C. GIẢNG LUẬN
LUẬN 
VĂN: Luận là nghị luận, căn cứ vào Lý để nghiên 
cứu, chứng minh làm sáng tỏ ra. Mục đích bài kệ luận là 
quán thế giới Cực Lạc, thấy Phật A Di Ðà, nguyện sanh về 
nước Cực Lạc ấy.
1.Giải Tổng Quát Các Môn
LUẬN VĂN: LÀM SAO 
QUÁN? LÀM SAO SANH TÍN TÂM? NẾU NGƯỜI THIỆN NAM THIỆN NỮ TU 
NGŨ NIỆM MÔN THÀNH TỰU, CHẮC CHẮN ÐƯỢC SANH VỀ QUỐC ÐỘ 
AN-LẠC, THẤY ÐƯỢC PHẬT DI ÐÀ. NGŨ NIỆM MÔN LÀ GÌ? : 1) LỄ 
BÁI MÔN, 2) TÁN THÁN MÔN; 3) TÁC NGUYỆN MÔN; 4) QUÁN SÁT MÔN; 
5) HỒI HƯỚNG MÔN.
Ðoạn này kể chung năm môn. Làm sao Quán tức 
là ba thứ quán sát trong Quán Sát Môn. Làm sao tin? Y theo quán 
sát công đức chơn thật cõi tịnh độ mà sanh lòng tin. Ngũ 
niệm môn là năm thứ hành môn để 
được vãng sanh Tịnh Ðộ. Bình thường 
giảng niệm Phật lấy việc xưng danh hiệu Phật đó là một 
trong nhiều nghĩa chữ niệm. Cần nên biết rằng đối 
với các tướng hảo công đức của chư Phật ghi nhớ được 
rõ ràng không mờ gọi chung đó là niệm. 
Không phải chỉ chuyên dùng miệng ngâm lên cho là niệm Phật.
LUẬN VĂN: LỄ BÁI THẾ NÀO? 
THÂN NGHIỆP LỄ BÁI A DI ÐÀ Như Lai, CHÁNH BIẾN TRI VÌ QUYẾT 
Ý SANH VỀ NƯỚC KIA.
Từ đây về sau giải thích riêng năm môn. Lễ 
Bái Môn: Phật có mười thông hiệu: Như Lai, Ứng cúng, Chánh 
biến tri…Chữ Như Lai đã giải ở 
trước. Ứng cúng: Vì Phật đoạn hết tất cả phiền não, 
viên mãn tất cả công đức, nên nhận cho người trời cúng 
dường. Chánh biến tri: phân biệt với phàm phu bất tri, ngoại 
đạo tà tri, nhị thừa thiên tri, chỉ 
có Phật là bậc chánh biến tri. A Di Ðà Như Lai, A Di Ðà ứng 
cúng, A Di Ðà chánh biến tri đều chỉ Phật A Di Ðà. Lấy 
thân nghiệp lễ bái Phật A Di Ðà, thân này liền được vãng 
sanh về quốc độ Phật A Di Ðà.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ TÁN THÁN: CA NGỢI DANH HIỆU Như Lai KIA, NHƯ TRÍ TƯỞNG 
QUANG MINH CỦA Như Lai KIA, DANH NGHĨA NHƯ THẾ, MUỐN ÐÚNG NHƯ 
THẾ, TU HÀNH HỢP NHAU GỌI LÀ TÁN THÁN.
Môn thứ hai là tán thán, dùng ngữ nghiệp ca 
ngợi tán thán Phật A Di Ðà, tán thán ánh sáng vô lậu của 
Phật do trí tuệ vô lậu mà phát ra. Danh là cái hay nói (năng 
thuyên), nghĩa là cái bị nói (sở thuyên). Nói về danh hiệu 
của Như Lai là tiêu biểu tất cả công đức của Như Lai. Nói 
khen danh hiệu Như Lai là khen tất cả công đức tu hành chơn 
thật hợp nhau, không tu hành chơn thật thì không thể có 
công đức được. 
Nên nói: Ðúng như danh nghĩa kia, muốn 
được tu hành tương ưng, cần tán thán, chắc được vào 
chúng hội, thấy Phật nghe pháp.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ PHÁT NGUYỆN? TÂM THƯỜNG CÓ NGUYỆN MỘT LÒNG CHUYÊN NIỆM 
CHẮC CHẮN ÐƯỢC SANH VỀ THẾ GIỚI AN-LẠC. MUỐN ÐƯỢC 
NHƯ THÊ PHẢI TU HÀNH PHÁP CHỈ.
Môn thứ ba là Phát Nguyện. Phát là phát khởi 
quyết lòng muốn được vãng sanh. Hành giả tu tịnh độ 
đã phát nguyện vãng sanh ước muốn 
tha thiết nên trong tâm chỉ còn một niệm rốt ráo vãng sanh 
về nước An Lạc, không có niệm khác, cần tu pháp CHỈ làm 
cho tâm chuyên chú nhớ tưởng quốc độ An Lạc, không còn nổi 
trôi trong cảnh giới ngũ dục nữa.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ QUÁN SÁT? DÙNG TRÍ TUỆ QUÁN SÁT, DÙNG CHÁNH NIỆM ÐỂ 
QUÁN SÁT Y CHÁNH KIA, MUỐN TU HÀNH ÐÚNG CẦN DÙNG PHÁP QUÁN, 
QUÁN Y VÀ CHÁNH BÁO KIA CÓ BA THỨ: 1) QUÁN SÁT CÔNG ÐỨC TRANG 
NGHIÊM CỦA CÕI PHẬT KIA; 2) QUÁN SÁT CÔNG ÐÚC TRANG NGHIÊM CỦA 
PHẬT A DI ÐÀ; 3) QUÁN SÁT CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM CỦA CHƯ BỒ 
TÁT Ở CÕI KIA.
Quán Sát Môn: Muốn dùng trí huệ quán sát ba 
thứ công đức chơn thật, cần phải dùng pháp Quán, dùng chỉ 
quán quán sát được 
ba thứ công đức chơn thật, thì 
hành giả chắc được 
công đức chơn thật quyết định được vãng 
sanh.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ HỒI HƯỚNG? KHÔNG BỎ TẤT CẢ CHÚNG SANH KHỔ NÃO, TÂM THƯỜNG 
PHÁT NGUYỆN, HỒI HƯỚNG LÀ BƯỚC ÐẦU THÀNH TỰU TÂM ÐẠI 
BI.
Hồi Hướng Môn: Người tu tịnh độ, biết rằng 
ta và chúng sanh đồng một thể không hai, nên 
không bỏ một khổ não nào của chúng sanh, mà dùng công đức 
niệm Phật đã tu, hồi hướng khắp 
tất cả chúng sanh, cùng chúng sanh đồng sanh về Cực Lạc, 
thành tựu tâm từ bi rộng lớn.
2-Giải Riêng về Quán Sát
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ QUÁN SÁT CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM CỦA QUỐC ÐỘ ÐỨC PHẬT 
KIA? VÌ THÀNH TỰU NĂNG LỰC KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN NHƯ HẠT CHÂU 
MA NI NHƯ-Ý BỬU TÁNH KIA, CÓ THỂ SO SÁNH TƯƠNG ÐỐI NHƯ THẾ.
Trước kia đã chỉ chung năm phương pháp tu 
hành, đoạn này chỉ giải thích một 
món quán sát thôi. Ðoạn đầu 
đem thí dụ để nói rõ năng lực công đức cõi 
Phật không thể nghĩ bàn. Quán sát tự trang nghiêm của quốc 
độ Phật Vô Lượng Thọ, phần sau sẽ nói rõ có 17 thứ 
quán sát. Trước tiên nói tổng quát về tướng quán sát cõi 
Phật. Nói quán sát thành tựu quốc độ Cực Lạc của Phật 
A Di Ðà cần phải quán cả kiến và văn 
các thứ công đức ấy thành tựu, phải 
lấy năng lực công 
đức không thể nghĩ bàn mà quán đó.
Quốc độ An Lạc của Phật A Di Ðà 
và thế giới này không đồng. Cõi này do cộng nghiệp của 
chúng sanh mà thành, cõi Phật A Di Ðà là do năng 
lực công đức bổn nguyện của Ngài 
tạo thành. Trong kinh Vô Lượng Thọ Phật 
nói về nhân địa của Pháp Tạng Tỳ Kheo đã từng phát 48 
đại nguyện. Năng lực đại nguyện của Phật A Di Ðà 
đã làm thành cõi An Lạc, có thể làm cho người thấy nghe đều 
được vãng sanh, nên không thể đem 
thế giới quốc độ này để quán sát mà 
phải dùng năng lực không thể nghĩ bàn để quán sát.
Phàm việc gì có thể nghĩ bàn đều là do lời 
nói, tư tưởng lập ra, như nói về một việc gì việc ấy 
có một phạm vi nhất định, 
giới hạn nhất định, cái đó là của 
người khác chứ không phải là chính mình, vật này không là 
vật kia. Phàm cái gì có ngôn ngữ tư tưởng là có tướng phân 
biệt, phải quấy, ta kia khác nhau. Nếu lìa ngôn ngữ tư tưởng 
thì không có tướng ta kia, phải quấy. Ðã không có tướng 
ta kia, phải quấy tức là việc không thể nghĩ bàn.
Không thể nghĩ bàn là tất cả pháp đều 
không được, nếu pháp không thể được, làm sao có thể 
nói được?? Nhưng vì chúng sanh, không thể không mượn lời 
nói để chỉ rõ cái không thể nghĩ 
bàn của tịnh độ, làm cho chúng sanh tin muốn vãng sanh, nên 
phải lấy thí dụ phương tiện để chỉ bày đó. Ma Ni Như 
Ý bửu tánh là Như Ý Bảo Châu, bảo châu này là của đại 
bàng kim súy điểu. Hạt châu này là của các long vương giữ, 
là một vật quý không thể nghĩ bàn. Phàm người được hạt 
châu quý này, tất cả nhu cầu về thân như áo, cơm, chỗ ở 
đều có thể tùy ý từ nơi vật báu áy mà có ra, nên nói rằng 
châu như ý. Báu vật này cao quý nhất, các châu báu khác 
không thể so sánh. Những món quý báu khác nó chỉ có giá trị 
trong phạm vi chính nó, như vàng chỉ quý hơn loài cháu báu 
thuộc về vàng mà không thể so sánh với lưu ly hay các thứ 
báu khác. Bảo châu như ý không phải thế, chúng sanh ý muốn 
món báu nào thì món báu ấy hiện ra, không có phạm vi quyết 
định. So với các châu báu về vật chất thì Bảo Châu Như-Ý 
là tánh chất không thể nghĩ bàn. So sánh với tánh công đức 
của quốc độ 
An-Lạc của Phật A Di Ðà không được 
chút phần tương tợ, tuyệt đối không có chút tương đồng. 
Tại vì sao? Vì Như Ý Bảo Châu có thể 
đầy đủ nhu cầu 
của thân, mà tịnh độ của Phật A Di Ðà 
không chỉ làm cho vô lượng chúng sanh, khi vãng sanh về cõi nước 
kia, sinh hoạt tự nhiên, muốn áo được 
áo, muốn ăn được ăn, mà còn làm 
cho chúng sanh thấy được 
đầy đủ đại nguyện Bồ Ðề, làm 
cho chúng sanh cứu cánh được thành Phật, nên gọi là chỉ tương 
tợ, tương đối mà thôi.
Phần này nói tổng quát về năng 
lực công đức quán sát không thể 
nghĩ bàn, trong 17 thứ quán sát sau cùng hàm chứa năng lực bất 
khả tư nghì này.
LUẬN VĂN: QUÁN SÁT CÔNG ÐỨC 
TRANG NGHIÊM CỦA QUỐC ÐỘ PHẬT A DI ÐÀ CÓ 17 THỨ CẦN NÊN 
BIẾT: 1) THANH TịNH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 2) LƯỢNG CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU; 3) TÁNH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 4) HÌNH TƯỚNG CÔNG 
ÐỨC THÀNH TỰU; 5) CÁC THỨ VIỆC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 6) DIỆU 
SẮC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 7) XÚC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 8) 
TRANG NGHIÊM CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 9) VŨ (MƯA) CÔNG ÐỨC THÀNH 
TỰU; 10) QUANG MINH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 11)THANH (TIẾNG) CÔNG 
ÐỨC THÀNH TỰU; 12) CHỦ CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 13) QUYẾN THUỘC 
CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 14) THỌ DỤNG CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 15) 
VÔ NẠN CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 16) ÐẠI NGHĨA MÔN CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU; 17) NHẤT THIẾT SỞ CẦU CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU.
1-THANH TỊNH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: 
"QUÁN TƯỞNG THẾ GIỚI KIA, VƯỢT XA ÐƯỜNG BA CÕI."
1)-Quán tưởng thế giới kia là quán tưởng 
thế giới Cực Lạc của Ðức Phật A Di Ðà. Ðường vào ba 
cõi: Ðường phân biệt có hai thứ là hữu lậu và vô lậu. 
Ðường phiền não do phiền não làm thành, do chúng sanh tạo 
ra nghiệp và nghiệp ấy khi thành tựu rồi nó có khả năng 
mang theo tánh chất phiền não gọi là hữu lậu. Vì có phiền 
não hữu lậu nên trôi lăn trong sanh tử, bị trói buộc trong 
ba cõi gọi là đường ba cõi. Tướng công đức của thế giới 
Cực Lạc của Phật A Di Ðà là do thiện căn thanh tịnh vô lậu 
xuất thế gian mà tạo thành, nên nói vượt xa đường ba cõi. 
Phật A Di Ðà đem 
công đức trang nghiêm tịnh độ Cực Lạc để thực hiện diệu 
pháp độ thoát chúng sanh, như thuyền lớn chở người. Diệu 
pháp đó là thuyền từ vớt người 
đưa khỏi bể sanh tử.
LUẬN VĂN: LƯỢNG CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "CỨU CÁNH NHƯ HƯ KHÔNG , RỘNG LỚN 
KHÔNG NGẰN MÉ".
2)-Thế giới Cực Lạc là bảo độ của Phật 
A Di Ðà mà bảo độ cũng là pháp tánh độ. Pháp tánh trùm 
khắp tất cả, lìa tất cả tướng không có hạn lượng, chẳng 
qua tùy theo công đức 
cao thấp của chúng sanh không đồng mà có tướng lớn nhỏ 
khác nhau đối với tâm chúng sanh mà hiển hiện. Thực ra Cực 
Lạc quốc độ tùy theo chúng sanh 
trong mười phương thế giới vãng sanh, nhưng vẫn không có ngằn 
mé, nên lượng của thế giới Cực Lạc là vô lượng, rộng 
lớn như hư không, không có ngằn mé, không đồng như nhân khẩu 
thêm bớt trong thế gian này, có bờ mé và có tướng trạng 
khốn khổ.
LUẬN VĂN: TÁNH CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "CHÁNH ÐẠO VÀ TỪ 
BI, SANH THIỆN CĂN XUẤT THẾ”.
3)-Nói về tướng công đức thành 
tựu là nhằm vào thể tướng mà nói. Nói Tánh công đức thành 
tựu: tánh tức là giới mà giới là chủng tử, chủng tử tức 
là nhơn tánh đó là cái nhơn trước tiên của quả tướng. Từ 
chỗ Chánh đạo đại 
từ bi và thiện căn xuất thế làm nhơn 
đó là nhơn cứu cánh, vì Tứ Ðế và 37 phẩm trợ đạo 
đều là chánh đạo. Hiểu thể của chánh đạo tức là 
vào được chánh 
đạo. Chánh đạo xuất thế này là tướng 
cộng pháp của ba thừa. Tâm từ bi là pháp xuất thế Ðại 
Thừa bất cộng pháp. Dùng ba thừa cộng pháp, Ðại Thừa bất 
cộng pháp, thiện căn xuất thế làm chủng tử tánh của thế 
giới Cực Lạc. Ðây chỉ nhơn và quả của thế giới An-Lạc 
đều là công đức thanh tịnh vô lậu.
LUẬN VĂN: HÌNH TƯỚNG 
CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "ÁNH SÁNG SẠCH ÐẦY 
KHẮP, NHƯ NHẬT NGUYỆT CÙNG SOI."
4)-Sắc pháp có 2 thứ hiển sắc và hình sắc. 
Các thứ xanh vàng đỏ trắng là hiển sắc. Dài ngắn tròn 
vuông gọi là hình sắc. Trong đây nói hình tướng của ánh 
sáng là nói về chỗ trong chúng sanh, lầu gác, cây báu, tất 
cả đều có đủ 
ánh sáng thanh tịnh vô lậu như mặt trăng mặt trời chiếu vào 
gương sáng.
LUẬN VĂN: CHỦNG CHỦNG SỰ CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "ÐỦ CÁC TÁNH TRÂN BỬU, ÐẦY ÐỦ 
DIỆU TRANG NGHIÊM."
5)-Bình thường nói có tám trân bảy báu, nay 
nói trân bửu ở tây phương Cực Lạc hoặc nghìn hoặc muôn 
không có số lượng, không thể kể hết nên gọi là đầy 
đủ các thứ. Cõi ấy vì có vô số 
tánh chất trân bửu, nó đầy 
đủ thanh tịnh trân diệu trang nghiêm.
LUẬN VĂN: DIỆU SẮC CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "ÁNH VÔ CẤU RỰC RỠ, SOI SẠCH HẾT 
THẾ GIAN."
6)-Công đức diệu sắc là 
chỉ về hiển sắc mà nói. Hiển sắc ở trước đã giảng 
rõ. Cái gì rất sáng thì gọi là vô cấu, nếu căn 
cứ về tánh công đức mà giảng thì 
cái gì không còn các cấu trược vô minh phiền não gọi là 
vô cấu. Vì khi ánh sáng vô cấu có khả năng 
mạnh mẽ thanh tịnh nên khi chiếu 
vào thế gian, nhiếp đủ hết tất cả chúng sanh.
LUẬN VĂN: XÚC CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "CỎ TÁNH BÁU CÔNG ÐỨC, MỀM MẠI 
MỌC HAI BÊN, NGƯỜI CHẠM SANH VUI LỚN, HƠN CA-THI-LÂN-ÐÀ".
7)-Xúc là tiếp xúc, y phục các vật đều 
có thể tiếp xúc với thân thể. Trong đây tuy nói về cỏ, 
nhưng là thứ cỏ báu tánh công đức. Nó rất mềm mại làm 
cho người khi chạm nhầm sanh nhiều cảm xúc vui vẻ nhận chịu. 
Người ở cõi này khi gặp những điều vui liền nhận, từ cảnh 
vui ấy sanh lòng tham, tăng trưởng phiền não. Cõi tịnh độ 
Cực Lạc nếu có sự vui nhận, sự vui ấy làm cho chúng sanh 
dứt hết phiền não, công đức 
tăng trưởng. Ca-Thi-Lân-Ðà là loại 
cỏ rất nhỏ nhiệm ở xứ Ấn Ðộ, nếu va chạm vào cũng có 
thể cảm xúc êm ả vui vẻ. Nhưng cỏ tánh công đức ở Tịnh 
Ðộ thù thắng và khác xa nên nói là bửu tánh công đức 
vượt xa hơn Ca-thi-lân-đà.
LUẬN VĂN: TRANG NGHIÊM 
CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU, CÓ BA THỨ CẦN NÊN BIẾT. 1) NƯỚC; 2) 
ÐẤT; 3) HƯ KHÔNG. TRANG NGHIÊM VỀ NƯỚC NHƯ KỆ NÓI: 
"HOA BÁU NGÀN MUÔN THỨ, ÐẦY DẪY Ở TRONG AO, GIÓ NHẸ THỔI 
CÁNH HOA, ÁNH SÁNG CHIẾU CHÓI LỌI. TRANG NGHIÊM VỀ ÐẤT NHƯ 
KỆ NÓI: "CÁC CUNG ÐIỆN LẦU GÁC, THẤY MƯỜI PHƯƠNG KHÔNG 
NGẠI, NHIỀU CÂY MÀU SẮC LẠ, HÀNG BÁU VÂY GIÁP VÒNG". 
TRANG NGHIÊM HƯ KHÔNG KỆ NÓI: "BÁU VÔ LƯỢNG KẾT NHAU, THÀNH 
LƯỚI PHỦ HƯ KHÔNG, CÁC THỨ VANG THÀNH TIẾNG, VANG RA TIẾNG 
PHÁP MẦU".
8)- Ở đây nói ba thứ nước đất và 
hư không ở cõi Cực Lạc đều trang nghiêm, không cõi nào vượt 
qua, văn nghĩa rõ ràng không cần giảng rộng.
LUẬN VĂN: VŨ CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "MƯA HOA Y TRANG NGHIÊM, VÔ LƯỢNG 
HƯƠNG XÔNG KHẮP".
9)-Từ hư không rơi xuống lần lượt gọi là 
mưa. Trong hư không có các hoa, y, như thế là do năng 
lực công đức của cõi Cực Lạc mà 
thành tựu.
LUẬN VĂN: QUANG MINH CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "TRÍ PHẬT NHƯ MẶT NHẬT, TRỪ 
SĨ ÁM THẾ GIAN".
10)-Trước nói công đức hình tướng diệu sắc, 
tuy giảng về ánh sáng nhưng cốt yếu chỉ về ánh sáng của 
sắc pháp. Trong đây nói ánh sáng trí huệ Phật không phải 
là ánh sáng của sắc pháp. Ánh sáng sắc pháp có thể trừ tối 
tăm của thế gian, nhưng không thể trừ được những si mê tối 
tăm trong lòng chúng hữu tình. Những 
si mê của chúng sanh chỉ có ánh sáng trí tuệ Phật mới có 
khả năng trừ diệt, vì thế, ánh sáng của trí tuệ mới là 
ánh sáng của chơn lý. Những điều 
si ám của bóng tối thế gian. Ở đời thường 
nói: "Mắt bị mù chứ Tâm không bị mù." Vì mắt mù 
chỉ thống khổ có một đời, 
để cho tâm mù tạo nghiệp trôi lăn trong sanh tử đau khổ vô 
cùng.
LUẬN VĂN: DIỆU THINH CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "TIẾNG PHẠM ÂM SÂU XA, MƯỜI 
PHƯƠNG NGHE LỜI MẦU."
11)-Phạm là Phạm thiên âm, âm thinh của Phạm 
thiên rất vi diệu thanh tịnh. Ở cõi Cực Lạc tiếng Phật, 
tiếng Bồ Tát, tiếng Thinh Văn, 
cho đến tiếng gió mưa mỗi thứ đều là 
tiếng Phạm thiên thanh tịnh, sâu xa, vi diệu ở mười 
phương đều được 
nghe.
LUẬN VĂN: CHỦ CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "PHẬT DI ÐÀ CHÁNH GIÁC, VU PHÁP 
KHÉO TRỤ TRÌ".
12)- Ðây nói rõ trong 
cõi Cực Lạc có chủ. Muốn nói một nước nào người ta chỉ 
cần nói nhơn dân và người lãnh đạo có quyền thống trị. 
Cõi Cực Lạc cũng thế không chỉ có các thứ trang nghiêm của 
quốc độ, mà còn có Phật A Di Ðà 
là chủ của cõi ấy. Chánh giác có nghĩa là Phật, nói A Di 
Ðà chánh giác cũng như nói A Di Ðà Phật. Vua pháp cũng là một 
thứ hiệu của Phật, vì Phật ở trong tất cả pháp đều 
được tự tại nên gọi là vua của 
các pháp. Ngài là người Trụ Trì giỏi ở nước Cực Lạc.
LUẬN VĂN: QUYẾN THUỘC CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "CHÚNG TỊNH HOA NHƯ LAI, HOA CHÁNH 
GIÁC BIẾN HÓA".
13)- Người đời nói quyến thuộc đều chỉ 
gia tộc mà nói; quyến thuộc của Phật 
A Di Ðà là tất cả chúng sanh trong cõi Cực Lạc và chúng 
sanh trong tất cả mười phương. Cõi này có 4 loại: Thai, trứng, 
thấp, hóa; nếu sanh về Cực Lạc đều là liên hoa hóa sanh, 
nên gọi các phàm phu, nhị thừa, Bồ Tát của thế giới Cực 
Lạc là tịnh hoa chúng. Các hoa chúng này do công đức của Phật 
A Di Ðà hóa sanh nên gọi là Hoa Chánh Giác Hóa Sanh. Chánh 
giác hoa còn thêm một ý nghĩa từ hoa thành quả như thất giác 
chi gọi là thất giác hoa, do thất giác chi có thể thành 
chánh giác, như có hoa sen sẽ có quả thật.
LUẬN VĂN: THỌ DỤNG CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "ƯA THÍCH PHÁP VỊ PHẬT, THỰC PHẨM 
THIỀN CHÁNH ÐỊNH".
14)-Chúng sanh ở cõi này lấy thực phẩm làm 
đồ ăn để nuôi 
mạng sống, chúng sanh ở cõi Cực Lạc 
lấy pháp vị và thiền định 
tam muội để nuôi dưỡng sinh mạng.
LUẬN VĂN: KHÔNG CÁC NẠN CÔNG ÐỨC 
THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "LÌA CÁC PHIỀN NÃO THÂN TÂM, NHẬN 
VUI LUÔN KHÔNG DỨT".
15)-Thế giới Cực Lạc ăn mặc tự nhiên 
nên xa lìa thân phiền não, không có ái biệt ly các ưu sầu nên 
xa lìa tâm phiền não. Cõi này chịu khổ không dứt, cõi Cực 
Lạc nhận điều vui vô cùng.
LUẬN 
VĂN: HAI NGHĨA CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ 
KỆ NÓI: "CÕI THIÊN CĂN ÐẠI THỪA, ÐỀU KHÔNG CÓ CHÊ 
BAI, NGƯỜI NỮ VÀ CĂN THIẾU, GIỐNG NHỊ THỪA CHẲNG 
SANH". QUẢ BÁO CÕI TỊNH ÐỘ, LÌA HAI THỨ BỊ CHÊ BAI 
NÊN CẦN BIẾT: 1) THỂ; 2) DANH THỂ CÓ BA THỨ LÀ HẠNG NHỊ 
THỪA, NGƯỜI NỮ VÀ CĂN THIẾU, CÕI CỰC LẠC KHÔNG CÓ BA LỖI 
NÀY. DANH CŨNG LÌA HẾT NHỮNG LỜI CHÊ BAI NÊN KHÔNG NGHE TÊN 
NHỊ THỪA, NGƯỜI NỮ VÀ CĂN THIẾU. ÐÓ LÀ HIỂN THỂ BÌNH 
ÐẲNG MỘT TƯỚNG VẬY.
16)-Văn nghĩa trong đây đã 
giải rõ ở trước, nhưng chúng ta cần chú ý đến 2 
điểm:
a)Quả báo của cõi tịnh độ 
không có các tướng nhị thừa, người nữ, căn thiếu chứ 
không phải nói các bậc này không được gây nhơn tịnh độ. 
Như nàng Long Nữ ở hội Pháp Hoa, biến 
thành thân nam tử làm Phật ở nước Vô Cấu, vì Phật có 32 
tướng mà trượng phu tướng là một, vì thế Phật không thể 
có 31 tướng được.
b)Thân tướng cõi Cực Lạc đều bình đẳng, 
dù phàm phu sanh ở hạ phẩm hạ sanh, người đã sanh ề Cực 
Lạc, thân tướng đều bình đẳng 
đồng với Ðại Thừa Bồ Tát thân tướng.
Hiện tại, những bức họa tây phương Cực Lạc, 
ta thấy có các tướng nam, nữ, nhị thừa, già, tre, đó chỉ 
là đối chiếu với cõi này làm cho mọi người thấy cũng có 
tướng nam, nữ, già trẻ như cõi mình mà phát nguyện vãng 
sanh, đây cũng chỉ là phương tiện hoằng pháp, kỳ thực khi 
sanh về tịnh độ rồi là lìa hẳn ngã tướng hiện tại, tất 
cả đều được 
32 tướng của Bồ Tát.
LUẬN VĂN: TẤT CẢ SỞ CẦU CÔNG ÐỨC 
ÐẦY ÐỦ THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "CHÚNG SANH MUỐN AN VUI, 
TẤT CẢ ÐƯỢC ÐẦY ÐỦ".
17)-Chúng sanh sanh về thế giới Cực Lạc, do 
năng lực đại nguyện của Ðức Phật 
A Di Ðà, vì thế, có ai muốn được vui, sẽ thành tựu đầy 
đủ. Không những chỉ muốn thành tựu những sinh hoạt đầy 
đủ, mà người muốn đầy đủ tứ hoằng thệ nguyện như: 
“Chúng sanh khốn cùng thệ nguyện độ, phiền não 
không hết thệ nguyện dứt, pháp môn không lường thệ 
nguyện học, Phật đạo cao tột thệ nguyện thành.” đều có 
thể thành tựu viên mãn.
LUẬN VĂN: ÐÃ LƯỢC 
NÓI 17 THỨ CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM QUỐC ÐỘ PHẬT A DI ÐÀ LÀ 
CHỈ BÀY TỰ THÂN NHƯ LAI CÓ NĂNG LỰC ÐẠI CÔNG ÐỨC, LỢI 
ÍCH HỮU TÌNH THÀNH TỰU VÀ LỢI ÍCH CHO CÔNG ÐỨC NGƯỜI KHÁC 
CŨNG THÀNH TỰU. CÕI PHẬT VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM, CẢNH 
GIỚI MẦU NHIỆM ÐỆ NHẤT NGHĨA ÐỂ, 16 CÂU VÀ THÊM 1 CÂU, 
NÓI THEO THỨ LỚP CẦN NÊN BIẾT.
Trên đây 
nói 17 thứ công đức chỉ là nói lược, 
nếu kể rõ không thể nào kể hết. Ở trước nói 17 thứ 
công đức là 
nhằm vào 2 điểm 
công đức tự lợi và lợi tha. Pháp 
môn Tịnh Ðộ có thể làm cho tất cả chúng sanh được sanh 
về nước cõi ấy, gặp Phật nghe pháp, chứng vị Bất Thối, 
chứng Vô thượng đạo hoàn thành công đức lợi tha chơn chánh. 
Nên nói Như Lai thị hiện tự thân 
sức đại công đức lợi ích thành tựu, tha công đức lợi 
ích thành tựu. Thế giới cực là 
hóa độ của Phật A Di Ðà, nhưng hoá độ là báo độ, 
báo độ là pháp tánh độ, pháp tánh độ là 
chơn như Phật tánh, nhất chơn pháp giới. Ðó là tướng diệu 
cảnh giới của đệ nhất 
nghĩa đế. Nên gọi trang nghiêm cõi 
Phật Vô Lượng Thọ kia là cảnh giới của Ðệ Nhất Nghĩa 
Ðế. Ba thân Phật, bai Báo Y và Chánh vốn không thể phân 
chia, ba thân vốn một thân, ba độ tức là một độ, mà người 
sau vọng chấp phân biệt cho đó là có hóa Phật, chứ không 
phải báo thân Phật, báo và hóa độ không phải là pháp 
tánh độ. Họ không biết rằng hóa Phật y theo pháp của báo 
Phật mà khởi, pháp của báo Phật sẽ vì hóa Phật làm chỗ 
y cứ. 16 câu và một câu ý nói thứ 16 thứ đầu là riêng rẽ, 
thứ chót là tổng hợp vậy
LUẬN 
VĂN: LÀM THẾ NÀO LÀ QUÁN CÔNG ÐỨC 
TRANG NGHIÊM PHẬT THÀNH TỰU? QUÁN CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM PHẬT 
THÀNH TỰU CÓ 8 THỨ: 1) TÒA TRANG NGHIÊM; 2) THÂN TRANG NGHIÊM; 
3) KHẨU TRANG NGHIÊM; 4) TÂM TRANG NGHIÊM; 5) CHÚNG TRANG NGHIÊM; 
6) THƯỢNG THỦ TRANG NGHIÊM; 7) CHỦ TRANG NGHIÊM; 8) CHẲNG DỐI 
LÀM TRỤ TRÌ TRANG NGHIÊM.
Trước đã quán cõi 
Phật, tuy cũng có Quán Phật và Bồ Tát nhưng chỉ quán sát tướng 
chung. Ở đây, riêng Quán tướng công Ðức Phật có 8 thứ như 
sau.
LUẬN VĂN: SAO GỌI LÀ 
TÒA TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "ÐẠI BẢO VƯƠNG VÔ LƯỢNG, 
ÐÀI HOA TỊNH VI DIỆU".
Trước quán quốc độ cũng có quán Phật, ở 
đây quán Phật cũng có quán quốc độ. Tòa 
Phật A Di Ðà vốn dùng thế giới An-Lạc làm tòa như Phật Lô 
Xá Na dùng thiên hoa đài làm tòa, Thiên Hoa Ðài làm tòa tức 
là ngàn thế giới làm tòa. Tòa của Phật A Di Ðà dùng vô lượng 
đại bửu hoa vương của vi diệu thanh tịnh liên hoa đài làm 
tòa. Ðại bảo vương là lấy hoa lớn nhất để làm tòa.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ THÂN TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "MỘT TẦM ÁNH TƯỚNG HẢO, 
SẮC TƯỢNG HƠN QUẦN SANH".
Tán Phật kệ rằng: thân Phật A Di Ðà sắc 
vàng, tướng tốt ánh sáng không ai sánh, lông trắng năm non xây 
chất ngất, mắt xanh bốn bể rộng chơi vơi. Ðó là nói 
thân Phật trang nghiêm. Phật A Di Ðà ánh sáng rộng vô lượng. 
Trong kệ nói ánh sáng một tầm, vì chúng sanh trong cõi này thấy 
Thích Ca Thế Tôn ánh sáng rộng một tầm, do đó quán ánh 
sáng Phật A Di Ðà cũng lấy một tầm làm tiêu chuẩn, nên 
nói ánh sáng tướng hảo của Phật A Di Ðà một tầm.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ MIỆNG TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "TIẾNG NHƯ LAI VI DIỆU, 
PHẠM ÂM NGHE MƯỜI PHƯƠNG".
Lời nói có ra là do môi, lưỡi, răng và hơi 
hòa hợp mà thành, không phải đơn 
độc có miệng mà có thể thành lời. 
Ở đây chỉ nói về 
cách phát âm để giảng. Vì lời nói 
trang nghiêm nên làm cho miệng trang nghiêm. Lời nói của Phật 
A Di Ðà phát ra vi diệu như tiếng nói của trời Phạm Thiên, 
có năng lực làm cho mười phương được nghe.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ TÂM TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "ÐỒNG ÐẤT NƯỚC GIÓ LỬA, 
HƯ KHÔNG KHÓ PHÂN BIỆT, KHÔNG PHÂN BIỆT ÐƯỢC NGƯỜI, KHÔNG 
CÓ TÂM PHÂN BIỆT".
Phật Tâm là Tâm Ý của Phật. Các ý của Phật 
ở nơi ngũ đại: 
đất, nước, gió, lửa, không. Không có phân biệt: như đất 
đai không phân biệt người tốt xấu đi trên đất, đất vẫn 
không khởi phân biệt; Lửa không phân biệt; lửa có thể đốt 
tất cả vật, cỏ khô, cây chiên đàn 
khi đốt không có phân biệt; cho đến hư không dung nạp tất 
cả cũng không khởi phân biệt. Tâm ý của Phật lại cũng 
như thế. Do tâm Phật bình đẳng, khắp độ tất cả chúng 
sanh không phân biệt nghèo hèn sang, 
có căn lành hay không có căn lành, tất cả đều 
được vãng sanh về Tịnh Ðộ, tiến 
đến quả Vô thượng 
Chánh đẳng chánh giác.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ CHÚNG TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "NGƯỜI TRỜI CHÚNG BẤT 
ÐỘNG, SANH BỂ TRÍ THANH TỊNH".
Bình thường giảng ba nghiệp, người có phúc 
nghiệp sanh về cõi trời, cõi người, người 
không có phúc nghiệp sanh về ba ác đạo, người có Bất Ðộng 
Nghiệp sanh về Sắc Cứu Cánh Thiên. Các chúng nhơn thiên ở 
cõi Cực Lạc, căn 
bản đều do sức công đức và biển 
trí tuệ của Phật A Di Ðà mà được vãng sanh, như các nhà 
từ thiện lo lập cô nhi viện, các cô nhi tự mình có thể 
vào, nhưng căn bản là do tấm lòng từ bi của các nhà từ 
thiện, trước đã thiết lập cô nhi viện rồi, những cô nhi 
mới có chỗ vào. Chúng sanh được vãng sanh lại cũng như thế, 
nếu không có sức trí tuệ bổn nguyện của Phật A Di Ðà 
thành lập tây phương Tịnh Ðộ, chúng sanh tuy muốn vãng sanh 
cũng không có chỗ đến.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ THƯỢNG THỦ TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "NHƯ VUA NÚI TU 
DI, THẮNG DIỆU CHẲNG AI HƠN".
Trong đây thượng thủ trang nghiêm 
là chỉ các bậc đại Bồ Tát Ðại Thừa Bất Thối chuyển, 
công hạnh của các Ngài cao vọi như vua núi Tu Di không có 
núi nào cao hơn. Ðại Bồ Tát cũng thế, các Ngài là vua trong 
chúng không có ai hơn.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ CHỦ TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "CHÚNG TRƯỢNG PHU TRỜI 
NGƯỜI, VI NHIỄU KÍNH CHIÊM NGƯỠNG".
Trước đây từ chủ chỉ chúng, từ chúng nêu 
lên thượng thủ. Ðây lại từ thượng thủ chỉ chủ tức là 
lấy chủ hiển bạn, lấy bạn hiển chủ cùng nhau chỉ rõ 
nghĩa chủ và bạn. Vì thế nói người trời, chúng trượng 
phu, cung kính vây quanh chiêm ngưỡng chủ. Ðó là công đức của 
chủ ao vọi không nói ai cũng biết rõ.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
KHÔNG DỐI LÀM TRỤ TRÌ TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "QUÁN BỔN 
NGUYỆN LỰC PHẬT, AI CŨNG ÐỀU LỢI ÍCH, LÀM CHO MAU ÐẦU ÐỦ, 
CÔNG ÐỨC BIỂN BÁU LỚN" TỨC LÀ BỒ TÁT GẶP PHẬT A DI 
ÐÀ, TUY CHƯA CHỨNG THANH TỊNH TÂM, RỐT RÁO CŨNG ÐƯỢC PHÁP 
THÂN BÌNH ÐẲNG, CÙNG VỚI BỒ TÁT THANH TỊNH TÂM KHÔNG NHÁC, 
BỒ TÁT TỊNH TÂM CÙNG BỒ TÁT Ở TRÊN THƯỢNG ÐỊA, CỨU 
KÍNH ÐỒNG ÐƯỢC TỊCH DIỆT BÌNH ÐẲNG.
Trong cõi Cực Lạc do năng lực và bổn nguyện 
của Phật A Di Ðà, nên người vãng sanh 
đều có đủ năng lực của Ðại Thừa 
Bồ Tát bất thối chuyển và sau đó 
có thể thị hiện mười phương, phổ độ chúng sanh, coi việc 
độ sanh như nhiệm vụ chính phải gánh vác, như người Viện 
Trưởng cô nhi viện cần phải dạy cô nhi đủ đức dục, thể 
dục, trí dục, sau đó mới cho vào đời, 
phục vụ xã hội, không chỉ làm người dân lương thiện mà 
phải làm người có tài hữu dụng cho quốc gia. Phật A Di 
Ðà kiến lập Tịnh Ðộ lại cũng như thế. Phàm người sanh 
về nước Cực Lạc, tùy theo nhơn tu có cạn sâu, thành Phật 
có mau có chậm khác 
nhau, nhưng rốt ráo đều được thành 
Phật, vì cõi Cực Lạc có hoàn cảnh rất tốt, làm cho tâm bồ 
đề chúng sanh mỗi ngày mỗi tăng, phiền não mỗi ngày mỗi 
ít, lại không thối thất, chắc chắn đến 
quả Phật, đây là lẽ thực chứ 
không phải nói suông.
Tịnh tâm Bồ Tát có chỗ giảng là từ Bát 
địa trở lên, thông thường giảng Tịnh Tâm Bồ Tát là chỉ 
sơ Ðịa Bồ Tát, vì Bồ Tát Sơ Ðịa có trí huệ vô lậu tương 
ưng. Phàm phu, nhị thừa chưa chứng được tịnh tâm vì chưa 
chứng được Sơ 
địa. Tuy không phải là Sơ Ðịa Bồ 
Tát nhưng họ có thể là Ðăng Ðịa Bồ Tát, tương lai chắc 
chắn đồng chứng 
được pháp thân bình đẳng không khác. Tuy là 
Bồ Tát Sơ Ðịa song có thể cùng Thượng Ðịa Bồ Tát đồng 
chứng được tịch diệt bình đẳng. Tịch diệt tướng là 
thật tướng của các pháp là pháp tánh thanh tịnh bình 
đẳng chỉ có Phật với Phật mới được rốt ráo. Có người 
cho rằng người niệm Phật sanh về tịnh độ liền được 
thành Phật. Cần nên biết rằng: sanh 
về Cực Lạc thế giới chưa chứng ngay quả Phật hoặc đại 
Bồ Tát mà phải có thời gian tu tập. Có hạng phàm phu, nhị 
thừa chưa chứng tịnh 
tâm, cũng có người đã chứng tịnh 
tâm của Sơ Ðịa Bồ Tát, nhưng tất cả đều 
chắc được lợi ích không thối chuyển đến khi thành 
Phật.
Lược nói 8 câu chỉ bày 8 công đức là chỉ 
bày công đức trang nghiêm tự lợi và lợi tha của Như Lai 
theo thứ lớp thành tựu nên biết.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ QUÁN TRANG NGHIÊM CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM CỦA BỒ TÁT ÐƯỢC 
THÀNH TỰU? QUÁN CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM CỦA BỒ TÁT ÐƯỢC THÀNH 
TỰU LÀ QUÁN BỒ TÁT KIA CÓ BỐN THỨ CÔNG ÐỨC TU HÀNH CHÍNH 
ÐƯỢC THÀNH TỰU CẦN NÊN BIẾT.
Trước đã quán cõi 
Phật và công đức Phật, lại nói làm thế nào mà quán công 
đức của Bồ Tát ở thế giới kia là tổng quát quán bốn 
thứ chánh tu của Bồ Tát mà thành tựu. Phật là quả, Bồ 
Tát là nhơn, Bồ Tát ở trong nhơn tu hai lối là tự lợi và 
lợi tha. Vì Bồ Tát có bốn thứ Chánh Tu nên khác với ngoại 
đạo là tà tu.
LUẬN VĂN: BỐN MÓN CHÍNH TU LÀ 
GÌ? 1) Ở TRONG MỘT CÕI PHẬT THÂN CHẲNG LAY ÐỘNG MÀ CÓ CÁC 
THỨ THÂN VÀ HÓA THÂN KHẮP MƯỜI PHƯƠNG, ÐÚNG PHÁP TU HÀNH 
THƯỜNG LÀM CÁC PHÁP SỰ NHƯ KỆ NÓI: "NƯỚC AN LẠC 
THANH TịNH, THƯỜNG CHUYỂN XE VÔ CẤU, ẢNH HÓA PHẬT BỒ 
TÁT, TRỤ TRÌ NHƯ TU DI, MỞ ÐƯỜNG CHO CHÚNG SANH, NHƯ HOA SEN 
TỪ BÙN NHƠ".
Bồ Tát trong nước Cực Lạc có thể thành tựu 
ở trong một cõi Phật, thân không qua lại làm ứng hóa khắp 
mười phương, có công đức thù thắng phổ độ khắp chúng 
sanh. Bồ Tát nếu lìa thế giới này qua các thế giới mười 
phương kia để ứng hóa thì không thù thắng, nếu ở thế giới 
này mà không ứng hóa trong thế giới Cực Lạc, có thể 
không rời Cực Lạc mà ứng hóa mười phương phổ độ 
chúng sanh đó là điều thù thắng. Như 
người thật tu hành thường làm các Phật sự là như Phật Bồ 
Tát làm các công đức thành tựu, thường qua lại trong mười 
phương, lấy việc giáo hóa chúng sanh làm sự nghiệp, Bồ 
Tát thường chuyển bánh xe pháp làm chúng sanh lìa tất cả 
phiền não cấu, tuy có hiện Phật 
thân, hiện Bồ Tát thân an trụ chẳng động. Nên 
kệ nói: "Thường chuyển xe vô cấu, ảnh hóa Phật, Bồ 
Tát, trụ trì như Tu Di, mở đường cho chúng sanh, như hoa sen 
ở trong bùn không có ánh sáng tới, hoa sen không thể nở. 
Chúng sanh cũng thế, tuy có chủng tử lành, nhưng không có Bồ 
Tát ứng hóa để 
độ cũng không thành tựu."
LUẬN VĂN: 2) ỨNG HÓA THÂN KIA, TẤT CẢ THỜI 
GIAN, KHÔNG TRƯỚC KHÔNG SAU, MỘT TÂM MỘT NIỆM, PHÓNG ÁNH 
SÁNG LỚN, ÐỀU CÓ THỂ ÐẾN KHẮP MƯỜI 
PHƯƠNG, GIÁO HÓA CHÚNG SANH, ÐỦ CÁC PHƯƠNG TIỆN, CHỖ LÀM 
TU HÀNH DIỆT HẾT KHỔ NÃO CHÚNG SANH, NHƯ KỆ NÓI: "ÁNH 
TRANG NGHIÊM VÔ CẤU, MỘT NIỆM VÀ MỘT THỜI, CHIẾU KHẮP 
CÁC HỘI PHẬT, LỢI ÍCH CÁC QUẦN SANH".
Ứng hóa thân của Bồ Tát không phải lìa chỗ 
này mà ứng hóa nơi chỗ kia, các Ngài đều có thể phóng 
ánh sáng lớn khắp cả mười phương giáo hóa chúng sanh. Phương 
pháp giáo hóa của Bồ Tát không những có nhiều thứ phương 
tiện mà khi dạy bảo phương pháp tu hành cũng có nhiều phương 
tiện, tùy theo căn cơ mà dạy bảo trao truyền. Chúng sanh nào 
hợp với pháp môn Niệm Phật thì dạy niệm Phật, người nào 
hợp với pháp môn Thiền Ðịnh thì dạy cho pháp tu Thiền Ðịnh, 
khiến cho chúng sanh đúng pháp mà tu hành, dứt hết vô minh 
phiền não, vĩnh viễn nhổ hết gốc sanh tử,không phải như 
những nhà từ thiện ở thế gian chỉ có thể giúp tạm dừng 
những quả khổ của chúng sanh, nhưng không thể dứt vĩnh viễn 
cái nhơn (nguồn gốc) khổ của chúng sanh.
LUẬN VĂN: 3) Ở TRONG THẾ GIỚI CỦA NGÀI 
ÐỘ HẾT KHÔNG CÒN THỪA, ÁNH SÁNG CHIẾU HẾT CÁC ÐẠI 
CHÚNG TRONG HỘI PHẬT KHÔNG CÒN THỪA, CÚNG DƯỜNG CUNG KỈNH TÁN 
THÁN VÔ LƯỢNG CHƯ PHẬT NHƯ KỆ NÓI: "RƯỚI THIÊN NHẠC, 
HOA, Y, CÁC DIỆU HƯƠNG CÚNG DƯỜNG, TÁN CÔNG ÐỨC CHƯ PHẬT, 
KHÔNG CÓ LÒNG PHÂN BIỆT".
Bồ Tát ở cõi Cực Lạc hóa sanh trong thế giới 
mười phương, không có một thế giới nào không đi 
đến để hóa độ nên gọi là không 
còn thừa. Các Ngài hóa sanh như thế và cũng phóng ánh sáng 
như thế. Trong đây nói các Bồ Tát ở cõi Cực Lạc không chỉ 
đi đến mười 
phương phổ độ chúng sanh mà đến khắp mười phương cúng 
dường chư Phật nên gọi "trên cầu 
đạo Phật, dưới 
cứu độ chúng sanh" là thế. Vì 
sao Bồ Tát có thể qua đến mười phương cúng dường tán 
thán chư Phật? Vì Bồ Tát không có công dụng đạo và không 
khởi niệm phân biệt nên có thể qua lại tự nhiên.
LUẬN VĂN: 4) CÁC NGÀI 
Ở TRONG TẤT CẢ THẾ GIỚI KHÔNG CÓ TAM BẢO TRONG MƯỜI 
PHƯƠNG LÀM TRỤ TRÌ TRANG NGHIÊM PHẬT PHÁP TĂNG BẢO, CÔNG ÐỨC 
LỚN NHƯ BỂ CẢ, KHẮP CHỈ BÀY LÀM CHO MỌI NGƯỜI HIỂU RÕ 
ÐÚNG PHÁP TU HÀNH NHƯ KỆ NÓI: "Ở CÁC CHỖ THẾ GIỚI,KHÔNG 
CÔNG ÐỨC PHẬT PHÁP, TA ÐỀU NGUYỆN SANH ÐẾN, CHỈ PHẬT 
PHÁP NHƯ PHẬT".
Trước đã nói Bồ Tát đến chỗ thế giới 
có Phật, ở đây nói Bồ Tát đến thế giới không Phật, như 
cõi ta bà này có Thích Ca Thế Tôn, hiện 
tại Ngài đã vào Niết Bàn, nhưng còn tượng Phật tồn tại, 
kinh điển lưu truyền, chúng sanh y theo pháp Phật tu hành đến 
chứng quả đó là có Phật. Có thế 
giới nguồn gốc không có Phật pháp, chúng sanh chưa hề có 
ai thoát được, khổ ấy đồng với địa ngục! Bồ Tát có 
đại từ bi tâm, đã sanh về nước Cực 
Lạc, dùng huệ nhãn biết được cõi không Phật pháp, phát 
nguyện sanh đến 
độ, hoằng truyền Phật pháp, kiến lập Tam-Bảo, 
làm cho chúng sanh, trước chẳng được 
thấy nghe Tam-Bảo, hiểu biết được pháp tánh chơn thật, 
sau đó theo chỗ hiểu biết mà tu 
hành, được chứng 
đạo quả. Phương pháp kiến lập khai thị của các Ngài y như 
Phật đã kiến lập, nên nói: "Chỉ 
Phật Pháp như Phật". 
Nếu Bồ Tát đã đầy đủ công đức cũng bằng không, nên Bồ 
Tát muốn có công đức phải giáo hóa chúng sanh. Nên 
Bồ Tát Ðịa Tạng đã nói: " Ta không vào địa ngục thì 
ai vào địa ngục.” 
đó là ý nghĩa này.
LUẬN VĂN: NÓI CÔNG ÐỨC 
TRANG NGHIÊM PHẬT ÐỘ THÀNH TỰU, CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM BỒ 
TÁT THÀNH TỰU,CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM PHẬT THÀNH TỰU, CÔNG ÐỨC 
TRANG NGHIÊM BỒ TÁT THÀNH TỰU ÐÂY LÀ THỨ THÀNH TỰU NGUYỆN 
TÂM TRANG NGHIÊM, LƯỢC NÓI MỘT CÂU LÀ PHÁP THÂN CHƠN PHẬT 
TRÍ HUỆ VÔ VI THANH TỊNH, NAY CÓ 2 THỨ CẦN NÊN BIẾT. THẾ 
NÀO LÀ HAI THƯÚ THANH TỊNH? : 1) KHÍ THẾ GIAN THANH TịNH; 2) 
CHÚNG SANH THẾ GIAN THANH TịNH. KHÍ THẾ GIAN THANH TỊNH LÀ NHẰM 
VÀO 17 THỨ CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM QUỐC ÐỘ PHẬT THÀNH TỰU 
GỌI LÀ THẾ GIAN TỊNH. CHÚNG SANH THẾ GIAN THANH TỊNH LÀ NÓI 
VỀ 8 THỨ CÔNG ÐỨC PHẬT TRANG NGHIÊM THÀNH TỰU VÀ 4 THỨ 
CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM THANH TịNH CỦA BỒ TÁT THÀNH TỰU GỌI 
LÀ CHÚNG SANH KHÍ THẾ GIAN THÀNH TỰU. NHƯ THẾ MỘT CÂU PHÁP 
GỒM CẢ 2 THỨ CẦN NÊN BIẾT.
Trong Quán sát môn đã 
phân biệt rõ ràng ba món công đức 
xon, ở đây lấy ba thứ quán sát trước 
làm một câu pháp. Ở trước nói ba thứ công đức trang nghiêm 
là chỉ chỗ thành tựu tâm nguyện trang nghiêm, vì cái nhơn của 
ba thứ công đức thành tựu là năng 
lực đại nguyện của Phật A Di Ðà. 
Trong kinh Vô Lượng Thọ nói về nhơn thành tựu của Phật A 
Di Ðà là do Pháp Tạng Tỳ Kheo pháp 48 đại 
nguyện, sau đó quyết lòng y theo thệ 
nguyện, tu các hạnh nguyện trang nghiêm mà thành tựu cái quả 
thệ nguyện là thế giới Cực Lạc. Như Ma Ni Bảo Châu do tim 
của đại bàng Kim Súy Ðiểu mà thành, thế giới Cực Lạc 
này là do tâm nguyện của Phật A Di Ðà mà thành. Phật A Di 
Ðà tùy tâm nguyện thành tựu các Phật sự ở nước Cực Lạc, 
làm cho chúng sanh đoạn hết các phiền não, chứng Vô thượng 
bồ đề.
Chư Phật dùng lòng đại 
từ bi phổ độ chúng sanh tuy đồng mà 
phương pháp độ 
sanh có khác. Như ở cõi này đức Thích 
Ca Thế Tôn dùng ngôn ngữ âm thanh thuyết pháp độ sanh, nên 
nói: "Chơn Giáo thể cõi này, nhờ âm thinh thanh tịnh". 
Chúng sanh ở Hương Quốc dùng mùi hương mà thuyết pháp, cho 
đến có chỗ dùng hoa và giấc mộng mà thuyết 
pháp độ sanh. Thế giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà 
chính dùng sự thành tựu của thế giới An-Lạc mà làm pháp 
môn, phương tiện duy nhất để 
độ sanh.
Người muốn sanh về tịnh độ chỉ cần phát 
nguyện liền đặng vãng sanh, vì Cực 
Lạc tịnh độ là do nguyện lực của Phật A Di Ðà tạo 
thành, mà trong lời thệ nguyện đã có mong muốn tất cả 
chúng sanh trong mười phương đều 
được vãng sanh về nước kia. Nước kia đã 
hàm chứa năng lực nhiếp thọ chúng sanh các thế giới ở mười 
phương phát nguyện vãng sanh về, như viên đạn trong ống đồng 
bị sức ép của hơi thổi bắt buộc phải bay ra ngoài 
nên người nguyện sanh về tịnh độ 
quyết định được sanh. Bình thường người được sanh về 
các tịnh độ khác cần phải tu đến Sơ Ðịa 
Bồ Tát mới có thể thành tựu tự tha thọ dụng của Tịnh 
Ðộ. Người muốn thành tựu 
tịnh độ khác đều do tu đến địa vị ấy thì 
tự nhiên thành, không phải chỉ một lần phát nguyện như 
người cầu sanh về Cực Lạc liền được vãng sanh. Chúng ta 
muốn sanh về tịnh độ 
Cực Lạc không phải tu đầy đủ cái Nhơn của tịnh độ mà 
chỉ cần phát nguyện vãng sanh là có thể đến 
được. Nếu giảng theo luật nhơn quả thông thường không tu 
nhơn thì không thể chứng quả chỗ 
trái ngược, nhưng trong Phật pháp có 5 việc không thể nghĩ 
bàn. Ở đây không cần tu nhơn mà được 
sanh tịnh độ là do khả năng nguyện lực Phật không thể 
nghĩ bàn trong năm 
điều không thể nghĩ bàn mà thành tựu.
Trước phân tích trong quán sát môn có 29 thứ 
công đức, nay gồm vào một câu pháp đó là 
thanh tịnh pháp. Thanh tịnh pháp này Pháp Giới Thanh Tịnh, là 
pháp tánh vô lậu trí của Phật đã chứng được. Phật lấy 
pháp tánh làm thân, mà pháp tánh cũng là pháp thân vô vi của 
Phật. Trí tuệ chơn thực là bốn trí Bồ Ðề. Bốn Trí là: 
Trí vô lậu, Trí vô hư vọng, Trí vô điên đảo và Trí bồ 
đề. Trí này có thể chứng ngộ và tương ưng, chỗ chứng của 
trí này là thanh tịnh pháp giới. Pháp giới thanh tịnh này 
là pháp thân vô vi của Phật, vì không có trí phân biệt, 
nên chứng lý không phân biệt, trí và lý như như, lìa cả tướng 
năng và sở. Phạm vi của chúng sanh có rộng có hẹp. Nghĩa rộng: 
tất cả pháp sanh diệt của giống hữu tình và vô tình đều 
gọi là chúng sanh. Nghĩa hẹp: Các pháp thuộc hữu tình như 
Phật, Bồ Tát cho đến vi tế côn trùng đều gọi là chúng 
sanh. Tuy vậy, tương đối mà nói Phật không phải là chúng 
sanh vì Ngài nhiếp cả Bồ Tát và hữu tình. Nếu nói cho đúng 
vì chúng sanh tương 
đối với thánh nhơn, nên trong 10 
pháp giới, bốn bậc thánh không phải là chúng sanh, chỉ có 
sáu bậc phàm là chúng sanh thôi. Trong đây chúng sanh thế gian 
là gồm nghĩa cả Phật và Bồ Tát.
Hoa nghiêm tông nói: Thế gian có ba: 1) Khí thế 
gian; 2) Chúng sanh thế gian; 3) Chánh giác thế gian. Luận này 
nói có 2 thế gian so với Tông Hoa nghiêm: Chánh giác thế gian 
tức là nhiếp về chúng sanh thế gian. Có tướng sai biệt ở 
thế gian đều là thế gian công đức. Nếu dứt cả ngôn ngữ, 
tâm thực hành đạo tịch diệt, không có tướng sai biệt là 
tướng vô lậu của thế gian. Trong ấy tuy nói thế gian, nhưng 
do công đức vô lậu thành tựu, cũng chính là thế gian mà xuất 
thế gian vậy.
LUẬN VĂN: CÁC BỒ TÁT TU HÀNH 
CHỈ QUÁN NHƯ THẾ, TÂM NHU NHUYẾN THÀNH TỰU, BIẾT ÐƯỢC 
NHƯ THẬT, RỘNG GIẢNG CÁC PHÁP NHƯ THẾ LÀ XẢO PHƯƠNG TIỆN 
HỐI HƯỚNG THÀNH TỰU.
Trong luận này gồm có năm môn, nói riêng 
Quán Sát là Quán Sát Môn, hiện tại giảng làm thế nào khéo 
léo hồi hướng tức là Hồi Hướng Môn. Trong năm môn: Tác 
Nguyện Môn tu CHỈ làm chính, Quán sát Môn tu QUÁN làm chính. 
Lễ bái và Tán Thán môn là phương tiện trước tiên của Chỉ 
Quán, nên bốn môn của Bồ Tát tu hành như lễ bái, quán 
sát, tán thán, tác nguyện là tu CHỈ QUÁN. Trong năm môn, Tác 
Nguyện Môn vô cùng quan trọng, vì trước khi chưa làm công đức 
lễ bái, tán thán cần phải lập nguyện trước. Chính khi 
làm công đức cũng phải có nguyện, vì 
có nguyện nên công đức mới có chủ trương, tâm tu mới 
chuyên cần. Nếu công có chủ hướng là công không tản mát 
như tiền đã xỏ xâu không thể rơi được. Tâm có chuyên cần, 
khi phát nguyện vãng sanh thì tâm chuyên chú ở tây phương tịnh 
độ, nhờ đó gom 
tán loạn về chỗ an định, đó gọi là tâm định. Y theo Quán 
sát mà tu hành, do phát nguyện mà khởi 
ra quán sát. Quán sát cõi Phật y chánh trang nghiêm là trong Chỉ 
có Quán, trong Quán có Chỉ, Chỉ và Quán song hành. Ba Quán 
sát trên là nói rộng. Ba gồm lại thành một, chỉ có một 
pháp giới thanh tịnh trùm khắp.
Thành tựu tâm Nhu Nhuyến. Tâm có phiền não 
thì không nhu nhuyến cũng như ngựa hoang; nếu tu Chỉ Quán 
thì có thể hàng phục 
được phiền não thì tâm trở nên 
nhu nhuyến, nếu không tu được tâm nhu nhuyến thì các cảnh 
tham trước ngũ dục hiện ra. Không căn 
cứ tu Chỉ để tâm định thì không thể quán sát được rõ 
ràng. Vì thế Chỉ và Quán làm cho tâm nhu nhuyến được thành 
tựu.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ BỒ TÁT DÙNG PHƯƠNG TIỆN ÐỂ HỒI HƯỚNG? BỒ TÁT DÙNG 
XẢO PHƯƠNG TIỆN HỒI HƯỚNG LÀ NÓI LỄ BÁI NĂM MÔN TU HÀNH 
ÐÃ NHÓM TẤT CẢ CÔNG ÐỨC THIỆN CĂN, KHÔNG CẦU TỰ MÌNH 
CÓ ÐƯỢC AN VUI MÀ MUỐN NHỔ HẾT KHỔ CHO TẤT CẢ CHÚNG 
SANH, KHỞI NGUYỆN ÐƯA CHÚNG SANH ÐỒNG SANH VỀ CÕI PHẬT AN LẠC 
KIA, ÐÓ GỌI LÀ BỒ TÁT DÙNG XẢO PHƯƠNG TIỆN HỒI HƯỚNG 
THÀNH TỰU.
Trước giảng tâm sở y của hồi hướng, giờ 
đây giảng về nghĩa chính của hồi hướng. Ðã 
có công đức thành tựu mới có thể hồi hướng, vì nhờ lễ 
bái tán thán ở trước nhóm đủ 
thiện căn công đức sau mới hồi hướng. Công là công hạnh, 
đức là quả đức, phàm công thực 
hành đến khi thành tựu gọi là công đức. 
Thông thường lấy năm thứ thiện căn: Tín, tấn, niệm, định, 
tuệ và ba vô lậu thiện căn: đương tri, dĩ tri, cụ tri là 
tổng tướng của 
thiện căn. Kỳ thực tất cả công đức đều gọi là thiện 
căn. Như niệm Phật, niệm đến không còn 
tạp niệm tức là thành tựu một thứ công lực niệm Phật, 
do công lực niệm Phật này lâu dần thành tựu thiện căn niệm 
Phật. Như người ưa làm việc bố thí, làm việc bố thí 
lâu dần biến thành tập quán thành tựu bố thí công đức và 
thiện căn bố thí thành tựu. Trái lại tạo ác cũng có ác căn 
thành tựu như tham sân si tam độc gọi là tam độc 
căn, nên nói căn tánh ác, căn tánh hạ liệt, các người này 
không có thiện xảo để hồi hướng, 
vì tâm chấp ngã, chỗ công đức 
đều vì bản ngã mà làm, đó là 
công đức hữu lậu trước tướng, không phải là công đức 
xuất thế. Công đức hữu lậu này 
chỉ làm nhơn cho quả hữu lậu ở nhơn thiên, được sanh vào 
cõi nhơn thiên. Người thiện xảo hồi hướng không cần gìn 
giữ cái vui riêng cho tự thân, mà làm cho tất cả chúng sanh 
lìa khổ được vui. Như chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh tịnh 
độ không phải chỉ cầu tự mình đến chỗ An-Lạc mà vì cứu 
bạt tất cả khổ của chúng sanh mà sanh về tịnh độ. 
Ở đời, những nhà từ thiện bố 
thí cơm ăn áo mặc tuy giúp tạm thời bớt khổ chớ không nhổ 
hết nguồn gốc khổ. Chỉ có Phật pháp làm cho chúng sanh đoạn 
trừ phiền não chứng quả bồ đề mới có thể nhổ hết cội 
gốc khổ cho tất cả chúng sanh. Pháp môn tịnh độ khuyên 
người vãng sanh, tuy chưa dạy chúng sanh tức khắc diệt trừ 
phiền não, song sanh về tây phương Cực Lạc có thể lìa khổ, 
lần lần diệt hết phiền não thành vô lượng giác.
LUẬN VĂN: BỒ TÁT KHÉO BIẾT HỒI HƯỚNG THÀNH 
TỰU NHƯ THẾ LÀ XA LÌA BA THỨ TRÁI VỚI PHÁP BỒ ÐỀ. THẾ 
NÀO LÀ BA THỨ? 1) Y THEO TRÍ HUỆ MÔN KHÔNG CẦU TỰ LẠC, XA 
LÌA TÂM THAM TRƯỚC CỦA TỰ THÂN; 2) Y THEO TỪ BI MÔN NHỔ HẾT 
TẤT CẢ GỐC KHỔ CHO CHÚNG SANH; 3) Y THEO PHƯƠNG TIỆN MÔN 
LÒNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ CHÚNG SANH, XA LÌA TÂM CUNG KÍNH CÚNG 
DƯỜNG TỰ THÂN. ÐÓ LÀ XA LÌA BA PHÁP TRÁI VỚI TÂM BỒ ÐỀ.
Trong đây nói Bồ Ðề 
tức chỉ Ðại Thừa bồ đề 
tâm, nếu không đúng như thế mà hồi 
hướng tức là trái với ba thứ tâm bồ đề, 
nếu trái với tâm bồ đề là trái với 
bản ý thành lập tịnh độ của Phật A Di Ðà. Người tu Phật 
cốt yếu lấy tâm mình làm điểm xuất phát, nếu có ngã chấp 
tức thành phàm phu. Vì thế hàng nhị thừa dùng phương tiện 
tiêu cực để diệt trừ ngã chấp chứng A la hán, hàng Ðại 
Thừa bồ tátlày lòng Ðại Bi Vô Ngã để viên thành Phật Quả.
Tiếng Phạn Tát Ca Da Kiên dịch là thân kiến, 
vì ở thân kiến nên có ngã chấp, nếu có ngã chấp là có 
tham ái, si mê, ngã mạn. Trong Duy Thức Luận nói: Ngã chấp 
có hai thứ: 1) Do Mạt Na Thức thứ bảy duyên theo kiến phần 
của thức A Lại Da thứ tám làm ngã là Câu Sanh Ngã chấp, 
Tâm ngã chấp này là căn bản. 2) Do ý thức thứ sáu duyên 
theo năm uẩn mà khởi ra ngã chấp là chung cả câu sanh và 
phân biệt ngã chấp. Muốn phá ngã chấp cần phải dùng trí 
Bát nhã. Nhờ trí Bát nhã phá nhơn ngã chấp, diệt phiền 
não chướng, chứng lý sanh không. Phá pháp ngã đoạn sở tri 
chướng, chứng lý pháp không. Sanh không là hiểu thấu tâm 
chúng ta đều do ngũ uẩn hòa hợp mà có, không thật thể. 
Nó như một đoàn thể họp bởi nhiều phần tử mà thành, nếu 
bỏ các phần tử ra thì đoàn thể không thành. Chúng ta cũng 
thế, tất cả đều do các duyên hòa hợp nên giả có ngã tướng, 
không có ngã thực. Do hiểu được sanh không, tiến thêm một 
bước nữa ta thấy, người do năm uẩn hoà hợp mà thành, 
các duyên hòa hợp nên năm uẩn vốn không, thành tựu Quán 
Pháp Không. Biết rõ người và pháp đều không, nên không khởi 
lòng tham và không cầu riêng mình được an vui. Nên nói: Y 
theo môn trí tuệ, không cầu tự vui riêng, xa lìa tâm ngã tham 
trước của tự thân.
Từ bi của thế gian và từ bi của Phật pháp 
không đồng. Từ Bi của thế gian là dùng tự ngã để làm việc 
từ bi; Từ bi của Phật pháp lấy vô ngã làm từ bi, nên gọi 
là Ðại Bi. Từ Bi trong Phật pháp có ba thứ: Sanh duyên từ, 
Pháp duyên từ và Vô duyên từ. Duyên cái khổ của chúng sanh 
mà sanh lòng từ bi gọi là Sanh duyên Từ. Không thấy có mình 
và người mà khởi lòng từ bi là Pháp Duyên Từ. Dùng cái 
không công dụng mà khởi từ bi gọi là Vô Duyên Bình Ðẳng 
Từ. Chúng sanh vốn ở trong cái không khổ mà vọng khởi ra 
cái khổ, đó là điều rất cực khổ. Chúng sanh khổ não như 
thế, như ở trong nhà lửa cháy lớn. Bồ Tát có thể dùng 
lòng từ bi làm cho chúng sanh xa lìa cội gốc khổ được an 
vui rốt ráo, nên nói: Y theo từ bi môn nhổ tất cả khổ cho 
chúng sanh, xa lìa tâm không An-Lạc của chúng sanh. Người đời 
lập công, lập ngộn, lập đức đều không lìa 
tâm ngã chấp, nên khi thành công chỉ muốn một mình được 
nhận lợi ích. Bồ Tát không phải thế, Bồ Tát nguyện sanh 
về thế giới An-Lạc là vì thương xót tất cả chúng sanh, 
không phải đem thế 
giới Cực Lạc để cung cấp an vui cho chính mình. 
Nên Bồ Tát y theo trí huệ làm căn 
bản để khởi ra phương tiện làm hạnh 
hồi hướng lợi tha, thương tưởng tất cả chúng sanh xa lìa 
lòng cung cấp cho riêng mình. Có ba pháp trái với Bồ Ðề 
làm Ðại bồ đề không thành, xa lìa ba pháp trái bồ đề này 
thì Ðại Thừa bồ đề tâm và Ðại Thừa nghĩa môn thành tựu.
LUẬN VĂN: BỒ TÁT XA LÌA, 
ÐƯỢC BA THỨ TRÁI VỚI BỒ ÐỀ MÔN, ÐƯỢC ÐẦY ÐỦ BA THỨ 
THUẬN BỒ ÐỀ MÔN. BA THỨ ẤY THẾ NÀO: 1) VÔ NHIỄM THANH TỊNH 
TÂM: KHÔNG VÌ TỰ THÂN MÀ CHẠY TÌM CÁC THỨ VUI RIÊNG. 2) AN 
THANH TỊNH TÂM: DÙNG HẾT NĂNG LỰC NHỔ TẤT CẢ GỐC KHỔ 
CHO CHÚNG SANH. 3) LẠC THANH TỊNH TÂM: DÙNG NĂNG LỰC MÌNH LÀM 
CHO CHÚNG SANH ÐƯỢC QUẢ ÐẠI BỒ ÐỀ. VÌ THẾ, NÊN BỒ 
TÁT ÐƯA CHÚNG SANH VỀ CÕI AN LẠC CỦA PHẬT A DI ÐÀ. ÐÓ LÀ 
BA THỨ TUỲ THUẬN ÐẦY ÐỦ BỒ ÐỀ MÔN CẦN NÊN BIẾT.
Phàm làm việc gì không vì tự lợi thì có thể 
không nhiễm. Ở đời 
lập công nghiệp hoặc mọi việc đều 
vì mình, vì muốn nhận được cho riêng mình nên tâm bị nhiễm. 
Còn Bồ Tát không vì tự lợi cho bản thân, nên không có tâm 
nhiễm. Không vì tự thân nên thành tựu vô nhiễm thanh tịnh. 
Không phải tự thân nên thành tựu vô nhiễm thanh tịnh. 
Không phải tự thân thanh tịnh mà có thể nhổ tất cả gốc 
khổ cho chúng sanh, làm cho chúng sanh đều 
được thanh tịnh. Ðó là thành tựu 
an thanh tịnh tâm. Không phải chỉ làm cho chúng sanh lìa khổ 
mà còn làm cho họ chứng được 
pháp lạc Vô thượng bồ đề. Ðó 
là Lạc thanh tịnh Tâm. Nếu 
đem ba thanh tịnh tâm dùng ba đức đối nhau thì 
vô nhiễm thanh tịnh là đoạn 
đức; an thanh tịnh là an đức, lạc thanh tịnh là trí đức. 
Ba pháp thanh tịnh cùng với tâm bồ đề tương ưng đầy đủ 
nên gọi là pháp môn tùy thuận bồ 
đề được đầy 
đủ.
LUẬN VĂN: NÓI ÐẾN 
BA MÔN TRÍ TUỆ, TỪ BI, PHƯƠNG TIỆN BÁT NHÃ, BÁT NHÃ CŨNG 
NHIẾP THỦ PHƯƠNG TIỆN CẦN NÊN BIẾT.
Ở trước ba môn nhiếp đủ phương tiện. Bát 
nhã có ba: 1) Văn tự Bát nhã: 2) Quán 
chiếu Bát nhã; 3) Thật tướng Bát nhã. Phương tiện là tất 
cả hạnh tự lợi và lợi tha. Bát nhã là tiếng Phạn dịch 
là trí huệ. Phương tiện là tiếng Trung Hoa, Phạn ngữ là 
Au-Hoa. Tu tất cả hạnh phương tiện đều làm cho chứng nhập 
thật tướng, nên gọi phương tiện nhiếp thủ Bát nhã. Y 
theo Bát nhã tu tất cả hạnh, hiểu biết tất cả pháp 
không, không trụ 
trước, đó là Bát nhã nhiếp thủ phương 
tiện. Bát nhã nhiếp thủ phương tiện và phương tiện cũng 
nhiếp thủ Bát nhã. Phương tiện nếu rời Bát nhã là khởi 
ngã chấp, Bát nhã nếu lìa phương tiện là chấp không kiến. 
Kinh Duy Ma nói: "Có trí huện thì phương tiện cởi mở, 
không trí huệ bị phương tiện trói buộc". Thực hành 
trí huệ mà có phương tiện thì cái bất không cũng thành chơn 
không; thực hành phương tiện mà có trí huệ thì cái phi hữu 
cũng thành diệu hữu. Ở chỗ Mật Giáo của Mật Tông hiện 
bày kim cang Phật mẫu cũng tức là nghĩa chính yếu của Bát 
nhã và phương tiện. Như con chim bay giữa hư không, chim đủ 
phương tiện, hư không đủ Bát nhã. 
Chim không có hư không thể bay, hư không có chim bay qua sẽ 
không hiện bày được cái vô ngại dụng của hư không. Phương 
tiện không có Bát nhã không đi, Bát nhã không có phương tiện 
sẽ không có công dụng.
LUẬN VĂN: NÓI ÐẾN 
VÔ NHIỄM THANH TịNH TÂM, AN THANH TỊNH TÂM, LẠC THANH TỊNH 
TÂM. BA THỨ TÂM NÀY TOÁM LƯỢC VỀ MỘT CHỖ LIỀN THÀNH TỰU 
DIỆU LÁC THẮNG CHƠN NHƯ CẦN NÊN BIẾT.
Diệu Lạc Thắng chơn như trong kinh Niết Bàn 
gọi là đại Niết Bàn. Ðại Niết Bàn này thành tựu ba đức: 
Pháp thân, Bát nhã, giải thoát. Ba đức này không phải một, 
không rời nhau, không thiên, không lệch. Ðó chính là Diệu Lạc 
Thắng Tâm. Như thế, ba tâm thành tựu được diệu lạc thắng 
tâm. Như thế, ba tâm thành tựu được diệu lạc thắng tâm 
tức là thành tựu đại Niết Bàn tâm, là Vô thượng bồ đề 
tâm và cũng là diệu tâm vô tướng thật tướng của Niết Bàn 
Phật quả. Chư tổ thiền tông lấy tâm truyền tâm, chính là 
truyền tâm này chính là hiển rõ trong Thiền có Tịnh, trong Tịnh 
có Thiền, chính Thiền mà Tịnh, chính Tịnh mà Thiền.
LUẬN VĂN: BỒ TÁT NHƯ THẾ DÙNG 
TÂM TRÍ TUỆ LÀM PHƯƠNG TIỆN, TÂM VÔ CHƯỚNG, TÂM THẮNG CHƠN 
CÓ THỂ SANH VỀ QUỐC ÐỘ PHẬT THANH TịNH CẦN NÊN BIẾT.
Ở trước tuy 
nói ba thứ: Trí tuệ, từ bi, phương tiện nhưng tất cả đều 
nhiếp về tâm trí tuệ và phương tiện. 
Tâm Viễn ly nhiếp về vô chướng tâm. Ba tâm vô nhiễm thanh 
tịnh nhiếp về Thắng Chơn Tâm. Bồ Tát do các tâm như thế 
mà có thể sanh về quốc độ thanh tịnh.
LUẬN VĂN: ÐÓ GỌI 
LÀ BẬC ÐẠI BỒ TÁT TÙY THUẬN THEO NĂM THỨ PHÁP MÔN MÀ CHỖ 
LÀM ÐƯỢC TÙY Ý TỰ TẠI THÀNH TỰU, NHƯ ÐÃ NÓI THÂN NGHIỆP, 
Ý NGHIỆP, KHẨU NGHIỆP, TRÍ NGHIỆP, PHƯƠNG TIỆN TRÍ NGHIỆP 
ÐỀU TÙY THUẬN THEO PHÁP MÔN. LẠI CÓ NĂM MÔN LẦN LƯỢT THÀNH 
TỰU NĂM THỨ CÔNG ÐỨC CẦN NÊN BIẾT.
Trên quán thành ba thứ Niết Bàn thành đại Bồ 
Tát nên gọi là Ma ha tát. Tự tại nghĩa là tự do. Từ năm món 
trên lễ bái thuộc thân nghiệp, tán thán thuộc khẩu nghiệp, 
tác nguyện thuộc ý nghiệp, quán sát thuộc trí nghiệp; trong 
quán sát tuy có sự tương ưng của tâm và tâm sở mà chính sự 
hay quán sát thuộc về trí tuệ. Hồi hướng thuộc về 
phương tiện trí nghiệp, vì không trước không tưởng mới mới 
có thể hồi hướng, nếu không có trí tuệ làm sao không chấp 
trước. Phổ thông mà nói nghiệp tham chướng 
nặng đều chỉ về nghiệp bất thiện, nhưng giảng ở 
phương diện sự nghiệp và hành nghiệp 
thì nghiệp có thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, có hữu lậu 
có vô lậu không phải thuộc hoàn toàn về bất thiện, như 
tu pháp môn tịnh độ là tu tịnh nghiệp tức thuộc về thiện 
nghiệp.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO 
LÀ NĂM MÔN? 1) CẬN MÔN; 2) ÐẠI HỘI MÔN; 3) TRẠCH MÔN; 4) 
ỐC MÔN; 5) VIÊN LÂM DU HÍ MÔN. TRONG NĂM MÔN NÀY BỐN MÔN ÐẦU 
THÀNH TỰU TÁM THỨ CÔNG ÐỨC, MÔN THỨ NĂM THÀNH TỰU XUẤT 
CÔNG ÐỨC.
Do năm môn ở trước lại tạm thành năm món 
công đức này. Lễ bái thuộc về 
thân nghiệp, do lễ bái một lần liền cùng Cực Lạc gần 
thêm một bước, nên do lễ bái mà thành tựu Cận Môn tức 
là thêm gần cõi Cực Lạc. Ðem tâm cung kính chí thành ở 
bên trong biểu lộ trong lời nói gọi là tán thán. Vì xưng 
danh tán đức ắt có âm thanh, do âm thanh này làm cho người 
nghe được lợi nên thành Ðại Hội Môn. Lại nữa khi chúng 
ta tụng kinh A Di Ðà là có các chúng trời người đến 
nghe pháp, đồng đến hộ trì thành 
đại pháp hội, nên do tán thán mà thành Ðại Hội Chúng 
Môn. Phát nguyện tu CHỈ có thể làm cho tâm niệm hoàn toàn 
đổi hướng với Cực Lạc thế giới, chuyên niệm như thế 
chắc được vãng sanh vào nhà Cực Lạc nên do pháp nguyện 
mà thành tựu Trạch Môn. Quán sát tức là định sanh tuệ, do 
dùng trí tuệ quán sát công đức y chánh trang nghiêm cõi Cực 
Lạc như người vào nhà, các việc trong nhà sẽ hiện trước 
mặt, thấy xét rõ ràng, nên do quán sát mà thành tựu Ốc 
Môn. Trở về cõi khổ ta bà có nghĩa hồi hướng, như đã 
vào nhà lại vào vườn rừng làm các việc vui chơi, nên hồi 
hướng môn gọi là thành tựu Viên Lâm Du Hí Môn. Bốn thứ 
trước thành tựu là tám công đức thế giới Cực Lạc, thứ 
chót là công đức Xuất Thế giới Cực Lạc.
LUẬN VĂN: VÀO MÔN THỨ 
NHẤT LÀ LỄ BÁI PHẬT A DI ÐÀ ÐƯỢC SANH VỀ NƯỚC KIA, NGƯỜI 
ÐƯỢC SANH VỀ THẾ GIỚI AN LẠC LÀ ÐƯỢC VÀO MÔN THỨ NHẤT.
Ðem thâm mạng lễ bái Phật và Bồ Tát trên 
hội liên trì là nhơn, liền được vãng sanh là quả. Khi lễ 
bái quán sát công đức 
y báo, nguyện đem thân mạng hướng về Cực Lạc, nghĩ thân 
mình khi lễ bái dưới đất liền được vãng 
sanh Cực Lạc, nên nói một lòng quy mạng thế giới Cực Lạc 
là chính nghĩa này. Ý nghĩa vãng sanh nếu từ ý thức mà giảng 
trong định cũng 
được vãng sanh. Như Huệ Viễn Ðại 
Sư trong định ba lần 
thấy tịnh độ Cực Lạc, không cần phải bỏ báo thân này 
mới được vãng sanh. Nếu từ báo thể 
của A Lại Da mà nói, A Lại Da trùm khắp mười phương, 
nhưng chúng sanh bị nghiệp lực làm chướng ngại nên không 
thể thành tựu báo thân Cực Lạc; nếu người tu tịnh nghiệp 
tức xa lìa được thân báo phiền não, để nhận thanh tịnh 
báo thân Cực Lạc. Vãng sanh do báo thân nên do việc làm lễ 
bái của thân nghiệp mà được sanh quả Cực Lạc.
LUẬN VĂN: VÀO MÔN THỨ 
HAI LÀ TÁN THÁN PHẬT A DI ÐÀ. TÙY THUẬN THEO NGHĨA, KHEN DANH 
Như Lai, Y THEO TƯỚNG ÁNH SÁNG Như Lai NÊN ÐƯỢC VÀO ÐẠI HỘI 
CHÚNG SỐ, NÊN GỌI VÀO ÐƯỢC MÔN THỨ HAI.
Trong việc tán thán rất giản tiện là xưng 
danh hiệu của Như Lai. Danh hiệu của Như Lai gồm có nhiều 
thứ công đức. Khen ngợi tên của Như Lai là khen ngợi công 
đức chơn thực của Như Lai. Nếu tụng kinh A Di Ðà, kinh Vô 
Lượng Thọ cũng có nghĩa khen ngợi xưng tán, nhưng không bằng 
xưng danh giản tiện hơn. A Di Ðà Phật có nghĩa là Vô Lượng 
Quang. Xưng hiệu A Di Ðà Phật là xưng dương ánh sáng vô lượng 
của Phật.
Từ ánh sáng của Phật có thể hiện rõ y 
chánh, chủ bạn, pháp hội, đại chúng, vô lượng pháp chủng 
của mình và người, nên nhớ xưng dương ánh sáng vô lượng 
của Phật mà được vào Ðại Hội Chúng Số của thế giới 
Cực Lạc. Có người sanh về Cực Lạc mà không được vào hội 
chúng là do nghi tâm niệm Phật, tuy sanh về Cực Lạc, song phải 
chịu 500 đại kiếp không có thể vào đại hội chúng nghe giảng 
Phật pháp. Y theo tướng ánh sáng của Như Lai mà tu hành là y 
theo tướng ánh sáng của Như Lai mà tu hành quán tưởng, có 
thể làm cho trang nghiêm công đức thế giới Cực Lạc ở tự 
tâm hiện ra lòng tin chắc an vui.
LUẬN VĂN: VÀO MÔN THỨ 
BA LÀ MỘT LÒNG CHUYÊN NIỆM PHẬT NGUYỆN SANH VỀ NƯỚC KIA, 
TU HÀNH QUÁN TỊCH TỊNH TAM MUỘI, ÐƯỢC VÀO THẾ GIỚI LIÊN 
HOA TẠNG GỌI LÀ MÔN THỨ BA.
Bình thường lòng chúng ta luôn luôn tánh loạn 
phù phiếm không thể chuyên nhất. Thấy nghe ngửi biết đối 
với sắc của năm trần luân chuyển 
không ngừng. Nếu chuyên quy hướng thế giới Cực Lạc, đem 
tất cả tâm tán loạn gội rửa hết sạch, đó gọi là 
nhất tâm. Người chuyên niệm không luận tâm định 
tâm tán đều từ trong sát na sanh diệt, chẳng qua là ở trong 
tâm định, tuy có sanh diệt vì duyên 
một cảnh tiếp nối mà không biết nó là sanh diệt. Tâm tán 
loạn trong sát na sanh diệt cũng có lúc gián đoạn. Như trong 
sát na thứ nhất nhận thức duyên theo sắc cảnh, sát na thứ 
hai nhĩ thức duyên theo thinh cảnh làm cho nhận thức gián đoạn. 
Nếu được nhất tâm thì mọi 
sát na không gián đoạn gọi là 
chuyên niệm. Một lòng chuyên niệm gọi là hành CHỈ, do Chỉ 
làm ngưng dứt tán loạn tạp tâm được liền tịch mịch. Nên 
Cổ Ðức nói: Biết dừng rồi sau mới định, Ðịnh rồi sau 
mới tịnh. Tam muội dịch là Chánh Ðịnh. Hai món lễ bái 
tán thán trước là Tán Tâm Tu. Tác Nguyện là Ðịnh Tâm Tu 
nên gọi là Hành Tam Muội. Nhờ Hành Tam Muội mà vào được 
thế giới Liên Hoa Tạng. Liên Hoa Tạng thế giới là thế giới 
An-Lạc của Phật A Di Ðà. Thế giới Cực Lạc là cảnh giới 
Tam Muội. Y theo việc công đức trang nghiêm y chánh của thế 
giới Cực Lạc, một lòng chuyên niệm không xen hở sẽ thành 
hạnh tam muội thì cảnh tam muội của Cực Lạc hiền tiền 
nên nói có thể vào thế giới Liên Hoa Tạng tức là vào được 
Thật Báo Trang Nghiêm Ðộ của Phật A Di Ðà (cõi thọ dụng). 
Thường người tu tịnh độ chỉ có lễ bái và 
tán thán, nếu tu phát nguyện môn này liền được vào thế 
giới Hoa Tạng. Nếu y chín phẩm vãng sanh mà luận là thượng 
phẩm thượng sanh. Như Tổ Long Thọ nói: Bồ Tát Sơ Ðịa 
vãng sanh tịnh độ.
LUẬN VĂN: VÀO MÔN THỨ 
TƯ LÀ CHUYÊN NIỆM QUÁN SÁT TRANG NGHIÊM VI DIỆU CÕI KIA NÊN TU 
QUÁN, ÐƯỢC ÐẾN CÕI ẤY THỌ DỤNG CÁC THU PHÁP VỊ AN VUI GỌI 
LÀ VÀO MÔN THỨ TƯ.
Quán là căn cứ vào Chỉ mà khởi, lễ bái 
tán thán ở trước là tư lương của chỉ, nếu thêm tinh tấn 
thì chính là Chỉ. Ở trong Chỉ trước phải tu lễ bái tán 
thán, xa lìa nạn ma thì tu Chỉ dễ thành. Quán cần phải ở 
sau Chỉ mới thành tựu nên nói: Vì chuyên niệm quán sát, 
cõi kia chính là cõi công đức trang nghiêm thành tựu của Phật. 
Pháp vị lạc là Giác pháp của Vô thượng Bồ Ðề.
Người 
tu tịnh độ chỉ tu lễ bái môn tuy được sanh về tịnh độ 
biến hóa nhưng không được nghe Phật pháp. Y theo lễ bái 
tán thán mà tu, sanh vào biến hóa tịnh 
độ, cũng có thể vào trong đại 
hội thấy Phật nghe pháp. Tu theo ba môn lễ bái, tán thán, 
phát nguyện được vào thật báo 
trang nghiêm độ, cõi thọ dụng của Phật A Di Ðà. Tu theo ba 
môn lễ bái, tán thán, phát nguyện, quán sát có thể ở trong 
tịnh độ thọ dụng mà hiểu biết rõ ràng được thọ dụng 
chơn thực. Như người trong nhà không quán sát hiểu biết kỹ 
các vật, không thể 
thọ dụng được hết những vật dụng trong nhà, nếu quán 
sát kỹ được các vật thì tùy ý thọ 
dụng. Bồ Tát vãng sanh tịnh độ lại cũng như thế.
Người tu tác nguyện ở trên chứng vào Sơ địa, 
nhờ Quán sát mà từ Sơ địa lần lượt tiến lên cho đến 
khi viên mãn quả 
Vô thượng bồ đề. Thọ dụng các thứ pháp vị An-Lạc.
LUẬN VĂN: MÔN THỨ NĂM LÀ 
DÙNG LÒNG ÐẠI TỪ BI QUÁN SÁT TẤT CẢ KHỔ NÃO CỦA CHÚNG 
SANH, BẰNG LÒNG HÓA THÂN TRỞ VÀO VƯỜN SANH TỬ, RỪNG PHIỀN 
NÃO, HIỂN LỘ THẦN THÔNG, ÐẾN CHỖ GIÁO HÓA, DÙNG SỨC BỔN 
NGUYỆN RA TAY NÊN GỌI RA MÔN THỨ NĂM.
Ðại thừa Bồ Tát phải có tâm khắp độ 
tất cả chúng sanh, ở đâu có nhu yếu cần là có Bồ Tát đến 
giúp đỡ. Kẻ phàm phu tâm cầu vui, 
tu các pháp nhơn thiên như ngũ giới, thập thiện liền được 
thọ dụng an vui của trời người. Hàng nhị thừa lòng họ 
chỉ biết tự lợi, tu theo pháp tứ đế, thập nhị nhơn duyên 
chỉ mong tự lợi không cần phát tâm đại 
bồ đề. Pháp môn tịnh độ là chủng 
tánh giới của Ðại Thừa. Vì thế người tu tịnh độ phải 
phát tâm Ðại Thừa Bồ Tát. Ðã có tâm Ðại Thừa, Bồ Tát 
sẵn sàng vào tất cả thế giới khổ não, phổ độ chúng 
sanh. Nên Bồ Tát trước tu bốn môn sau đó hồi hướng. Hồi 
hướng này là hạnh độ 
sanh. Bồ Tát phải đến địa vị thượng phẩm thượng sanh 
mới có thể làm nổi. Vì Bồ Tát địa 
thượng mới có đủ năng lực trở về thế giới khổ, phổ 
độ chúng sanh. Còn Bồ Tát không ở địa vị thượng phẩm 
thượng sanh cần phải ở lại thế giới Cực Lạc, nghe Phật 
pháp, tự tu công đức đầy đủ mới phát nguyện hồi hướng.
Tâm Từ Bi là vì việc chung, vì mỗi người mà 
làm, việc làm không có hạn lượng, không có ngằn 
mé, phục vụ công chúng đó là lòng 
từ bi. Ðem lòng đại từ bi này mà phát nguyện vãng sanh, đã 
được vãng sanh rồi tu hạnh từ bi, như thầy thuốc đi học 
thuốc vì muốn trị bịnh chho người, nếu không có người bịnh 
để trị thì việc học thuốc của thầy cũng trở thành vô 
ích. Bồ Tát cũng thế, nếu không độ chúng sanh thì diệu dụng 
của Bồ Tát cũng trở thành vô ích, dù có diệu dụng cũng 
chỉ bằng không. Vì thế, Báo thân của Bồ Tát tuy thường bất 
động ở thế giới Liên Hoa Tạng, nhưng vẫn dùng ứng hóa 
thân vào vườn sanh tử, rừng phiền não, làm cho chúng sanh 
mau đoạn phiền não khỏi khổ sanh tử, đồng 
sanh Cực Lạc, đồng chứng Bồ Ðề. 
Các Ngài dùng thần thông dạo chơi, đến chỗ giáo hóa, hiện 
tướng thành đạo, hiện tướng phàm phu, Nhị thừa, Bồ 
Tát. Tóm lại tất cả chỗ phiền não, 
sanh tử đều là nơi giáo hóa của Bồ 
Tát.
LUẬN VĂN: BỒ TÁT VÀO 
BỐN MÔN, HẠNH TỰ LỢI THÀNH TỰU, BỒ TÁT RA MÔN THỨ NĂM LÀM 
LỢI ÍCH CHO NGƯỜI KHÁC, HẠNH HỒI HƯỚNG THÀNH TỰU CẦN 
NÊN BIẾT.
Ðây là nói bốn môn đầu thành tựu hạnh tự 
lợi, một môn cuối thành tựu hạnh lợi tha. Nhưng Bồ Tát tự 
lợi tức là lợi tha, vì có lợi tha nên thành tựu tự lợi, 
không thể riêng làm tự lợi mà thành tựu tự lợi được.
LUẬN VĂN: BỒ TÁT TU HÀNH NĂM MÔN NHƯ THẾ CÓ 
ÐỦ HẠNH TỰ LỢI VÀ LỢI THA, MAU ÐƯỢC 
THÀNH TỰU QUẢ A NẬU ÐA LA TAM MIỆU TAM BỒ ÐỀ.
A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ đề dịch là Vô 
thượng Chánh đẳng 
chánh giác. Tu đủ năm môn thì tự 
giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, nên chứng viên mãn Bồ Ðề. 
Nói mau chứng là đứng về cận môn mà luận: So sánh với người 
lăn lộn trong sanh tử thì đã mau chóng 
thoát khỏi. Tu đến môn thứ tư, thứ năm không chỉ mau được 
mà phải nói thoát sanh tử ngay. Vì thế, 
người Tu Tịnh Ðộ đối 
với năm môn này phải cần tu tập, 
chắc chắn mau thành Phật quả.
 
Mùa An-Cư Ðinh-Mão (1987)
 
---o0o---