[25]
        
Thập Nhị Nhân Duyên
      
      
      "Không thể tìm ra một Tạo Hóa, một Brahma, hay 
một vị 
nào khác, làm chủ vòng luân chuyển của đời sống (Thập Nhị Nhân 
Duyên). Chỉ có những hiện tượng diễn tiến tùy duyên!" -- Thanh 
Tịnh 
Đạo
      Tiến trình của hiện tượng tái sanh được Đức Phật 
giải 
thích đầy đủ trong Thập Nhị Nhân Duyên (Paticca Samuppada).
      Paticca là "bởi vì" hay,"bởi", hay "tùy 
thuộc nơi". Samuppada là "phát sanh", hay "khởi đầu". 
Chiếu y theo ngữ nguyên, danh từ ấy là "phát sanh bởi vì", hay 
"phát sanh tùy thuộc", Paticca Samuppada áp dụng cho trọn công 
thức 
nhân quả gồm tất cả 12 nhân và quả liên quan với nhau, Phạn ngữ 
gọi 
là Paccaya và Paccayuppanna, nhân tạo duyên cho quả trổ sanh. Nên 
hiểu phương 
pháp tương quan của Paticca Samuppada (Thập Nhị Nhân Duyên) như 
sau: 
      - Bởi vì có A nên B phát sanh, bởi vì có B nên C 
phát sanh. 
Khi nào không có A tất nhiên không có B. Khi nào không có B thì C 
cũng không 
có. Nói cách khác, cái nầy như vầy thì có cái kia; cái nầy không 
phải 
như vầy thì cái kia không có (imasmim sati, idam hoti; imasmim 
asati, idam natthi 
hoti). 
      Thập Nhị Nhân Duyên [1] là một bài pháp giảng về 
tiến 
trình của hiện tượng sanh-tử chớ không phải là một lý thuyết triết
học về sự tiến hóa của vũ trụ. Giáo lý nầy chỉ đề cập đến vấn 
đề nguồn gốc của vòng sanh tử luân hồi, nguyên nhân của sự đau 
khổ, 
và chỉ nhằm mục đích giúp chúng sanh thoát ra khỏi mọi đau khổ của
đời 
sống, chớ không tìm giải thích những bí ẩn liên quan đến nguồn gốc
cùng 
tột của vũ trụ.
      Pháp Thập Nhị Nhân Duyên chỉ giải thích "sự phát 
sanh của một trạng thái tùy thuộc nơi trạng thái trước kế đó". 
[2] 
      Vô Minh (avijja) - tức không nhận thức chân lý về
đau khổ, 
nguồn gốc của đau khổ, sự chấm dứt đau khổ, và con đường dẫn đến 
sự chấm dứt đau khổ - là nguyên nhân chánh làm động lực thúc đẩy, 
chuyển động bánh xe đời sống. Nói cách khác, Vô Minh là không nhận
thức 
thực tướng của vạn pháp, hay không thấu đáo hiểu biết chân tướng 
của 
chính mình. Chính màng Vô Minh như lớp mây mù bao phủ, che lấp mọi
sự hiểu 
biết chân chánh (Chánh Kiến).
      Đức Phật dạy rằng:
      "Vô Minh là lớp ảo kiến mịt mù dày đặc trong ấy 
chúng sanh quây quần quanh lộn." [3] (Sutta Nikaya, câu 730).
      Đến khi lớp Vô Minh bị phá tan để trở thành tri 
kiến, 
như trường hợp của chư Phật và chư vị A La Hán thì mọi vấn đề nhân
và quả cũng chấm dứt.
      Trong kinh Itivuttaka [4], Đức Phật dạy:
      "Người đã tiêu trừ ảo kiến và phá tan lớp tối tăm
dầy đặc sẽ không còn thênh thang đi mãi nữa. Đối với người ấy 
không 
còn vấn đề nhân và quả."(Sutta Nikaya, trang 14)
      Tùy thuộc nơi Vô Minh, Hành (samkhara) phát sanh.
Phạn ngữ 
"samkhara" có rất nhiều ý nghĩa. Vì thế ta nên tùy trường hợp mà 
định nghĩa danh từ nầy. Ở đây samkhara là những tác ý (cetana) 
thiện 
(kusala), bất thiện (akusala), và không lay chuyển (anenja), tạo 
nghiệp 
(kamma) đưa đi Tái Sanh. Tác ý bất thiện nằm trong 12 loại tâm 
vương bất 
thiện. Tác ý thiện nằm trong 8 loại tâm đẹp (sobhana) và 5 loại 
tâm thiện 
trong thiền Sắc Giới (rupajhana). Tác ý không lay chuyển nằm trong
bốn loại 
tâm thiện trong thiền Vô Sắc Giới (arupajhana).
      Trong Ngũ uẩn, samkhara là danh từ gọi chung 50 
trong 52 tâm sở. 
Hai tâm sở còn lại là Thọ và Tưởng.
      Những tác ý (cetana) của bốn loại thánh đạo tâm 
(lokuttara maggacitta), hay tâm siêu thế, được coi như không phải 
là samkhara 
(hành), bởi vì những lọai tâm nầy hướng về sự tận diệt Vô Minh.
      Trí tuệ (panna) là thành phần chánh yếu trong các
loại 
thánh đạo tâm.
      Trái lại, trong các loại tâm tại thế, yếu tố quan
trọng 
là tác ý(cetana).
      Tất cả những tư tưởng, lời nói và việc làm, thiện
và bất thiện, đều được bao gồm trong Hành (samkhara). Những hành 
động 
tốt hay xấu - trực tiếp phát sanh từ Vô Minh hay bị Vô Minh gián 
tiếp 
làm động cơ thúc đẩy - đều nhất định phải tạo nghiệp, nghĩa là 
có tác động kéo dài thêm cuộc hành trình xa xôi của vòng luân hồi.
      Ngược lại, những hành động (bằng thân, khẩu hay 
ý) 
hoàn toàn trong sạch, tuyệt đối không xuất phát từ tham, sân, si, 
nhất 
định phải thoát ra khỏi vòng phiền não của đời sống. Do đó Đức 
Phật 
so sánh Giáo Pháp của Ngài như một chiếc bè mà chúng sanh có thể 
nương 
theo để cố gắng vượt qua đại dương của cuộc sống. Những hành động 
của chư Phật và chư vị A La Hán không thể gọi là Hành (samkhara) 
vì các 
Ngài đã hoàn toàn tận diệt Vô Minh.
      Vô Minh chiếm một phần quan trọng trong những 
hành động 
bất thiện và vẫn có tiềm tàng ngủ ngầm trong những hành động 
thiện. 
Như vậy cả hai hành động, thiện và bất thiện, đều được coi là bắt 
nguồn từ Vô Minh.
      Tùy thuộc nơi Hành, tức hành động thiện và bất 
thiện 
trong kiếp vừa qua, "Thức-Tái-Sanh" (patisandhi vinnana), hay 
Thức-Nối-Liền, 
phát sanh trong kiếp kế. Gọi là Thức-Tái-Sanh hay Thức-Nối-Liền vì
thức 
ấy nối liền kiếp quá khứ với kiếp hiện tại. Chính đây là thức đầu 
tiên trong một kiếp sống của chúng sanh. Trong trường hợp là người
thì 
đó là thức đầu tiên của một chúng sanh khi bà mẹ thọ thai. Hiểu 
một 
cách chính xác, Thức, trong Thập Nhị Nhân Duyên là 19 loại 
Thức-Tái-Sanh 
được mô tả trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Tất cả ba mươi hai 
loại tâm 
quả (vipakacitta) kinh nghiệm trong kiếp sống vừa qua cũng được 
hàm xúc 
trong danh từ ấy.
      Bào thai trong bụng mẹ được cấu tạo do sự phối 
hợp của 
thức-tái-sanh với tinh trùng và minh châu của cha mẹ. Trong thức 
ấy có ngủ 
ngầm tất cả những cảm giác đã thọ, những đặc tính và những khuynh 
hướng riêng biệt trong dòng đời đã qua của một cá nhân.
      Thức-tái-sanh được coi là tinh khiết [5] vì không
bắt nguồn 
từ tham, sân, si [6], cũng không xuất phát từ không-tham, 
không-sân, 
không-si [7].
      Danh-Sắc (nama-rupa) phát sanh cùng một lúc với 
thức-tái-sanh.
      Hành và Thức (samkhara và vinnana) thuộc về hai 
kiếp, quá 
khứ và hiện tại, của một chúng sanh. Thức và Danh-Sắc trái lại, 
cùng 
phát sanh trong một kiếp sống.
      Danh từ kép Danh-Sắc (nama-rupa) gồm hai hợp tổ: 
"Danh" (nama), phần vô hình, và "Sắc" (rupa), phần hữu 
hình, của một chúng sanh. Ta nên phân biệt Danh-Sắc trong trường 
hợp 
"Danh" riêng biệt và "Sắc" riêng biệt, và trường hợp 
"Danh-Sắc" hợp chung. Trong cảnh Vô Sắc Giới (arupa), chỉ có Danh 
mà không có Sắc. Trong cảnh giới Vô Tưởng Thiên (asanna), chỉ có 
Sắc 
mà không có Danh. Trong Dục Giới (kamma) và Sắc Giới (rupa), cả 
Danh và Sắc 
đồng phát sanh một lượt, cùng một lúc.
      Danh ở đây là ba Uẩn: Thọ, Tưởng và Hành, cả ba 
cùng 
phát sanh một lượt với "thức-tái-sanh".
      Sắc là ba lần "mười-thành-phần":
      1. 
"mười-thành-phần" của thân, 
      2. 
"mười-thành-phần" của giống (nam nữ), và 
      3. 
"mười-thành-phần" của ý căn, cũng cùng khởi 
sanh một lượt với thức-tái-sanh, do nghiệp quá khứ tạo nên.
      Mười thành phần của thân gồm có bốn nguyên tố gọi
là Tứ Đại:
      1. Nguyên 
tố có đặc tánh duỗi ra (pathavi), đất;
      2. Nguyên 
tố có đặc tánh làm dính liền, hay kết hợp lại 
(apo), nước;
      3. Nguyên 
tố có đặc tánh làm nóng (tejo), lửa;
      4. Nguyên 
tố có đặc tánh là chuyển động (vajo), gió; 
      Và sáu 
chuyển hóa (upada rupa) của bốn nguyên tố ấy là;
      5. Màu sắc 
(vanna)
      6. 
Mùi(gandha)
      7. Vị 
(rasa)
      8. Bản chất
dinh dưỡng (oja)
      9. Sinh khí
(jivitindriya) và
      10. Thân 
(kaya)
      Mười-thành-phần của giống và mười-thành-phần của ý
căn gồm 9 thành phần đầu (tức từ nguyên tố một đến nguyên tố 9), 
và thứ 10 là giống (nam hay nữ), hoặc ý căn (vatthu), tức căn cứ, 
hay 
nơi mà từ đó tâm phát sanh.
      Như vậy ta thấy hiển nhiên rằng ngay từ lúc bà mẹ
thọ 
thai, chúng sanh đã có nam tanh hay nữ tánh rồi. Và chính nghiệp 
quá khứ 
là nguyên nhân.
      Phạn ngữ "kaya" ở đây có nghĩa là phần nhạy, 
khả năng "xúc" của thân (pasada).
      Về giống (nam tánh hay nữ tánh), ngay lúc bà mẹ 
thọ thai, 
tuy chưa nở nang đầy đủ để hiển lộ ra hình thức, những khả năng 
trở 
thành nam hay nữ vẫn còn tiềm tàng. Cũng như ý căn, căn nguyên 
xuất phát 
ra ý, hay nơi trú ngụ, trụ sở của ý mà ta giả định là tim hay não,
chưa 
hình thành lúc thọ thai. Tuy nhiên khả năng trở thành của ý căn 
vẫn còn 
tiềm tàng.
      Về điểm nầy nên ghi nhận rằng Đức Phật không có 
chỉ 
rỏ nhất định phần nào trong thân là ý căn. Vào thời Ngài còn tại 
tiền, 
phần đông chủ trương, như kinh Upanishads, rằng tim là căn nguyên 
xuất 
phát ra ý. Trong kinh Patthana, Nhân Quả Tương Quan, khi đề cập 
đến căn 
ý, Đức Phật dùng những danh từ gián tiếp như "yam rupam nissaya - 
tùy 
thuộc nơi phần vật chất ấy", mà không chỉ rõ phần vật chất ấy 
có phải là tim hay não. Tuy nhiên những nhà chú giải, như Đức 
Buddhaghosa 
và Anurudha, quả quyết rằng ý căn là tim. Nên biết rằng Đức Phật 
không 
chấp nhận cũng không bác bỏ chủ trương phổ thông thời bấy giờ cho 
rằng 
ý căn là tim.
      Trong thời ký thai ghén, Lục Căn (salayatana) của
thai bào dần 
dần phát triển từ những hiện tượng tâm-vật-lý gồm tiềm lực vi tế 
vô tận trở thành guồng máy lục căn vô cùng phức tạp. Rất giản dị 
lúc ban sơ, guồng máy con người dần dần trở thành vô cùng phức 
tạp. 
Những máy móc thường thì trái lại, phức tạp lúc mới phát minh rồi 
dần 
dần trở nên giản dị, đến đổi lắm khi chỉ dùng sức của một ngón 
tay cũng đủ làm chuyểu động một bộ máy vĩ đại. Guồng máy lục căn 
của con người vận chuyển tự nhiên một cách tự động, gần như máy 
móc, không cần phải có một tác nhân nào tương tợ như một linh hồn 
để 
điều khiển. Mỗi căn (nhãn, nhĩ, tỷ, nhiệt, thân, ý) đều có những 
đối 
tượng và những sinh hoạt riêng biệt. Mỗi đối tượng của lục căn, 
tức 
lục trần-sắc, thinh, hương vị, xúc, pháp - tiếp xúc với mỗi căn 
liên 
hệ, làm phát sanh một loại "thức" . Như sắc tiếp xúc với nhãn 
làm phát sanh nhãn thức, thinh xúc với nhĩ làm phát sanh nhĩ thức 
v.v... Điểm 
giao hợp liên quan của ba yếu tố "căn" (giác quan), "trần" 
(đối tượng của giác quan), và "thức" là Xúc (phassa). Xúc hoàn 
toàn khách quan.
      Đức Phật dạy:
      "Vì có mắt (nhãn) và hình thể ( sắc) nên nhãn 
thức 
phát sanh, xúc là điểm giao hợp của ba yếu tố ấy. Vì có tai (nhĩ) 
và 
âm thanh (thinh) nên nhĩ thức phát sanh. Vì có mũi (tỷ) và mùi 
(hương ) nên 
tỷ thức phát sanh. Vì có lưỡi (thiệt) và vị (vị) nên thiệt thức 
phát sanh. Vì có thân (thân) và vật có thể sờ đụng (xúc) nên thân 
thức 
phát sanh. Vì có tâm (ý) và đối tượng của tâm (pháp) nên ý thức 
phát 
sanh. Điểm giao hợp của ba yếu tố ấy là Xúc (phassa). [8]
      Vậy nên hiểu rằng sự đụng chạm suông không phải 
là 
xúc (phassa), vì muốn có xúc (phassa) phải có đủ ba yếu tố: đối 
tượng, 
giác quan và thức (na sangatimatto eva phasso).
      Tùy thuộc nơi Xúc, Thọ (vevada) phát sanh.
      Một cách chính xác, chính Thọ cảm giác một đối 
tượng 
ấy tiếp xúc với giác quan. Chính Thọ thâu nhận quả lành hay quả dữ
của 
những hành động trong hiện tại hay trong quá khứ. Ngoài tâm sở Thọ
không có một linh hồn hay một bản ngã nào thọ hưởng quả lành hay 
gặt 
hái quả dữ.
      Trong tất cả những loại tâm vương đều có tâm sở 
Thọ. 
Đại khái có ba loại Thọ là: thọ lạc (somanassa) hay cảm giác vui, 
hạnh 
phúc; thọ khổ (domanassa) hay cảm giác buồn, phiền não; và thọ vô 
ký 
(adukkhamasukha), không hạnh phúc cũng không phiền não. Hợp với 
cảm giác 
đau đớn (dukkha) và sung sướng (sukha) về vật chất, thì có tất cả 
năm 
loại cảm giác (thọ). Thọ vô ký, không vui sướng, hạnh phúc, cũng 
không 
đau khổ, phiền não, còn có tên là upekkha mà ta không nên lầm lẫn 
với 
tâm xả, hay trạng thái tâm bình thản.
      Theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), chỉ có cảm giác 
đau đớn 
trong một loại tâm vương, và chỉ có một cảm giác sung sướng trong 
một 
loại tâm vương khác. Hai loại tâm vương có liên quan đến cảm giác 
phiền 
não. Ngoài ra, trong tám mươi lăm loại tâm vương (89 - 4 = 85) còn
lại, đều 
có cảm giác hạnh phúc hay vô ký.
      Nên ghi nhận rằng Đạo Quả Niết Bàn là hạnh phúc 
không 
có liên quan gì đến Thọ (vedana). Đức Phật dạy rằng Đạo Quả Niết 
Bàn 
là hạnh phúc cao thượng nhất trong các hạnh phúc, nhưng đó không 
phải 
là trạng thái thọ hưởng những cảm giác sung sướng hay hạnh phúc.
      Đạo Quả Niết Bàn là hạnh phúc giải thoát ra khỏi 
mọi 
hình thức đau khổ.
      Tùy thuộc nơi Thọ, Ái phát sanh. Cũng như Vô 
Minh, Ái hay Dục 
(tanha) rất quan trọng. Luyến ái, khao khát, bám níu, là một vài 
danh từ 
thường dùng để phiên dịch Phạn ngữ "tanha".
      Có ba loại ái dục là:
      1. Ái Dục 
duyên theo nhục dục ngũ trần( kammatanha).
      2. Ái Dục 
duyên theo những khoái lạc vật chất có liên 
quan đến chủ trương thường kiến (bhava tanha). Trong lúc thọ 
hưởng, 
nghĩ rằng vạn vật là trường tồn vĩnh cửu, và những khoái lạc nầy 
sẽ 
mãi mãi tồn tại.
      3. Ái Dục 
duyên theo những khoái lạc vật chất có liên 
quan đến chủ trương đoạn kiến (vibhava tanha). Trong lúc thọ 
hưởng, 
nghĩ rằng tất cả đều tiêu diệt sau khi chết. Chết là hết.
      Bhava-tanha có khi được giải thích là sự luyến ái
đeo níu 
trong Sắc Giới, và Vibhava-tanha là sự luyến ái đeo níu trong Vô 
Sắc Giới. 
Hai Phạn ngữ ấy thường được dịch là ái dục đeo níu theo sự sống 
và ái dục đeo níu theo sự không-sống, không-sinh-tồn. [9]
      Có sáu loại ái dục liên quan đến lục trần (sắc, 
thinh, 
hương, vị, xúc, pháp). Nếu tính có sáu ái dục liên quan đến lục 
căn và 
sáu ái dục liên quan đến lục trần thì tất cả là mười hai. Nếu tính
luôn ái dục trong quá khứ , hiện tại, và tương lai thì có tất cả 
36. 
Và nếu tính cả ba loại ái dục kể trên thí có 108.
      Đối với người thường trong thế gian, loại aí dục 
đeo 
níu theo nhục dục ngũ trần phát triển một cách rất là tự nhiên. 
Chế 
ngự sự khao khát của lục căn thật khó khăn vô cùng. Hai yếu tố 
quan trọng 
và hùng mạnh nhất trong Thập Nhị Nhân Duyên là Vô Minh và Ái Dục, 
hai 
nguyên nhân chánh làm chuyển động bánh xe luân hồi. Vô Minh là 
nguyên 
nhân trong quá khứ, tạo điều kiện cho hiện tại, tạo điều kiện cho 
tương lai. Ái Dục là nguyên nhân trong hiện tại, tạo điều kiện cho
tương lai.
      Tùy thuộc nơi Ái, phát sanh Thủ (Upadana), cố bám
lấy vật 
ham muốn. Thủ là Ái Dục tăng trưởng đến mức cao độ. Ái Dục như đi 
mò trong đêm tối để lấy trộm một vật. Thủ như chính sự trộm cắp. 
Nguyên nhân của Thủ là cả hai, luyến ái và lầm lạc. Do Thủ phát 
sanh 
ý thức sai lầm"Tôi" và "Của tôi".
      Thủ có bốn: nhục dục, tà kiến, thân kiến và chủ 
trương 
sai lầm cho rằng có một linh hồn trường cửu.
      Thân kiến và chủ trương lầm lạc về linh hồn 
trường cửu 
cũng được coi là tà kiến.
      Tùy thuộc nơi Thủ, Hữu (Bhava) phát sanh. Theo 
căn nguyên của 
danh từ, bhava có nghĩa là "đang trở thành". Hữu (bhava) là cả 
hai, hành động tạo nghiệp (kammabhava) thiện và bất thiện (tiến 
trình 
tích cực của sự trở thành), và những cảnh giới của chúng sanh 
(tiến 
trình tiêu cực của sự trở thành). Có sự khác biệt tế nhị giữa Hành
(samkhara) và Hữu (kammabhava). Hành là hành động trong quá khứ. 
Hữu là 
hành động trong hiện tại. Cả hai đều là hành động tạo nghiệp. hữu 
(kammabhava) tạo điều kiện cho sự tái sanh sắp đến.
      Tùy thuộc nơi Hữu có sự Sanh (jati) trong kiếp 
kế. Một 
cách chính xác, Sanh là sự khởi phát của những hiện tượng 
tâm-vật-lý 
(khandanam patubhavo).
      Lão và Tử (Jaramarana) là hậu quả hiển nhiên của 
Sanh.
      Quả phát sanh vì có nhân. Vậy, nếu không có Nhân 
tức 
không có Quả. Nếu Nhân chấm dứt, tức nhiên Quả cũng chấm dứt.
      Vấn đề được rỏ ràng hơn nếu ta suy nghiệm Thập 
Nhị 
Nhân Duyên theo chiều ngược như thế nầy:
      Lão và Tử chỉ có thể hiện hữu trong một cơ thể 
tâm-vật-lý, 
tức trong một guồng máy lục căn. Một cơ thể tương tợ cần phải được
"sanh" ra. Mà Sanh là hậu quả dĩ nhiên của nghiệp quá khứ (tức 
những hành động trong thời gian trước đó), phát sanh do Thủ và Ái 
tạo 
duyên. Ái chỉ phát sanh khi có Thọ, và Thọ là hậu quả của sự xúc 
chạm 
giữa Lục Căn và Lục Trần.
      Như vậy, tức phải có Lục Căn. Mà không thể có Lục
Căn 
nếu không có Danh-Sắc, tâm và cơ thể vật chất. Tâm phát sanh do 
Thức 
Tái-sanh tạo duyên. Thức Tái-sanh do sinh hoạt tâm linh trong quá 
khứ 
(Hành), và Hành bắt nguồn từ Vô Minh, nghĩa là không nhận thức 
được 
thực tướng của vạn hữu.
      Toàn thể phương thức có thể tóm tắt như sau:
      Tùy thuộc nơi Vô Minh phát sanh Hành.
      Tùy thuộc nơi Hành phát sanh Thức.
      Tùy thuộc nơi Thức phát sanh Danh-Sắc
      Tùy thuộc nơi Danh-Sắc phát sanh Lục Căn. 
      Tùy thuộc nơi Lục Căn phát sanh Xúc.
      Tùy thuộc nơi Xúc phát sanh Thọ.
      Tùy thuộc nơi Thọ phát sanh Ái.
      Tùy thuộc nơi Ái phát sanh Thủ.
      Tùy thuộc nơi Thủ phát sanh Hữu.
      Tùy thuộc nơi Hữu có Sanh.
      Tùy thuộc nơi Sanh có Lão, Tử, Sầu Muộn, Ta Thán,
Đau Khổ, 
Buồn Rầu, và Thất Vọng.
      Đó là trọn vẹn các yếu tố cấu thành đau khổ.
      
      Tận diệt Vô Minh dẫn đến chấm dứt Hành.
      Chấm dứt Hành dẫn đến chấm dứt Thức.
      Chấm dứt Thức dẫn đến chấm dứt Danh-Sắc.
      Chấm dứt Danh-Sắc dẫn đến chấm dứt Lục Căn. 
      Chấm dứt Lục Căn dẫn đến chấm dứt Xúc.
      Chấm dứt Xúc dẫn đến chấm dứt Thọ. 
      Chấm dứt Thọ dẫn đến chấm dứt Ái.
      Chấm dứt Ái dẫn đến chấm dứt Thủ.
      Chấm dứt Thủ dẫn đến chấm dứt Hữu.
      Chấm dứt Hữu dẫn đến chấm dứt Sanh. 
      Chấm dứt Sanh dẫn đến chấm dứt Lão, Tử, Sầu Muộn,
Ta Thán, Đau Khổ, Buồn Rầu, và Thất Vọng.
      Đó là chấm dứt hậu quả của các yếu tố cấu thành 
Đau Khổ.
      
      Hai yếu tố đầu tiên của Thập Nhị Nhân Duyên (Vô 
Minh, 
Hành) thuộc về quá khứ. Tám yếu tố giữa thuộc về hiện tại. Và hai 
yếu tố cuối cùng thuộc về vị lai. 
      Cả hai, Hành (samkhara), thiện và bất thiện, và 
Hữu 
(bhava), đều được xem là nghiệp (kamma). Vô Minh (avijja), Ái 
(tanha) và Thủ 
(upadana) là khát vọng hay ô nhiễm (kilesa). Thức, Danh-Sắc, Lục 
Căn, Xúc, 
Thọ, Sanh, Lão, Tử đều là quả (vipaka).
      Như vậy Vô Minh, Hành, Ái,Thủ và Hữu là năm 
nguyên nhân 
trong quá khứ tạo duyên (điều kiện) cho năm quả trong hiện tại là 
Thức, 
Danh-Sắc, Lục Căn, Xúc và Thọ phát sanh. Cùng thế ấy Ái, Thủ, Hữu,
Vô 
Minh và Hạnh trong hiện tại tạo duyên cho năm quả kế trên phát 
sanh trong 
tương lai.
      Tiến trình Nhân và Quả liên tục diễn tiến vô cùng
tận. 
Không thể nhận ra khởi điểm của tiến trình ấy vì ta không quan 
niệm 
được lúc nào trong dòng thời gian vô tận, luồng sống của ta không 
bị 
màng Vô Minh bao phủ. Tuy nhiên, giờ phút nào mà trí tuệ thay thế 
Vô Minh 
và luồng sống chứng nghiệm được bản chất của Niết Bàn (Nibbana 
dhatu) thì, chỉ đến chừng ấy, tiến trình sanh tử mới chấm dứt.
      "Chính Vô Minh dẫn dắt ta đi vòng quanh ảm đạm
      Rầy đây mai đó của chuỗi dài sanh-tử, tử-sanh vô 
cùng 
tận." [10]
      
      Chú thích
      [1] Pháp Thập Nhị Nhân Duyên cũng được gọi là 
Thập Nhị 
Nhân Duyên Khởi hay Tùy Thuộc Phát Sanh .
      [2] Tabbhavabhavibhavakaramatta - Abhidhammattha 
Sangaha. Xem "A 
Manual of Abhidhamma" của tác giả Narada Thera, trang 360.
      [3] Sutta Nikaya, câu 730.
      [4] Suuta Nipatta, trang 14.
      [5] "Thức nầy là tinh khiết", pabhassaram idam 
cittam, 
Đức Phật dạy như vậy trong Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, tập 
1, trang 
10. Theo chú giải, Đức Phật nói vậy khi đề cập đến thức-tái-sanh.
      [6] Trong trường hợp "Quả Vô Nhân" (Ahetuka 
vipaka).
      [7] Trong trường hợp "Quả Vô Nhân"(Sahetuka 
vipaka).
      [8] Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, phần ii, trang 
70. Kindred 
Sayings, phần ii, trang 50.
      [9] Xem Chương 6.
      [10] Chalmers, "Buddha's Teachings", câu 729-730.