Cúng dường là một trong những pháp phổ quát nhất trong Phật giáo. Đức
Phật và các vị Thánh đệ tử là ruộng phước tối thắng cho chư thiên và
loài người tín tâm cúng dường, làm xuất sinh vô lượng phước báu thấm
nhuần khắp nơi. Tuy nhiên, nay là thời mạt pháp, cách thời Đức Phật hơn
2.550 năm, còn đâu những Thánh Tăng làm ruộng phước tốt cho những ai tín
tâm cúng dường? Đức Phật, bậc Chánh đẳng Chánh giác, đã nhìn thấu suốt
mọi sự từ quá, hiện đến vị lai. Với tình thương vô biên, Đấng Thiện thệ
đã chỉ dạy cặn kẽ và lưu truyền lại nhân gian những bài pháp quý báu,
trong số đó có pháp Cúng dường Tăng Bảo. Bài viết này tập trung khai
triển luận điểm
‘tín tâm cúng dường Tăng Bảo.’
Trong kinh, Đức Phật dạy rằng “Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị
tỳ-kheo, hai vị tỳ-kheo, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ
khởi tâm cúng dường Tăng, cúng dường Tăng Bảo thì phước báu ấy sẽ rất
toàn hảo, rất thanh tịnh” [1].
- 1. Tăng phạm hạnh hoặc đang thực hành phạm hạnh
Cúng dường đến Tăng phạm hạnh và Tăng đang thực hành phạm hạnh quả
phước vô cùng to lớn không thể nghĩ bàn như lời Phật dạy trong Kinh:
“Quả thật là ân đức Tăng quá lớn. Ai cúng dường đến Tăng ấy, quả phước
trổ sanh sẽ vô lượng vô biên như cát của con sông Đại Hằng” [2]. Nhưng cúng dường như thế nào là đúng pháp?
Trong Kinh Tiểu bộ - Tập II – Thiên cung sự (Tạng Pali), Đức Phật lưu
tâm chúng ta đến hiệu lực của tín tâm và phước điền của người nhận cúng
dường như trong phẩm Lâu Đài Nữ Giới, chuyện thứ nhất sau đây:
“Một thời Đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi (Xá-vệ), ở Jetavana (Kỳ Viên)
trong tinh xá ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc). Sau khi vua Pasenadi
(Ba-tư-nặc) nước Kosala (Kiều-tát-la), đã cúng dường suốt bảy ngày lễ
vật vô thượng lên Tăng chúng với Đức Phật đứng đầu, nhà đại phú
Anàthapindika đã cúng dường suốt ba ngày phù hợp với lễ vật của nhà vua;
và đại đệ tử nữ, cư sĩ Visàkhà (Tỳ-xá-khư) cũng cúng dường đại lễ vật
như thế, tin đổn về sự cúng dường vô thượng được truyền đi khắp cõi
Jambudìpa (Diêm-phù-đề): "Phải chăng bố thí cúng dường chỉ đặc biệt phát
sinh kết quả lớn khi đó là sự bố thí hào phóng với lễ vật cao sang như
vậy, hay đúng hơn, đó là sự bố thí cúng dường tùy theo phương tiện của
mình?". Khi Tăng chúng nghe lời bình luận này, chư vị trình lên Đức Thế
Tôn. Đức Thế Tôn bảo:
"Không phải chỉ nhờ hiệu lực của tặng vật mà việc bố thí cúng dường đặc biệt phát sinh kết quả lớn, song đúng hơn, do hiệu lực của tín tâm và phước điền của những người nhận được vật cúng dường. Vì vậy, dù chỉ nhỏ bằng một nắm thóc hay một tấm giẻ, một tọa cụ bằng cỏ lá hay một hạt đậu trong nước tiểu hôi thối của trâu bò, được cúng dường với lòng thành cho một người xứng đáng nhận lễ vật, cũng sẽ có đại kết quả, đại vinh quang và công đức thấm nhuần khắp nơi" [3].
Như vậy, vật cúng dường
không quan trọng, quan trọng nhất là người cúng dường phải có lòng thành
kính dâng lên, dù chỉ là ‘hạt đậu trong nước tiểu hôi thối của trâu
bò’, cho những vị tỳ kheo đang thực hành phạm hạnh, sẽ gặt hái những quả phước vô cùng to lớn.
- 2. Tăng hành trược hạnh, ác giới
Tuy nhiên, trong thời mạt pháp, không tránh khỏi một số tăng phá
giới, không còn thanh tịnh nữa. Vì thế, một số Phật tử quan ngại về việc
cúng dường cho các vị tăng ấy. Đức Phật đã nhìn thấu rõ vấn nạn này và
giải nghi cho các đệ tử, như được thuật lại trong tác phẩm Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt được trích sau đây:
“Tôn giả Upāli chợt hỏi:
- Đại đức Ānanda chỉ nói đến chư tỳ-khưu phạm hạnh hoặc chư
tỳ-khưu đang thực hành phạm hạnh; còn nếu là tỳ-khưu hư hỏng, xấu xa, dễ
duôi, buông lung, hành trược hạnh, ác giới… bị các vị đồng phạm hạnh
chê cười thì đâu phải là ruộng phước, bạch đức Tôn Sư?
Đức Phật nói:
- Nếu vị tỳ-khưu ấy còn tăng tướng, còn trong phẩm mạo sa-môn thì vị ấy vẫn là ruộng phước đấy, này Upāli!
- Đệ tử chưa hiểu.
- Ông hãy nghe đây! Khá nhiều vị tỳ-khưu trong giáo hội hiện nay
của Như Lai bị hư hỏng, khuyết tật về giới, nhưng họ vẫn đang trên con
đường tu tập, vẫn ăn mỗi ngày một bữa, vẫn cắt móng tay, vẫn cạo râu
tóc, vẫn không trang điểm, vẫn không thoa dầu thơm, vật thơm, vẫn xa
lánh đàn ca xướng hát, vẫn không tích luỹ vàng bạc, của cải, vẫn đầu
trần chân đất ôm bát xin ăn, vẫn không mặc y sang trọng, vẫn không nằm
giường cao, gối êm, vẫn không ở nhà cao cửa rộng, vẫn không có năm món
ngũ dục xa hoa, vẫn không nằm ngủ với vợ và chơi đùa với con, vẫn làm lễ
sám hối mỗi tháng hai lần, vẫn cho giới đến hai hàng cư sĩ, vẫn nói
đạo, thuyết pháp, vẫn truyền giới luật cho sa-di và tỳ-khưu… Chỉ như vậy
thôi thì hàng cư sĩ tại gia có ai làm được, dẫu là bậc thánh cư sĩ cũng
không làm được; cho nên họ vẫn xứng đáng là ruộng phước cho chư thiên
và loài người đấy, này Upāli!
- Đúng vậy, đệ tử đã hiểu. Tuy nhiên, còn tội lỗi của vị ấy, nghiệp xấu ác của vị ấy thì sao, thưa Tôn Sư?
- Hãy để cho Tăng xử. Ai làm nấy chịu. Quả nghiệp xấu xa của vị ấy thì hãy để cho nhân quả công minh nó làm việc, này Upāli!”
- Thưa vâng!
- Không kể phàm, không kể thánh, bất cứ ai còn tăng tướng, phẩm
mạo sa-môn thì tất cả đều ở trong Tăng Bảo ba đời: Hiện tại, quá khứ và
vị lai. Tăng Bảo bao giờ cũng gồm chư thánh phàm tăng quá khứ, chư thánh
phàm tăng hiện tại, chư thánh phàm tăng vị lai, này Upāli! Một vài vị,
năm bảy vị, một số cá nhân tỳ-khưu thì có thể hư hỏng, xấu xa, ác giới,
nhơ bợn nhưng Tăng Bảo thì không, Tăng Bảo thì luôn luôn mỹ toàn, thanh
tịnh, này Upāli!
- Đệ tử hiểu rồi.
Tôn giả Ānuruddha lại hỏi:
- Vậy thì khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị
tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng
dường Tăng, cúng dường Tăng Bảo thì phước báu ấy sẽ rất toàn hảo, rất
thanh tịnh, có phải vậy không, thưa Tôn Sư?
- Đúng vậy!
- Tăng Bảo thì luôn luôn thanh tịnh! Hay lắm! Cả một biển lớn
thanh tịnh! Tôn giả Ānanda tán thán! Tuyệt vời thay! Cao thượng thay là
ruộng phước cho chư thiên và loài người!” [4]
Qua bài pháp trên, rõ ràng Đức Phật nhấn mạnh đến tín tâm
cúng dường của chư Phật tử tại gia và khuyên mọi Phật tử nên khởi tâm
cúng dường Tăng Bảo chứ đừng nghĩ đến cá nhân tỳ-kheo nào cả. Đức Thích
Tôn ân cần dạy bảo: ‘Đừng nghĩ đến những việc xấu ác của cá nhân tỳ kheo nào và hãy để cho Tăng xử và luật nhân quả quyết định.”
Trong khi đó, phước báo của người cúng dường tín tâm vẫn đơm hoa, kết
quả thơm ngọt. Trong Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên, Đức Phật kể lại
một câu chuyện như sau:
“Năm thầy Tỳ-kheo kia xét thấy chủ nhân hết lòng trọng đãi, mới cùng
nhau bàn rằng: ‘Tuy đặng chủ nhân tùy nghi cúng dường mỗi ngày giàu to
nhưng tính đến năm nghèo như cái năm đói rét, thì không có thể giúp cho
người được giàu vui; vậy bọn ta phải ra phương tiện để tìm kiếm tiền
của, dành dụm thời sau mà hưởng cái sự vui ngũ dục’.
Bàn như thế rồi, liền cùng nhau thay đổi, sai một người đi dạo trong
các làng xóm, rao nói với mọi người, xướng cái lời như thế này:
‘Bốn thầy Tỳ-kheo kia, yên ở một chỗ vắng lặng giữ gìn giới cấm dứt
hẳn rượu thịt, không ăn hành tỏi đáng bậc phạm hạnh; tu thiền chỉ quán
chứng nghiệp vô lậu; tu hành không bao lâu sẽ thành quả A-la-hán, thật
là bậc Vô thượng phước điền trong thiên hạ’.
Mọi người nghe lời ấy rồi, đua nhau xúm lại mang đến đủ thứ tiền tài
ẩm thực, cung kính cúng dường, như thế nhiều năm. Còn nữ nhân Đề-vi một
lòng kính tin, cứ việc tùy nghi cúng dường hoan hỷ không chán. Mãn kiếp
trọn đời được sanh lên cõi trời Hóa Lạc.
Còn năm vị Tỳ-kheo kia, chuyên làm việc xảo ngụy, vì tâm tà trược,
nên khi phước hết mạng chung, sanh vào địa ngục; tám nghìn ức kiếp chịu
cái quả báo rất khổ. Tội địa ngục hết rồi phải chịu thân ngạ quỷ, ly mỵ,
vọng lượng, lần lựa như thế trải qua tám nghìn kiếp; tội ngạ quỷ hết
rồi, lại chịu cái thân lục súc sanh, để đền trả của cúng dường đời trước
cho chủ nhân.
Nhân duyên nghiệp báo, hoặc làm lạc đà, lừa, trâu, ngựa, tùy theo chủ
nhân chỗ thọ phước gì thì thường đem sức lực để đền trả cho chủ nhân,
lần lựa như thế cũng đến tám nghìn đời; tội súc sanh hết rồi tuy đặng
thân người, nhưng các căn ám độn, nam cũng không phải nam, nữ cũng không
phải nữ, gọi đó là Thạch nữ: Từ đây sắp về sau, trải qua trong tám
nghìn năm, thường đem sức lực đền trả cho chủ nhân, đến nay chưa hết”.
Phật bảo vua rằng: “Đề-vi khi đó là Hoàng hậu đây vậy. Ông Biện Tài
khi đó là Mục Liên đây vậy. Còn năm thầy Tỳ-kheo, tức là năm người bọn
Phiến-đề-la theo hầu hạ khiêng kiệu cho bà Hoàng hậu hôm nay đây”.
Vua bạch Phật rằng: “Theo như lời của Đức Thế Tôn nói thì nhơn có năm
người, mà nay thì chỉ thấy có bốn người khiêng kiệu còn một người nữa ở
chỗ nào.
Phật bảo vua rằng: “Còn một người nữa, người ấy thường ở trong cung quét dọn cầu xí, tức là người đổ phân đó vậy”.
Hoàng hậu nghe rồi rùng mỉnh rởn ốc, ôm lòng kinh sợ, liền đứng dậy
làm lễ Phật, đứng hàu chắp tay mà bạch Phật rằng: “Thưa Đức Thế Tôn! Như
lời của Đức Thế Tôn nói, té ra bọn Phiến-đề-la là nhân duyên thầy của
con đời trước, lòng con thiệt rất lo sợ, sợ là sợ phạm tội nghịch. Sở dĩ
vì sao? Vì luận người là bậc thầy, thì phải cung kỉnh đầu đội lễ bái
mới phải lẽ vậy. Mà nay trở lại sai khiêng kiệu không khác gì trâu ngựa.
Vì nhân duyên đó nên lòng con rất lo sợ, cúi xin Phật thương xót dạy
con sám hối”.
Phật bảo Hoàng hậu rằng: “Bởi Hoàng hậu có phước đức, vốn không có
tội lỗi cớ sao nghi sợ. Chúng sanh tánh khác, hạnh nghiệp không giống
nhau, làm lành thì hưởng phước, làm ác thọ tai ương. Hoàng hậu đời trước
nhất tâm thanh tịnh tin ưa làm phước, nhân duyên phước đức như thế, bởi
bao nhiêu đời trước sanh ra thường gặp Minh sư, tin thọ lời giáo huấn,
gặp lành làm lành gặp phước làm phước, cho đến ngày nay hưởng phước tự
nhiên gặp Phật ra đời, là vì nhờ phước đức nhân duyên đời trước. Lại
nghe Chánh pháp như thuyết tu hành, do nhân duyên đó nên không có tội
lỗi chi”. [5].
Kết luận: Đừng lo nghĩ gì
cả. Hãy thanh tịnh tâm ý của mình khi cúng dường Tăng Bảo sẽ sản sinh
phước báu vô lượng như Đề -vi Hoàng hậu vậy.
Nguồn Tham Khảo
[1],
[2] và [4] Một Cuộc Đời, Một Vầng Nhật Nguyện – Tập 6, phẩm 2: Ruộng
Phước- Sư Giới Đức – Minh Đức Triều Tâm Ảnh. Nhà Xuất Bản Văn Học
[3] Tiểu Bộ - Khuddhaka Nikaya – Tập II – Thiên Cung Sự - phẩm 1.a
Lâu Đài Nữ Giới – Chuyện thứ nhất – Lâu Đài Có Sàng Tạo (Pìtha-Vimàna) –
Tạng Pali- Giáo Sư Trần Phương Lan dịch.
[5] Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên. Quyển Hạ. Hán dịch: Đời Tiêu Tề,
Ngài Tam Tạng Sa môn Thích Đàm Cảnh. Việt dịch: Hòa Thượng Thích Hành
Trụ. Nhà Xuất Bản Tôn Giáo.