnh, Stephen Batchelor, Jon Kabat-Zinn, Noah Levine, và Sayadaw U
Kovida, vị trụ trì một tu viện tại Miến Điện, người đã từ chối những
phẩm vật do quân đội tặng. Khoảng 85% chương trình của BOS hoặc là những
sản phẩm trong nước, được hỗ trợ ngân quỹ bởi Bộ văn hóa, khoa học và
giáo dục Hà Lan, hoặc là những sản phẩm liên doanh quốc tế, phần còn lại
là những thứ thu nhận được.
Việc đó đòi hỏi sự cố gắng lớn của cả tập thể, bao gồm cả vụ kiện của
Hiệp hội Phật giáo Hà Lan - một liên minh của những nhóm Phật giáo - để
mở đường cho BOS. Luật của Hà Lan cho phép các phương tiện truyền thông
đại chúng quảng bá tất cả các tôn giáo của các nhóm thiểu số. Tuy
nhiên, mặc dù tín đồ Hồi Giáo và tín đồ đạo Do Thái, mỗi đạo đã có một
kênh truyền hình riêng của họ, thế nhưng suốt 7 năm qua hồ sơ xin một
kênh truyền hình riêng của Hiệp hội Phật giáo đã bị từ chối bởi lý do
rằng, Phật giáo chỉ là một tôn giáo của phương Đông. Tại tòa án, Hiệp
hội Phật giáo đã biện luận thành công rằng Phật giáo không chỉ là một
tôn giáo mà còn là một sự thực tập và nó có thể tạo ra sự ảnh hưởng tích
cực cho xã hội phương Tây.
BOS đóng vai trò như là một diễn đàn truyền thông đại chúng của Phât
giáo, trong đó Vandoo đảm trách nhiệm vụ rất quan trọng. Giới thiệu về
“những vị thầy đáng tin cậy” là rất quan trọng, cô ấy nói, và không phân
biệt tông phái hay giáo điều gì cả. Những nguyên tắc định hướng cho
kênh truyền hình là những Ba la mật (hay là những sự hoàn hảo, sự cứu
cánh) trong Phật giáo - Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định, và trí tuệ - đã định nghĩa lại cho phù hợp với cuộc sống hiện tại.
(Chẳng hạn như Bố thí, trong BOS thuật ngữ này bao gồm cả việc “nói lên
tiếng nói của những người bị áp bức và những người đang cần giúp đỡ”).
Vanloo nói: “Thầy của tôi, Beuys, đã từng dạy rằng, nghệ thuật bắt
đầu với sự điêu khắc tâm hồn - với ý tưởng”. Việc nắm bắt được cốt tủy
của quá trình thưởng thức nghệ thuật trong phim là một thách thức đằng
sau công trình gần đây nhất của cô, Meredith Monk - Inner
Voice (Meredith Monk - Tiếng nói nội tâm), một bộ phim tài liệu dài
82 phút, đề cập đến một biên đạo múa/người soạn nhạc/diễn viên - và
người Phật tử đang tu tập. Vanloo nhấn mạnh: “Công việc của Monk thật sự
nói lên rằng, nghệ thuật là cuộc sống, cuộc sống là nghệ thuật - và
cũng là sự tu tập - cho nên sự không có những ranh giới giữa chúng đã
được phản ánh trong phim. Tôi đã cố gắng thể hiện rõ sự phụ thuộc lẫn
nhau trong đời sống của cô ấy”. Phim Inner Voice tiếp cận Monk
trong một buổi hòa nhạc và khi cô ấy trình bày bản nhạc mới nhất của cô
ta, Những bài ca về sự hướng thượng. Nó là một bộ phim có tính
riêng tư, trình chiếu về một nghệ sĩ khi cô tiến hành công việc ở một
nơi vắng vẻ, tập duyệt nó với những người đồng diễn của cô, rồi sau đó
biểu diễn. Với đường hướng Phật giáo chân thực, những bản nhạc của Monk
luôn luôn có tính cảm hóa. “Thậm chí ở trên sàn diễn cô ấy tiếp tục
chuyển tải tác phẩm của mình, tìm kiếm sự cân bằng giữa kỷ luật và sự tự
do. Đấy là nguyên tắc của Phật giáo về sự thay đổi liên tục”, Vanloo
nói.
Trong bộ phim, Monk giải thích rằng cô biểu diễn “trong một tâm trạng
khá gần với sự tham thiền..., rất cởi mở và thay đổi theo những gì xảy
ra trong giây phút hiện tại”. Thiền sư và nhà thơ Norman Fischer đã gợi ý
cho cô về bản nhạc Những bài ca về sự hướng thượng khi Thiền sư
nói với cô về các bài ca về những con đường đi lên - 15 bài Thánh ca,
mang ý nghĩa khác nhau, được hát bởi các tín đồ Do Thái giáo thời cổ đại
khi họ leo núi (hay đi lên những bậc tam cấp của nhà thờ) để dự lễ. Chủ
đề của ‘con đường đi lên’ đã tạo cảm hứng để cô biểu diễn tác phẩm của
mình bên trong tòa tháp của nghệ sĩ Ann Hamilton - một tòa tháp tám tầng
bằng xi măng nhằm phục vụ cho nghệ thuật do nông trại của Steve Oliver
bảo trợ tại phía Bắc California. Tòa tháp hình trụ gồm có hai cầu thang
quấn lại theo hình xoắn ốc đôi: khán giả đứng dọc theo một cầu thang còn
những người biểu diễn thì biểu diễn ở cầu thang kia.
Phim Inner Voice đem đến cho người xem cái nhìn thoáng qua
hiếm hoi về sự thực tập giáo lý đạo Phật lúc đang làm việc trong đời
sống của một nghệ sĩ. Bài ca Sợ hãi (Scared song) của Monk được
nảy sinh từ kinh nghiệm của cô trong khóa đào tạo Tịnh độ cấp II, học về
lo sợ và sự không lo sợ. Cái chết của Mieke van Hoek, một cộng sự của
Monk trong suốt 22 năm, và tình trạng sức khỏe suy yếu dần của người mẹ
98 tuổi của cô, cùng với những cảm giác về khả năng dễ bị tổn thương sau
khi bị ngã xuống từ trên lưng ngựa của cô, tất cả những điều đó đã đem
đến cho Monk - và một cách gián tiếp, những người xem phim - những bài
học về sự vô thường. Không phải ngẫu nhiên, điều ấy còn là chủ đề của
album mới nhất của Monk: Vô thường.
Sự cộng tác của Vanloo với Monk bắt đầu từ những năm đầu của thập
niên 1990, khi họ là những người hàng xóm của nhau tại một khu phố ở New York. Sau
khi BOS khởi sự, hai người đã tái lập mối liên hệ với nhau và đã ấp ủ ý
tưởng cộng tác trong một bộ phim. Ý định đằng sau phim Inner Voice
song hành cùng với ý định của Monk trong công việc của cô - cung cấp
“một sự trải nghiệm mới lạ” cho người xem.
Ở phút 80 của bộ phim, Monk nói rằng: “những bản nhạc của cô đã có
tính thiêng liêng hơn; bây giờ mục đích của cô là khai mở cho mọi người
để giúp họ sử dụng được tất cả những sự hoàn hảo của họ và có được một
biên độ cảm xúc khác lạ, để rồi họ có thể nhìn nhận mọi thứ theo một
cách khác”.
Giống như những bộ phim khác đã trình chiếu trên BOS, Inner Voice đem
lại điều mà Vanloo gọi là “một cách tiếp cận xuyên suốt đối với những
khủng hoảng mà chúng ta đang sống trong đó”. Vanloo giải thích: “BOS
đang nhìn vào một bức tranh lớn, không phải ở những triệu chứng, mà là
thật sự nhìn vào những căn nguyên của mọi vấn đề”. Và cô nói thêm: “Tôi
nghĩ điều đó rất giá trị đối với người xem”. Ở Hà Lan, người xem thường
tụ họp lại thành những nhóm để cùng xem kênh truyền hình Phật giáo.
Đấy chỉ là một cách diễn đạt khác về chủ đề ‘sự phụ thuộc lẫn nhau’
được chuyển tải xuyên suốt trên BOS, và như Đức Đạt lai Lạt ma thường
nói rằng: “Phật giáo không chỉ dành cho những người Phật tử”, Vanloo
nhấn mạnh: “Tất cả mọi người đều có thể được lợi lạc từ Phật giáo”.