Sự tích Bia Bà
Bia Bà nằm trong quần thể di tích văn hóa La Khê, Hà Đông, Hà Nội. Hôm
tôi đến là một ngày cuối tháng Năm âm lịch. Từ cổng vào có gần chục
chiếc lán gắn biển "viết sớ thuê" và hầu như lán nào cũng có người đang
thuê viết.
Bia Bà nằm bên phải sân đình La Khê, mới được xây dựng khang trang đang
nghi ngút khói hương, người người sì sụp khấn vái. Mấy bà khấn thuê khấn
rõ lên thành tiếng để chủ nhà còn... soát lỗi. Có người từ bên Bắc
Ninh, Vĩnh Phúc cũng sang cầu xin Thánh Bà phù hộ chuyện làm ăn buôn
bán, xin cho con thi cử đỗ đạt, xin được làm nhà...
Ông Nguyễn Đức Thụ, thành viên Ban Quản lý di tích giải thích về Bia Bà.
Theo đó, "Bà" ở đây chính là Đức Thánh Bà Trần Thị Hiền. Bà sinh năm
1511, là con gái đại thần triều Lê - Quận công Trần Trân, người trong
làng. Bà được trời phú cho tư chất thông minh, lại nết na thùy mị và có
nhan sắc hơn người nên được nhiều gia đình danh giá đương thời muốn đón
về làm dâu. Năm 1527, đời Mạc Thái Tổ, nhà vua chọn Bà làm Phi tử cho
Thái tử Mạc Đăng Doanh. Năm 1530, Thái tử lên nối ngôi, Bà được phong
làm Đệ nhị cung.
Khi vào cung, Bà hết lòng phò vua giúp nước. Năm 1538, xảy ra thảm cảnh
Mạc - Lê phân tranh, Bà quyết định rời nơi điện ngọc nguy nga về sống
tại quê nhà. Bà mất khi 27 tuổi. Tiếc thương người vợ nết na, hiền thục
nên sau khi làm lễ an táng xong, nhà vua cho người làm bia ghi lại công
tích của bà.
Cũng theo ông Thụ, trước đây, Bia Bà nằm ngoài cánh đồng Vang và đã có
hai lần bia bị đổ. Lần đầu vào năm 1913, lần sau là vào khoảng đầu những
năm 80 của thế kỷ XX. Sau, bia được đưa về để ở sân đình làng La Khê.
Từ đó khách thập phương đến chiêm bái mỗi ngày một đông. Thể theo nguyện
vọng của nhân dân, Ban quản lý di tích La Khê đã tiến hành dựng nhà để
bia ở ngay trong khuôn viên của đình.
|
Đền thờ Đức Thánh Bà - nơi đặt Bia Bà. |
Vào ngủ là nhà gianh, tỉnh dậy là… bệ gạch
Bà Xuân năm nay 60 tuổi, là người gốc làng La Khê. Bà làm nghề cúng thuê
ở Bia Bà từ mấy năm nay. Bà Xuân nhớ lại: "Hồi trước, Bia Bà nằm trên
một gò đất ngoài cánh đồng, chỉ là một cái bệ đặt tấm bia và có bát
hương, xung quanh cây cối rậm rạp. Mặc dù vậy, người trong vùng vẫn đến
lễ lạt nên chẳng mấy khi bát hương ở đó lạnh ngắt".
Đến bây giờ, người La Khê vẫn truyền tụng nhau những câu chuyện về sự
linh thiêng của Bia Bà. Theo bà Xuân thì chuyện rằng, một đêm nọ có anh
bộ đội bị lạc đơn vị. Khi đi ngang qua cánh đồng Vang, anh gặp một bà
cụ. Bà bảo: "Nếu con đi tiếp thì sẽ gặp cướp. Thế nên, con hãy vào trong
nhà mẹ mà ngủ. Sáng mai nhớ phải đi về hướng Đông". Nhìn theo hướng chỉ
tay của bà cụ, anh ta thấy đó là một ngôi nhà gianh giữa cánh đồng.
Nhưng sáng hôm sau tỉnh dậy, anh giật mình khi thấy mình ngủ trên cái bệ
gạch. Nhớ lời bà cụ, anh lại đi theo hướng Đông thì gặp ngay được đơn
vị.
Rồi có dạo, người La Khê thấy một bà cụ tóc bạc phơ, cắp nón mê đi ăn
xin. Hôm ấy, có người đàn bà đi làm đồng ngang qua khu Bia Bà, thấy bà
già ăn xin nằm co ro vì đói, người này thương tình liền nhường lại suất
ăn của mình. Vừa lúc ấy có cơn lốc mạnh thổi đến, trong tích tắc bà già
ăn xin biến mất. "Sau, nghe đâu nhà người đàn bà kia ăn nên làm ra, giàu
có lắm. Người ta tin rằng, bà già ăn xin chính là Thánh Bà hiển linh để
thử lòng người", bà Xuân cho hay.
Mặc dù khẳng định "Thánh Bà chỉ giúp người chứ chẳng ai hại bao giờ"
song bà Xuân vẫn không thể tin được lại có một sự trùng hợp ngẫu nhiên
như thế. Chuyện là, ngày Bia Bà còn ở ngoài cánh đồng, số người đến lễ
lạt ngày một đông khiến cho tình hình an ninh rất phức tạp. Người ta đã
nghĩ đến việc phá bia. "Thế nhưng, chẳng hiểu sao, hôm đội phá bia đến
thì rắn mào từ đâu chui ra nhiều vô kể. Họ sợ quá nên không dám vào phá
bia nữa. Sau này, chính cái ông ra quyết định phá bia bị mất chức, ốm
thập tử nhất sinh".
Những câu chuyện mà bà Xuân kể lại chẳng biết có bao nhiêu phần trăm sự
thực trong đó song rõ ràng nó càng khiến cho người ta tin rằng, Bia Bà
thật sự linh thiêng. Người ta đổ xô về cầu khấn, mong sự linh ứng sẽ đến
với mình.
|
Cổng vào khu di tích La Khê. |
Xin… trúng số
Bà Triển có lẽ là người làm nghề cúng thuê lâu năm nhất trong đội cúng
thuê ở Bia Bà. Bấm đốt ngón tay, bà nhẩm tính "vậy là đã được 17 năm
rồi". Đã có hàng nghìn lượt người, ở khắp trong Nam ngoài Bắc đến nhờ bà
làm lễ khấn hộ. "Người ta xin nhiều thứ lắm. Nào là xin bình an, may
mắn, cầu tài cầu lộc, thăng quan tiến chức, thi cử đỗ đạt, mua nhà rồi
lại bán được nhà, trúng hợp đồng làm ăn... Chủ yếu vẫn là cầu xin trong
việc làm ăn. Cũng có rất nhiều người trong số đó quay lại làm lễ tạ khi
được Thánh Bà linh ứng", bà xác nhận.
Tôi hỏi bà Triển về tích của cái sự "chủ yếu vẫn là cầu xin trong việc
làm ăn", bà lắc đầu. Đem câu chuyện hỏi ông Nguyễn Đức Thụ, thành viên
Ban Quản lý di tích, ông kể: "Dịp xây đền thờ Thánh Bà, trong đó đặt tấm
Bia Bà đã có rất nhiều người về phát tâm công đức. Phần lớn trong số họ
là những người đã ăn nên làm ra, chủ các doanh nghiệp, cửa hàng buôn
bán... Họ cho rằng đã được ăn lộc của Thánh Bà nên mới có được như ngày
hôm nay. Vậy nên, hàng năm họ vẫn quay trở lại để công đức, coi như một
sự báo đáp ơn huệ của Thánh Bà".
Để minh chứng cho lời nói của mình, ông Thụ thuật lại một câu chuyện mà
ông được chính người trong cuộc kể. Tuy nhiên, vì lý do tế nhị nên ông
Thụ không nêu tên cụ thể. Chỉ biết rằng, đó là chủ một doanh nghiệp
rượu, bia lớn ở Hà Nội. "Cách đây chừng hơn 30 năm, ông ấy còn nghèo
lắm, đến nỗi có người yêu rồi mà không dám cưới vì không có tiền. Nghe
tiếng Bia Bà từ lâu, ông liền rủ người yêu sang cầu khấn, xin được...
trúng xổ số. Thật tình cờ, về Hà Nội, ông ấy được một cháu bé mời mua
giùm hơn chục tờ vé số vào cuối buổi. Chẳng dám tin vào sự màu nhiệm của
lời khấn ở Bia Bà, ông cũng chẳng thiết xem kết quả. Mấy hôm sau, nghĩ
thế nào ông ta mới giở đống vé số ra xem thì không ngờ trúng thật, được
hơn một cây vàng, vừa có tiền cưới vợ, vừa có tiền làm ăn. Sau đó, năm
nào ông cũng về công đức ở Bia Bà", ông Thụ cho hay.
"Có thể câu chuyện kia chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, song cứ một
đồn mười như thế khiến cho Bia Bà trở nên linh thiêng, được giới làm ăn
tìm đến nhiều hơn", ông Thụ phỏng đoán.