Vừa qua, báo Giác Ngộ
nguyệt san có bài của tác giả Quảng Pháp nêu vấn đề chuẩn hoá Phật tử VN
bằng cách mở các lớp học, có kiểm tra, sát hạch, từ đó cấp giấy chứng
nhận. Một số độc giả có ý kiến hưởng ứng, một số khác lại cho rằng điều
này khó mà khả thi. Lý do, đa số Phật tử đều lớn tuổi, nghèo, nếu không
học nổi thì không lẽ họ chẳng được gọi là Phật tử? Nhân đây, chúng tôi
cũng xin góp vài ý mọn hầu làm sáng tỏ vấn đề hơn nữa.
I- VỀ TÊN GỌI PHẬT TỬ:
Chúng tôi cùng quan
điểm như tác giả Quảng Pháp, nghĩa là ai đến chùa quy y đều được trụ trì
cấp phái quy y như từ trước đến nay, không có gì thay đổi. Và dĩ nhiên,
chúng ta vẫn gọi họ là Phật tử, bởi tất cả đều là “con Phật” chứ không
lẽ quy y rồi lại là “con của ai”?
Tuy nhiên, tờ phái này
giống như giấy “chứng minh nhân dân” của mỗi người, khẳng định anh là
công dân nước Việt Nam đấy, nhưng công dân được đào tạo đến mức nào thì
phải cần thêm những tấm bằng tốt nghiệp tiểu học, trung học, hoặc đại
học... Giấy chứng nhận sau mỗi khoá học, khoá thi giáo lý tương tự những
tấm bằng tốt nghiệp này, chứng minh nỗ lực tu học của anh. Nếu không có
những tấm bằng đó, thì làm sao đánh giá được chất lượng giáo dục mà
công dân đã thụ hưởng. Dĩ nhiên, có những người không học, không bằng
cấp mà trình độ vẫn cao, nhưng ở đây chúng ta đang đề cập tới vấn đề
chuẩn hoá đại trà, quy hoạch trên diện rộng, thì không thể không xét
trên cơ sở bằng cấp. Giáo dục thế gian hay giáo dục Phật giáo đều phải
có tiêu chí đánh giá chuẩn mực như thế. Vậy, ngoài tờ phái quy y, mỗi
Phật tử nên học hỏi Phật pháp để có giấy chứng nhận căn bản hoặc thuần
thành cấp 1, cấp 2, cấp 3... chứ không thể chấp nhận một người tự xưng
là “con của Phật” mà lại không biết cha mình tên gì, dòng dõi xuất thân
ra sao, cha dạy những gì ... Giống như khó thể chấp nhận một công dân VN
mà mù chữ giữa thế kỷ 21. Nhà nước đã xoá mù, thậm chí phổ cập tiểu học
từ lâu, lẽ nào chúng ta không xoá mù Phật pháp được, không phổ cập Phật
pháp căn bản cho tín đồ? Tất nhiên vẫn sót lại một số ít công dân còn
mù chữ, nhưng trên đại thể chúng ta đã nâng cao dân trí. PG cũng thử
tiến hành phổ cập như thế xem sao. II- VỀ TÍNH KHẢ THI:
Chúng tôi phát biểu
với tư cách những người từng lăn lộn ở nhiều vùng nông thôn, vùng sâu
vùng xa như Mỏ Cày, Chợ Lách, Bình Minh, Tam Nông, Thanh Bình, Lấp Vò,
Lai Vung, Hồng Ngự... và đã tự tổ chức lớp học cho hàng nghìn Phật tử
nơi đó, đạt kết quả rất tốt. Như vậy, chúng tôi xin được khẳng định để
quý vị yên tâm là công tác chuẩn hoá Phật tử hoàn toàn khả thi. Những lý
do quý vị nêu ra chúng tôi đều đã gặp, nay kính xin đưa ra những hướng
giải quyết như sau:
1- Tách riêng các lớp
Phật tử lớn tuổi và trẻ tuổi:
Quả thật đa số tín đồ
PG đến chùa là những người già, không còn khả năng học tập bao nhiêu. Họ
lo tụng kinh, niệm Phật là đã may lắm rồi, đòi hỏi sự học nữa e rằng
“không tưởng”. Rõ ràng, họ là hệ quả của một thời chiến tranh, đời sống
khó khăn, giáo dục thiếu thốn, chúng ta thông cảm và đành phải chấp
nhận, chỉ nên chăm lo cho họ về sự tu mà thôi, để họ vãng sanh Cực Lạc.
Hầu hết các đạo tràng Bát Quan Trai, niệm Phật được mở ra là vì thế. Như
vậy, chúng ta không hề “bỏ” họ. Nhưng cũng không vì họ mà bỏ luôn thế
hệ Phật tử trẻ hơn. Bởi lớp trẻ lại không chấp nhận ngồi yên một chỗ
tụng kinh như mấy cụ già, mà họ có khao khát tìm hiểu Phật pháp, khao
khát học tập, từ cái hiểu mới đưa đến lòng tin, mới thực sự gia nhập PG.
Nghĩa là, phải tách lớp Phật tử lớn tuổi ra thành một đạo tràng khác,
còn với Phật tử trẻ khoảng từ 40- 30- 20 tuổi, thậm chí 8, 9 tuổi, thì
phải mở các lớp nâng cao kiến thức cho họ, soạn giáo trình thích hợp.
Nếu không, chúng ta sẽ mãi mãi thấy tín đồ của mình già nua, còn người
trẻ thì “biến mất”.
2- Nghèo vẫn học được:
Những nơi chúng tôi
từng qua, không nơi nào lại không nghèo. Dân chúng lo sinh kế đầu tắt
mặt tối, dĩ nhiên khó mà học tập. Nhưng một biện pháp tháo gỡ dễ dàng là
chúng tôi luôn dành những phần thưởng vật chất cho họ. Tại sao các vị
trụ trì và Giáo hội có thể đi cứu trợ liên tục với số tiền hàng năm lên
tới hàng chục tỷ đồng, hoặc xây dựng chùa chiền hoành tráng, mà không hề
có kinh phí nào cho công tác hoằng pháp? HT. Trí Quảng cũng đã nhắc nhở
vấn đề này rất nhiều lần trong các bài viết trên báo Giác Ngộ và trong
các băng giảng. Nhẹ nhàng lắm, đơn giản lắm, chỉ cần mỗi lần kiểm tra
bài, chúng tôi tặng cho Phật tử một ký đường, một hộp sữa, vài cuốn tập,
hộp bút màu cho con họ đi học, là họ vui mừng phấn khởi. Thi cuối khoá,
chúng tôi tặng cả áo dài trắng, hoặc cặp da, đỡ gánh nặng lo toan mỗi
lần tựu trường, cả làng cả xóm đều khuyến khích cháu con trau dồi Phật
pháp. Chúng ta tài thí song song với pháp thí, thì hiệu quả rất tốt, vừa
là từ thiện giúp họ đỡ khổ, vừa là khuyến học, bồi dưỡng trí tuệ. Trọn
vẹn cả hai.
3- Tiêu chuẩn cao hay
thấp:
Trong bài của tác giả
Quảng Pháp, những tiêu chuẩn đưa ra không hề cao. Thí dụ, với Phật tử
căn bản chỉ cần biết Quy y, Tam bảo, Ngũ giới, vài nét về Lịch sử Đức
Phật, về các vị Hoà thượng... thì họ có khả năng nắm được. Vấn đề là
cách soạn thảo giáo trình sao cho phù hợp. Chẳng hạn, với mức học này
thì bài Tam Bảo chỉ nên nói về Thế gian trụ trì Tam bảo, chứ không nên
đề cập Xuất thế gian trụ trì hoặc Đồng thể Tam bảo chi cho rối. Khoá sau
học tiếp bài Tam bảo, thì mới đào sâu thêm những phần còn lại, để nâng
thành Phật tử thuần thành. Hoặc định nghĩa chữ “Đạo”, đừng nói “bản thể
chân như” gì hết, họ không hiểu nổi. Chúng ta chưa biết cách soạn bài
cho người học vỡ lòng, cứ bê nguyên xi bài trong bộ Phật học phổ thông
vốn là một bộ sách rất hay nhưng chỉ thực sự dành cho người có trình độ
kha khá. Hoặc giảng sư dùng quá nhiều từ Hán Việt, đọc quá nhiều bài kệ
chữ Hán, Phật tử chịu thua. Cần soạn bài với ngôn ngữ giản dị, trong
sáng, cập nhật đời sống.
Khi Phật tử đã qua
khoá căn bản rồi, thì tự nhiên trình độ của họ nâng cao, sẽ theo tiếp
những bài khó hơn. Chúng tôi từng cho lớp trẻ học đến các khái niệm Tứ
Thánh Đế, Bát chánh đạo, các em tiếp thu rất tốt. Nói chung, lớp trẻ
hoàn toàn có khả năng học tập, nếu không, làm sao họ hưởng ứng cuộc thi
giáo lý do Ban Hoằng pháp trung ương tổ chức hai năm qua. Đề thi tương
đối cao, mà họ vẫn làm được. Chúng ta phải có lòng tin nơi lớp trẻ.
Tuy
nhiên, ở đây xin mạn phép nói thêm một ý, có thể thẳng thắn nhưng xin
đừng tránh né. Sự thật là có một số đạo tràng thường ngày không mở lớp
học nhưng khi cuộc thi giáo lý của Trung ương tổ chức thì mới cuống quít
ôn luyện cho thí sinh như luyện “gà nòi”. Thầy sưu tầm những bài trắc
nghiệm của các nơi, đem về dạy học trò mình đánh dấu vào. Dĩ nhiên, cũng
có khi thầy giảng giải đôi chút, nhưng đại thể thí sinh vẫn học thuộc
câu trả lời dù còn mù mờ chưa hiểu rõ lắm. Chủ yếu học cho nhanh để kịp
ngày thi cho có phong trào với bè bạn. Tinh thần hưởng ứng đó cũng đáng
hoan nghênh, nhưng đấy không phải là phương pháp giáo dục chuẩn mực. Bởi
Phật tử không được học một cách có hệ thống, có căn bản từ thấp lên
cao, có khi mới biết tam quy, ngũ giới, mà lại nhảy đùng sang một câu
thuộc bài Tứ Thánh Đế vô cùng phức tạp. Cách học ấy có thể “chữa cháy”
để tham gia cuộc thi giáo lý cho xôm tụ, nhưng xét về lâu về dài thì tạo
ra nhiều lổ hổng kiến thức, chạy theo hình thức hơn là chất lượng.
Chúng ta thường làm theo kiểu phong trào, bình thường không hề vận động,
tổ chức cho có lớp lang, chuẩn mực, có nền tảng lâu dài, tới hồi cần
phát động thì ào ào chạy đi “luyện thi”, học hành gấp rút. Qua đợt thi,
lại im ắng như cũ. Thiết nghĩ, Giáo hội cần bắt tay vào soạn bộ giáo
trình chuẩn, và áp dụng vào tất cả các địa phương. Như vậy, Phật tử được
học đều đặn, được sát hạch hàng năm để cấp giấy chứng nhận trình độ,
lúc nào cũng có không khí tu học, chất lượng nâng cao.
Tóm
lại, chúng tôi đã thử chọn những nơi khó khăn nhất để hoằng pháp, và
cũng đã chứng minh được một điều rằng Phật tử hoàn toàn có khả năng học
tập, rất ham học tập, chỉ tại chúng ta chưa có một phương thức tổ chức
sao cho phù hợp, sao cho khoa học, tiến bộ. Chúng ta vẫn nhìn những mặt
hạn chế của con người, của địa phương, mà chưa dám thử nghiệm để tìm đáp
án mới nhất. Dám thử, thì “năm ăn, năm thua”, nhưng vẫn có hy vọng
thành công. Còn không thử, thì coi như thất bại hoàn toàn, đầu hàng hoàn
toàn. Không lẽ đến thế kỷ 21 mà chúng ta không “xoá mù Phật pháp” được
cho đồng bào của mình? |