Người
viết xin được mở đầu câu chuyện trong tuần kỳ này bằng câu thành ngữ
“Cáo mượn oai hùm” thường ngụ ý để chỉ cho những người ưa lòe bịp, hù
dọa mọi người bằng quyền uy của người khác để tự tung tự tác. Chuyện kể,
có một con hùm đói bụng đang tìm cách săn mồi thì gặp ngay một con cáo.
Cáo thấy nguy bèn nói: “Này anh hùm, anh đừng có ý định ăn thịt tôi.
Trời đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Anh mà ăn tôi là làm trái ý
của trời! Không tin, tôi đi đằng trước, anh đi đằng sau, thử hỏi có con
vật nào trông thấy tôi mà không sợ?”. Quả nhiên, khi cả hai cùng bước
đi, mọi vật nhìn thấy đều chạy tán loạn. Con cáo lấy uy của trời để lừa
hùm, rồi lại mượn hình ảnh của hùm để dương dương tự đắc với những loài
vật khác.
Trong kinh Trường Bộ thuộc tạng Pali cũng ghi lại câu chuyện
giữa Đức Phật và hiền giả Pàtikaputta về đề tài thú vị này. Đức Phật
nói: “Này Hiền giả Pàtikaputta, có con chó rừng già kiêu ngạo và mạnh
mẽ, thường sống bằng đồ ăn thừa của con sư tử, vua các loài thú. Con chó
rừng ấy suy nghĩ: “Ta là ai, và con sư tử - vua các loài thú là ai? Ta
hãy y cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt. Sau khi xây dựng sào
huyệt, vào buổi chiều ta sẽ ra khỏi sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi
nhìn khắp bốn phương và ba lần rống tiếng rống con sư tử. Sau khi rống
tiếng rống con sư tử, ta sẽ đi đến chỗ các thú qua lại, tìm giết những
con thú tốt đẹp nhất, ăn các loại thịt mềm mại, rồi lại trở về sào
huyệt”.
“Này Hiền giả, con chó rừng kia y cứ vào một khu rừng để xây dựng sào
huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và định ba lần rống
tiếng rống con sư tử. Nhưng nó chỉ kêu lên tiếng loại chó rừng, tiếng
sủa loại chó rừng. Ai có thể so sánh tiếng sủa con chó rừng ấy với tiếng
rống của con sư tử?”.
Cả hai câu chuyện trên đều nhắm đến chuyện ảo tưởng mình là chủ sở
hữu, mượn uy danh người khác để “làm giả ăn thật”. Người viết tạm dẫn ra
hai câu chuyện trên để đi thẳng vào vấn đề có thực, đang diễn ra trong
đời sống tín ngưỡng tôn giáo tại Việt Nam.
Trong những ngày gần đây, một số diễn đàn sinh hoạt Phật giáo bỗng
“nóng” lên bởi “Tuyên ngôn thuộc linh” của một nhóm Tin lành. Tuyên ngôn
này xuất hiện vào mùa Giáng sinh năm 2009 tại Sân vận động Quốc gia Mỹ
Đình, thủ đô Hà Nội, với sự chứng kiến của hàng chục ngàn người. Một
phần nội dung của “tuyên ngôn” đó như sau: “Dân tộc Việt Nam
chắc chắn thuộc về Đức Chúa Trời. Mọi xiềng xích tội lỗi và rủa sả của
các thế hệ trước đã bị tuyên bố cắt đứt, hình ảnh con rồng, tức con rắn
xưa là ma quỷ kể từ nay không còn tiếp tục được ảnh hưởng trên dân tộc
Việt Nam. Việt Nam thuộc về Đức Chúa Trời, từ nay dân tộc Việt Nam sẽ được phước, Hội thánh Việt Nam sẽ bước vào một cơn phấn hưng chưa từng có và trong một tinh thần hiệp một khắn khít trước mặt Đức Chúa Trời...”. Điều đáng nói, tuyên ngôn trên được viết bởi cơn phấn hưng “Nếu Phải Chết Thì Sẽ Chết!”.
Ảnh: Hoithanh.com
Ai cũng rõ một điều, đất nước nào cũng có người quản trị, có luật
pháp để duy trì sự công bằng. Văn hóa là phần hồn, là tinh anh, là nền
tảng cho mọi phát triển khác. Mọi giá trị tạo nên hình ảnh của một dân
tộc đều thấm đẫm mồ hôi, công sức, máu và nước mắt của biết bao thế hệ.
Văn minh đến từ khối óc sáng tạo và bàn tay lao động. Giá trị của lao
động chính là việc khẳng định lao động tạo ra giá trị, phẩm tính cho con
người của dân tộc ấy. Chẳng có kẻ nào ngồi không ăn sẵn mà được tôn
vinh, và không ai có thể dâng những thứ không thuộc, hay chưa thuộc về
mình cho người khác, trừ phi những người sống bằng thói quen của loài
cáo như câu chuyện kể trên.
Tôn giáo luôn khích lệ con người sống để hoàn thiện ứng xử cho bản
thân mình với cộng đồng và không hề chủ trương sự chia rẽ bạo tàn. Một
đất nước từng chịu nhiều cuộc chiến tranh xâm lược như Việt Nam luôn
luôn nhạy cảm với danh xưng phản bội Tổ quốc, triệt tiêu và hủy diệt văn
hóa, dù là vì ai và vì mục đích gì, dù có văn tự hay không có văn tự.
Bởi cái gì nô lệ thì thường hướng đến sự ngoại thuộc, và ngược lại cái
gì ngoại thuộc thì đem đến thái độ nô lệ, dù đó là nô lệ thế quyền hay
thần quyền. Cái đầu nô lệ trước rồi đến cánh tay, con mắt và cái chân,
vì vậy họ “muốn chết”, “quyết chết” cũng chỉ vì cái đầu đã đánh mất tự
chủ. Một người đánh mất tự chủ thì vong thân, nô lệ cho niềm tin mù
quáng. Một người đã trở thành nô lệ thì chẳng có tài sản gì khác để bán,
ngoài việc ‘bán mạng” hay phải bám vào một cơ thể khác để sống. Vậy
nên, giá trị mà họ tạo ra cho cộng đồng thấp hơn nhiều những ảo tưởng
đang ngự trong đầu óc của họ. Kiếm lời bằng vật chất thì họ không đủ
dũng mãnh như loài sư tử, nhưng dọn dẹp những thức ăn dư thừa mà loài sư
tử để lại thì họ có thế mạnh.
Quyết tâm cho một “mùa gặt” năng suất là việc làm chính đáng. Nhưng
“mùa gặt” chỉ tới khi trước đó người ta biết chăm chỉ gieo trồng và lao
động một cách chân chính. Đất chẳng bao giờ phụ người có công, nhưng
người lương thiện thì không bao giờ gặt trên cánh đồng mà mình không bỏ
sức ra gieo trồng hay bảo vệ. Thái độ ăn mót nhưng ngạo mạn như loài cáo
trong câu chuyện kia, nếu chẳng phải là sang chấn tâm lý của bản chất
yếu đuối nhưng ảo tưởng vĩ cuồng thì cũng là biểu hiện sự phi nghĩa núp
dưới đức tin tôn giáo.
Sự đổi thay trong nhận thức, tư tưởng của con người khi thì bình
lặng, khi thì ồn ào, đó là điều tự nhiên giữa những người theo đuổi niềm
tin tôn giáo, tư tưởng khác nhau. Tuy nhiên, trong quá trình cải đạo,
rất nhiều máu và nước mắt của con người đã đổ xuống mà vẫn chưa có bài
học nhân văn nào được rút ra. Hiện nay, thế giới vẫn xếp xung đột tôn
giáo, sắc tộc vào những xung đột hàng đầu, gây bất ổn lớn đối với loài
người. Thực tế hiển nhiên này khác xa với quan niệm tôn giáo là thánh
thiện, phần còn lại của thế giới thuộc về tội lỗi.
Ảnh: Hoithanh.com
Một mặt họ cho rằng mỗi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, mặt khác
họ lại tìm đủ mọi cách như dụ dỗ tiền bạc, hay dùng hôn nhân để cưỡng
bức, ép buộc để “cải đạo” người khác, thậm chí cuồng tín như “tuyên
ngôn” trên dù phải chết. Do đó, việc cải đạo thường gây nên những diễn
biến phức tạp trong đời sống xã hội.
Một niềm tin tôn giáo thuần khiết thì chẳng bao giờ ồn ào với những
ngôn ngữ đầy tính kích động, gây hấn thù hằn dân tộc như vậy cả. Truyền
thống Ki-tô giáo là sự khiêm cung và tìm đạo là một quá trình khổ luyện
để đạt đến tình thương vô bờ bến đối với tha nhân. Với “tuyên ngôn” kia,
người viết chỉ xem nó nhuốm màu sắc chính trị mà còn thể hiện một sự
lạc đường trong nhận thức, khi cả thế giới đang cổ vũ cho những giá trị
hòa hợp và hòa giải.
Mỗi người đều có quyền cổ xúy cho tư tưởng, niềm tin tôn giáo mà mình
đang theo, và việc mỗi người tự nguyện hướng đến một niềm tin chân
chính để tìm an vui thực sự cho chính mình và tha nhân cũng là điều đáng
tôn trọng, khuyến khích, giống như mỗi người thích ăn một vị khác nhau.
Nhưng mỗi khi đứng trước một lựa chọn và quyết tâm theo đuổi con đường
ấy, thật không dễ dàng gì để họ có ngay được sự bình an, vững chãi. Vì
thế, các cuộc cách mạng tư tưởng của nhân loại đều không gì khác hơn là
phô bày sự ưu việt trong cách lý giải, tiếp cận cuộc sống của mình, từ
đó xây dựng những nhân cách tôn giáo mà giá trị yêu thương, hòa giải
luôn đứng ở vị trí hàng đầu. Nói đến đạo đức Ki-tô là lòng bác ái, nói
đến đạo đức Phật giáo là tâm từ - bi - hỷ - xả. Nội chỉ theo đuổi với
những suy nghĩ, lời nói và hành động như vậy đối với một người theo tôn
giáo đã là điều không phải một sớm một chiều có thể thực hiện được.
“Tuyên ngôn thuộc linh” với nội dung trích dẫn trên, theo người viết,
đã vượt tầm so với nhận thức của một tín đồ bình thường, chỉ ra sự vọng
động cuồng si hơn là đạo đức của đức tin (theo nghĩa bình thường nhất
là tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác). Tôn trọng niềm tin tôn
giáo của người khác chính là tôn trọng mình. Ai đem sự tôn trọng đi thì
nhận lại sự tôn trọng. Đó là định luật nhân quả.
“Chiến thắng chính mình là chiến công oanh liệt nhất” là niềm tin của
người Phật tử, và nếu một ngày nào đó người ta không còn phải đau khổ
vì tranh đấu, gây oán chuốc hờn thì nhân gian chính là Tịnh độ. Đối với
người Phật tử, hợp đồng xã hội được hình thành trên cơ sở tinh thần
thượng tôn pháp luật, tôn trọng mọi khác biệt và hướng đến sự hài hòa.
Và điều tối thiểu mà một công dân bình thường phải hiểu là niềm tin tôn
giáo không thể đặt ngoài đạo đức xã hội, hay thuần phong mỹ tục của dân
tộc.
Người viết xin dừng lời bằng câu trả lời trên Tuần báo Le Point (Pháp)
của Đức Đạt lai Lạt ma về vấn đề cải đạo, hiện tượng không chỉ có ở
Việt Nam: “Như thế thật không hợp lý: thế giới phải ngày càng cởi mở
hơn. Quý vị thi hành việc cải đạo, đấy là một hình thức chiến tranh
chống lại các dân tộc khác và các nền văn hóa khác không giống với dân
tộc và văn hóa của quý vị. Như thế không đúng với thông điệp của Đức
Chúa Trời!”.
------------------
(*) Trang bìa của cuốn “Peoples of the Buddhist World: A Christian Prayer Guide" [Các dân tộc của thế giới Phật giáo: Một cẩm nang cho Người cầu kinh Thiên Chúa giáo]
do Paul Hattaway viết. Cuốn sách dày 416 trang ruột với trên 150 hình
màu tuyệt đẹp nầy là một công cụ truyền đạo của các nhóm Tin Lành trong
nỗ lực cải đạo người Á châu, đặc biệt người Á châu theo đạo Phật. (xem
thêm: Nguyễn Kha, http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-136_4-9178_5-50_6-1_17-25_14-2_15-2/)
Thích Thanh Thắng (GNO)
* Ý kiến về việc "Cải đạo"
Cải đạo là lẽ tự nhiên khi mà con người không tìm được lối đi trên
con đường tự thân họ. Riêng đối với những ai là Phật tử, nếu họ không
có khả năng tồn tại và phát triển trong một giáo lý Đại Hùng, Đại Lực,
Đại Từ Bi, thì họ đành phải bị đào thải, bị trôi dạt... lẽ tự nhiên
thôi. Rất cám ơn Tôn giáo nào đó đã cho họ một nơi tồn tại, có một nơi
cho họ vất những rác thải tâm hồn còn hơn là không! Nguyên Minh (dasinepavisakhaameu@yahoo.com.vn)
* Chính nghĩa sẽ chiến thắng
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tôi là Phật tử, tôi rất có lòng tin là chính nghĩa sẽ thắng.
Bài viết rất hay. Cảm ơn Thầy, mong Thầy sẽ tiếp tục hộ trì chánh pháp. (Tăng Quốc Thái, Quận Tân Phú, TP .HCM - benthemdao@gmail.com)
* Cải đạo phải xuất phát từ sự tự nguyện của cá nhân mới là tự nhiên
Chào đọc giả Nguyên Minh,
Vâng, cải
đạo là việc tự nhiên, nhưng nó chỉ tự nhiên khi việc cải đạo xuất phát
từ sự tự nguyện của mỗi cá nhân, khi bản thân người cải đạo cảm thấy
đạo mà mình đang theo không đem lại sự lợi ích cho họ, không hay hơn,
không tốt hơn so với đạo mà họ muốn chuyển đổi qua.
Đối với những
người cải đạo phần lớn đều bị ép buộc hoặc là bị dụ dỗ dưới nhiều
chiêu bài, nhiều hình thức khác nhau: Như là trong hôn nhận, người nam
hay người nữ thuộc đạo khác, muốn kết hôn với người theo đạo thì họ
phải cải đạo , phải đi học đạo. Nếu không thì đừng có mơ cưới được
người yêu của mình; Còn với trường hợp những người nghèo, người ở vùng
sâu vùng xa, họ cải đạo là phần lớn do họ không có đủ điều kiện kinh
tế, và nếu họ đến với chúa Jesus thì họ được bảo trợ tiền bạc, thế là
họ theo. Động cơ mà họ đến với đạo là tiền bạc chứ không phải là vì
kính ngưỡng đấy là sự thực.
Những trường hợp cải đạo như thế thì liệu có thể được xem là lẽ tự nhiên được không thưa bạn Nguyên Minh, thưa quý vị đọc giả? (Minh Phú hgminh@yahoo.com)
* Vì sao tôi theo đạo Phật
Chào các bạn,
Tôi quan niệm đơn giản mất đạo thì phong tục tập
quán,lối sống ,suy nghĩ cũng mất. Đạo Phật là đạo Trí Tuệ và Từ Bi (vì
Đạo Phật chưa từng đi ngược lại khoa hoc và làm cho thế giới xanh thêm).
Đạo Phật chưa bao giờ có hình thúc xâm lăng các tôn giáo khác,cũng
chưa bao giờ làm tổn hại văn hóa bản địa.Từ đó thì chúng ta có thể
so sánh với các tôn giáo khác .
Vì thế tôi đã từng gặp những con
người mang tôn giáo của người ta ra truyền đạt mà không cần biết tôi
theo tôn giáo nào. Quả là người ta nói rất hay để nhập đề, nhưng làm gì
đủ sức thuyết phục tôi.
Rồi có những người mác dù không nói trục tiếp nhưng qua
những cử chỉ và hành động nói lên rằng tôn giáo của họ là nhất và coi
thường các tôn giáo khác, tôi cũng có biết sơ về tôn giáo họ,về bản
chất tôn giáo họ, vì thể tôi không theo.
Tôi không tự cho tôi là biết rộng, biết sâu nhưng cũng nhận ra tôn giáo nào nên theo,tôn giáo nào không nên theo.
Tôi quan niệm sự thiếu hiểu biết sẽ mang lại một con
đường không tốt. Tôi rất tâm đắc với một câu nói tưởng chừng đơn giản :
"Nếu đạo nào cũng tốt thì thế giới chỉ cần có một đạo"vì vậy câu nói
Đạo nào cũng tốt chỉ là cách nói xã giao nên tránh.
Tôi ước muốn rằng mọi người hãy lấy trực giác và tri giác để nên theo cái gì chứ đừng trôi theo lẽ tự nhiên. (
Nguyên Thạch, thachnguyen832011@yahoo.com)
* Phật giáo nên làm gì trước công cuộc cải đạo của các Tôn giáo khác?
Tại sao đối tượng của công cuộc cải đạo chỉ chủ yếu là tín đồ Phật
giáo mà không phải là tín đồ của các tôn giáo khác? Hãy thử tưởng
tượng, điều gì sẽ xảy ra nếu họ cải đạo những tín đồ Hồi giáo?
Phải
nhìn nhận sự thật rằng Phật giáo được tổ chức manh mún, không nhất
quán. Ngay cả cái nghi lễ tụng kinh hằng ngày mà mấy chục năm nay Giáo
Hội cũng không thống nhất được. Tín đồ Phật giáo có thực sự hiểu được
nội dung nào của giáo lý đạo Phật hay không? Hay là họ chỉ theo đạo
Phật đơn giản vì nó là đạo của ông bà?
Đừng tưởng rằng người nào thắp nhang cũng là Phật tử và theo tinh
thần đó, đừng nghĩ rằng một người đang thắp nhang, tự nhiên không thắp
nhang nữa mà chuyển sang đạo khác. Một người không hiểu giáo lý, phép
tu của một tôn giáo thì không biết có nên được gọi là tín đồ của tôn
giáo đó không?
Những Phật tử đã hiểu được giáo lý căn bản của
Phật giáo thì không dễ gì bị cải đạo. Vì vậy thiết nghĩ nhiệm vụ của
Giáo Hội là phải hệ thống hóa lại giáo lý, tổ chức lại Giáo Hội cho
chặt chẽ, hướng dẫn cho mọi Phật tử hiểu được những nội dung tối thiểu
của Phật giáo. Cây đã có gốc rễ bền vững thì lo sợ gì gió lay.
Dẫu
biết rằng điều này là khó, nhưng không phải không làm được. Hơn nữa
thực hiện việc này cũng là hành Bồ-tát đạo kia mà. Mọi giáo lý Từ Bi,
bình đẳng của đạo Phật đều được ghi rành trong kinh điểnt, đâu có
cầnchư Tăng phải nắn Kinh, sửa chữ như một số đạo khác đâu.
Không
cần Chư Tăng Ni phải đến từng nhà, gặp từng người để thuyết phục họ
theo vào đạo Phật. Chỉ cần các thầy trang bị giáo lý vững chắc cho các
Phật tử hiện tại thì đạo Phật chẳng những không hề lo sợ bị cải đạo mà
càng ngày càng lan tỏa khắp nơi. "Hữu xạ tự nhiên hương" mà.
Vài dòng ý kiến của một kẻ lỗi lầm. Nếu có gì sai sót, mong bạn đọc và Chư tôn đức Tăng Ni hoan hỉ bỏ qua. (Như Đức, Nevada, USA - ddnhan@hcmuarc.edu.vn)