Muốn
hiểu Phật tử Tây Tạng có thái độ thế nào đối với Thiên Chúa Giáo, trước tiên
chúng ta cần biết danh từ “tôn giáo” đối với họ có nghĩa gì? Danh từ Tây
Tạng sát nhất với nghĩa tôn giáo (hay Ðạo) là “Cho”, tiếng Phạn là “Dharma”.
Nó có nghĩa là một định luật về tâm linh, vũ trụ hay nguyên lý chi phối hết
thảy các Pháp. Sống phù hợp với định luật này là ước vọng cao cả nhất của
con người và chính đó cũng là những phương tiện giúp con người đạt đến cảnh
giới đạo đức và toàn thiện.
Cho nên, theo dân tộc Tây Tạng, tôn giáo
không phải chỉ là hệ thống giáo điều cố định mà là một biểu lộ tự nhiên niềm
tin trong ý định muốn đạt đến một cuộc sống cao cả của con người hoặc tự cứu
mình thoát khỏi bức thành vô minh và bản ngã vị kỷ để thể nhập được chân lý
vũ trụ qua sự giác ngộ của tâm linh. Có bao nhiêu hạng người thì có bấy
nhiêu con đường và pháp môn. Bởi vậy người Tây Tạng không xem hiện tượng đa
giáo như một tai họa hoặc là lý do để con người tranh chấp, thù hận nhau và
họ cho đó như điều kiện tất nhiên và cần thiết cho sự tiến bộ tinh thần của
nhân loại.
Người Tây Tạng vốn có tinh thần tôn trọng cá
nhân khá cao, cho nên họ sẵn sàng chấp nhận và tôn kính hết thảy mọi hình
thức tín ngưỡng và tôn giáo. Do đó, ở Tây Tạng, Phật Giáo cũng như Thiên
Chúa Giáo đều có rất nhiều giáo phái. Tuy nhiên, giữa các giáo phái này
không bao giờ có sự tranh chấp hay thù ghét nhau. Họ sống hòa bình bên nhau
và luôn biết tôn trọng giá trị tôn giáo lẫn nhau. Người theo đạo này không
bao giờ hủy báng kẻ theo đạo kia. Tinh thần tôn trọng tín ngưỡng cá nhân ấy
đã được thể hiện qua câu ca dao Tây Tạng sau đây:
“Lung-pa ré-ré ka-lug ré
Lama ré-ré cho-lug ré”
“Vùng nào có tiếng nói vùng đó.
Lạt-ma nào có giáo lý nấy”.
Cho nên với tập tục này, mọi người ai cũng có
quyền chấp nhận hay chối bỏ cùng thực hành và công khai bày tỏ ý kiến đối
với tôn giáo họ theo. Người ta thường tổ chức những cuộc thảo luận về tôn
giáo và ý kiến của quần chúng đưa ra trong những buổi hội thảo đó thảy đều
được mọi người tôn trọng. Phần lớn những buổi thảo luận công cộng này thường
được sự khuyến khích, giúp đỡ đặc biệt của các tu viện Ðại Học Phật Giáo như
Ganden, Drepung và Sera. Người Tây Tạng cũng không quá ngây thơ tin rằng
chân lý đạo giáo có thể biểu hiện bằng những lý thuyết hay sự tranh luận.
Các nhà sư Tây Tạng vẫn thường xác nhận rằng chân lý tuyệt đối không thể nào
diễn đạt bằng ngôn từ, văn tự mà nó chỉ có thể hiện bày ở nội tâm do sự tu
chứng của chúng ta. Cho nên điều quan trọng không phải ở nơi giáo lý chúng
ta tin tưởng mà là ở chỗ chúng ta kinh nghiệm, thực hành giáo lý đó cùng
những kết quả nó đem lại cho chúng ta và mọi người xung quanh. Bất cứ tôn
giáo nào hướng dẫn chúng ta đến cảnh giới an lành và giải thoát khổ đau đều
là những đạo lý chân chính.
Ở Tây Tạng, dân chúng quý trọng nhà sư hơn
ông vua, những người xa lìa được mọi vật dục thế gian hơn những kẻ giàu
sang, và ai dám hy sinh mạng sống chính mình để cứu giúp chúng sanh hơn kẻ
thống trị toàn thế giới. Cho nên, ngày nay những câu chuyện tiền thân và
gương hy sinh của đức Phật thường được mọi người nhắc kể lại trong những
buổi lửa trại, các ngày lễ tôn giáo hoặc trong gia đình, các tu viện cũng
như giữa những nơi đô thị đông người. Và các câu chuyện này bao giờ cũng gây
được nhiều xúc cảm cho người nghe, ngay cả từ anh chàng chăn lừa cộc cằn
nhất đến tên gian manh đại bịp ở thành phố. Bởi lẽ chúng không phải chỉ là
những mẫu chuyện hoang đường xa xăm, mà là những hình ảnh phản chiếu chân
thật cuộc sống của bao nhiêu Thánh Tăng Tây Tạng ở quá khứ cũng như hiện tại.
Do đó, chúng ta dễ dàng hiểu tại sao câu
chuyện Chúa Giê-Su chịu đóng đinh trên thập tự giá để chuộc tội cho loài
người vẫn gây được nhiều cảm xúc sâu xa đối với mọi người thường dân Tây
Tạng. Tuy vậy, nhưng ví phỏng có ai bảo rằng: “Các anh nên bỏ,
đừng theo các vị Thánh Tăng, Lạt Ma nữa mà chỉ nên thờ đức Chúa không thôi”
thì họ sẽ không khỏi ngạc nhiên và bực tức trước câu nói như thế. Bởi lẽ
theo họ, chân lý bao hàm duy nhất mà xưa nay những vị giáo chủ, Thánh hiền
của nhiều dân tộc đã chỉ bày: đó là bức thông điệp của lòng bác ái, từ bi
cùng sự nhận thức về cái bản thể chân như, vượt ngoài ngôn từ và định nghĩa,
mà Thiên Chúa giáo gọi là Thượng Đế (God), Ấn Ðộ Giáo là Phạm Thiên
(Brahman) và Phật Giáo là Toàn Giác.
Nếu Thiên Chúa giáo không chiếm được địa vị
độc tôn ở Tây Tạng mặc dù dân chúng đã dành nhiều cảm tình tiếp đón đối với
các giáo sĩ đầu tiên đến đây, hẵn có nhiều lý do. Lý do chính không phải vì
quần chúng không chấp nhận đức Chúa Giê-Su (Christ) hoặc giáo lý căn bản của
Ngài nhưng vì họ nhận thấy những lời dạy của đức Chúa không có gì cao siêu
vượt hơn giáo lý của đức Phật, mà từ lâu các vị Thánh Tăng và Lạt Ma đã thực
hành ở Tây Tạng nhiều hơn bất cứ nơi nào tại Âu Châu. Lý do thứ hai vì các
giáo sĩ Thiên Chúa trong khi cố gắng giảng truyền giáo lý của Chúa Giê-Su
tại Tây Tạng, họ lại chối bỏ không chấp nhận những lời dạy cao siêu của đức
Phật và những vị Bồ Tát sống ở xứ này cũng như vốn bởi họ sẵn có nhiều thành
kiến tôn giáo và hành động cố chấp vào những giáo điều khác với giáo lý bác
ái bao dung của đức Chúa.
Và tưởng không có gì trình bày cụ thể hơn về
thái độ của dân chúng Tây Tạng đối với Thiên Chúa giáo bằng đoạn lịch sử ghi
chép sau đây:
Vào năm 1625, Padre Antonio de Andrade, vị
giáo sĩ Thiên Chúa đầu tiên đến Tây Tạng, đã được vua Guge tiếp đón nồng
nhiệt tại Tsaparang (miền tây Tây Tạng). Với tinh thần quảng đại của Phật
Giáo, ông đã được nhà vua hết sức trọng nể và cho phép lưu lại để truyền
giáo. Vì nhà vua nghĩ, một người đã nguyện đi khắp thế giới để truyền bá cái
đạo lý mà họ đang theo, thì giáo lý ấy chắc là có lắm điều đáng nghe và sứ
giả đó cũng nên đáng được kính trọng.
Nhà vua cũng tự tin rằng chân lý không bao
giờ có thể phá hoại chân lý và bất cứ lời dạy chân chính nào ở tôn giáo
ngoại lai cũng chỉ đem lại sự tốt đẹp, phát triển thêm cho giáo lý của các
Thánh Tăng, chư Phật và Bồ Tát ở Tây Tạng mà thôi. Ðể bày tỏ thiện cảm của
mình vua Guge đã viết một bức thư gởi cho giáo sĩ Antonio de Andrade vào năm
1625, có đoạn như sau: “Chúng tôi rất vui mừng về việc Linh mục Padre
Antonio đến xứ sở chúng tôi để truyền đạo. Chúng tôi xem ông như vị Lạt Ma
và cho phép ông đủ quyền truyền dạy giáo lý cho dân tộc chúng tôi. Chúng tôi
đã ban hành sắc luật cấm chỉ không ai được phép ngăn cản, áp bức ông trong
công việc này và chúng tôi sẽ ra lệnh cấp cho ông một khu đất cùng mọi vật
dụng cần thiết để ông xây cất một ngôi nhà giảng”.
Nhà vua còn tặng cho vị tu sĩ Thiên Chúa trên
ngay cả khu vườn riêng của ông, trong khi ở Tây Tạng, những khu vườn như thế
rất hiếm và đắc tiền. Nhưng tiếc thay là với những thiện chí sẵn có, nhà vua
không ngờ rằng nhà truyền giáo xa lạ kia đến không phải chỉ để trao đổi mọi
tư tưởng tốt đẹp và chân thật với những ai đang cùng cố gắng để đạt dến
những lý tưởng chung cao quý, mà cốt mong huỷ diệt những giáo lý đức Phật và
để thay chúng bằng một tôn giáo khác được họ xem như là chân lý độc nhất.
Vì thế, cuộc tranh chấp đã xảy ra, nỗi bất
bình của dân chúng mỗi ngày một lan rộng khắp trong nước và sau cùng, những
nhà đối lập chính trị với nhà vua đã nổi lên chống lại ông ta. Vào lúc đó,
Linh mục Padre Andrade được khích lệ bởi những kết quả truyền giáo tại
Tsaparang, ông ta liền tiếp tục đến Lhasa để mong mở rộng phạm vi giảng đạo
khắp vùng Tây Tạng. Cuối cùng, vì căm tức, dân chúng miền tây Tây Tạng đã
nổi loạn, nhà vua bị đả đảo, kéo theo sự sụp đổ của triều đại Guge với sự
hưng thịnh của miền Tsaparang.
Khoảng một thế kỷ sau, vào năm 1716, nhà
truyền giáo Jesuit Padre Desideri đến vùng Lhasa, ông vẫn được dân chúng
cung cấp cho một gian nhà tiện nghi, với mọi nhu cầu cần thiết. Ông được nhà
cầm quyền tiếp đón như một người khách quý và cũng cho phép ông có quyền
phát triển tôn giáo bằng phương tiện giảng dạy hoặc viết sách để phổ biến.
Thật vậy, trong một cuốn sách biện bác một vài điểm giáo lý của đức Phật,
giáo sĩ Desideri đã ghi nhận sự kiện sau đây: “Nhà tôi ngẫu nhiên trở
thành nơi lui tới thường xuyên của mọi hạng người, đặc biệt là hàng trí thức
và giáo sư ở các chùa cũng như các trường đại học Phật giáo; nhất là tại
những trường đại học quan trọng ở vùng Sera và Drepung, nhiều người đã mong
ước được chúng tôi cho họ đọc các sách đạo”.
Qua những điều trên, chúng ta thấy rằng cùng
thời ấy, Tây Tạng thật ra đã văn minh hơn các nước Châu Âu, nơi mà lúc bấy
giờ, các tôn giáo ngoại đạo cùng với những kinh sách của họ đều bị ngược đãi
hay đốt phá. Và ai cũng có thể tưởng tượng thấy trước được điều gì sẽ xảy ra
đối với bất cứ nhà truyền giáo ngoại quốc nào đến La Mã mà dám phản đối công
khai những giáo điều của Thiên Chúa.
Cho nên không còn ai lạ gì khi thấy những bậc
bề trên Thiên Chúa khó lòng chấp nhận được tinh thần khoan dung xuất hiện
như cánh cửa rộng mở để đem lại cho họ nhiều lợi ích tốt đẹp, bằng sự chấp
nhận những giá trị tinh thần chung của các tôn giáo. Cũng vì vậy mà biết bao
nhiêu cơ hội may mắn để hai tôn giáo lớn cùng hòa hợp đã trôi qua.
Dù thế nào, chúng tôi vẫn hằng mong ước rằng
có ngày những tín đồ của chúa Giê-Su cũng như hàng đệ tử Phật sẽ cùng nhau
gặp gỡ trong tinh thần thiện chí và hiểu biết, cái ngày mà tình thương của
đức Phật và chúa Giê-Su sẽ được chứng thực một cách cụ thể, hầu đoàn kết thế
giới trong nỗ lực chung, để cứu loài người thoát khỏi họa diệt vong bằng
cách hướng dẫn toàn thể nhân loại trở về với ánh sáng của chân lý.
THÍCH TRÍ CHƠN
Trích dịch từ tạp chí
Maha Bodhi