Phần Tựa
Thật Hiền tôi là kẻ
phàm phu Tăng bất tiếu ngu hèn, khóc ra lệ máu cúi
đầu kính lạy, đau buồn khẩn thiết thưa với chư đại
chúng hiện tiền, cùng với chư thiện nam tín nữ có
đức tin trong sạch trong hiện đời. Cúi mong quý vị
thương xót, lưu ý một chút mà nghe và xét cho.
Từng nghe, cửa chính
yếu để vào đạo thì sự phát tâm làm đầu, việc khẩn
cấp tu hành thì sự lập nguyện đứng trước. Nguyện lập
thì có thể độ chúng sanh, tâm phát thì Phật đạo có
thể thành. Nếu không phát tâm rộng lớn, không lập
cái nguyện vững bền kiên cố, thì dù trải qua nhiều
kiếp như số vi trần, cũng vẫn y nhiên ở trong vòng
luân hồi. Dù có tu hành cũng chỉ là uổng công lao
nhọc, khổ sở một cách vô ích. Nên kinh Hoa nghiêm
nói: "Nếu quên mất tâm Bồ đề mà tu các pháp lành,
gọi đó là nghiệp ma". Quên mất mà còn như thế, huống
chi chưa phát ư? Cho nên muốn học Như lai thừa thì
trước phải phát Bồ tát nguyện, không thể chậm trễ
vậy.
Nhưng tâm nguyện vốn
có nhiều tướng trạng khác nhau, nếu không chỉ ra thì
làm sao biết mà xu hướng đến. Nay xin vì đại chúng
mà trình bày sơ lược . Sự phát tâm lập nguyện gồm
tám tướng là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên
viên. Như thế nào là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu,
thiên viên? Ðời có kẻ tu hành mà từ trước đến nay
chỉ một bề hành theo sự tướng, không biết tham cứu
tự tâm, chỉ lo những việc ở ngoài, hoặc mong cầu lợi
dưỡng, hoặc ưa thích hư danh, hoặc ham dục lạc hiện
đời, hoặc mong cầu phước báo mai sau, phát tâm như
vậy gọi là tà. Ðã không mong cầu hư danh lợi dưỡng,
lại không ham quả báu dục lạc đời sau, chỉ vì mong
liễu thoát sinh tử, vì chứng đắc Bồ đề, phát tâm như
vậy gọi là chánh.
Niệm niệm trên cầu
Phật đạo, tâm tâm dưới độ chúng sanh, nghe con đường
thành Phật lâu xa cũng không sanh tâm thối chí khiếp
sợ, thấy chúng sanh khó độ mà không chán nản mệt mỏi,
như leo núi cao vạn trượng cũng quyết trèo lên tận
đỉnh, như lên tháp lớn chín tầng cũng cố lên đến tột
nóc, phát tâm như vậy gọi là chân. Có tội không sám
hối, có lỗi không trừ bỏ, trong trược ngoài thanh,
trước siêng năng sau biếng lười, dù có tâm tốt phần
lớn cũng bị danh lợi xen lẫn, dù tu thiện pháp phần
nhiều cũng bị nghiệp tội làm ô nhiễm, phát tâm như
vậy gọi là ngụy. Chúng sanh độ hết nguyện ta mới hết,
đạo Bồ đề thành nguyện ta mới thành, phát tâm như
vậy gọi là đại. Xét xem ba cõi như lao ngục, nhìn
sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ, không muốn độ
người, phát tâm như vậy gọi là tiểu.
Nếu ngoài tâm thấy
có chúng sanh mình nguyện độ, có Phật đạo nguyện
thành, công phu không xả, thấy biết không tiêu mất,
phát tâm như vậy gọi là thiên. Nếu biết tự tánh là
chúng sanh nên nguyện độ thoát, tự tánh là Phật đạo
nên nguyện viên thành, không thấy một pháp nào lìa
tâm mà riêng có, lấy cái tâm hư không phát cái
nguyện như hư không, làm cái hạnh như hư không,
chứng cái quả hư không, cũng không có cái tướng hư
không có thể đắc được, phát tâm như vậy gọi là viên.
Biết tám tướng trạng
khác nhau trên đây là biết quán xét kỹ càng, biết
quán xét kỹ càng thì biết lấy bỏ, biết lấy bỏ thì có
thể phát tâm. Quán xét như thế nào? Là xem sự phát
tâm của ta, trong tám tướng trạng trên đây, là tà
hay chánh, chân hay ngụy, đại hay tiểu, thiên hay
viên. Lấy bỏ như thế nào? Là bỏ tà, bỏ ngụy, bỏ tiểu,
bỏ thiên, lấy chánh, lấy chân, lấy đại, lấy viên.
Phát tâm như vậy mới được gọi là chân chánh phát Tâm
Bồ đề.
Phần
Chánh tông
Tâm Bồ đề này là vua
trong các pháp lành, phải có nhân duyên mới phát
khởi được. Nhân duyên ấy, nay nói tóm lược thì có
mười thứ là : 1 là nhớ ơn sâu nặng của Ðức Phật, 2
nhớ ơn cha mẹ, 3 nhớ ơn sư trưởng, 4 nhớ ơn thí chủ,
5 nhớ ơn chúng sanh, 6 nhớ khổ sanh tử, 7 vì tôn
trọng linh tánh của mình, 8 sám hối nghiệp chướng, 9
cầu sanh Tịnh độ, 10 vì mong muốn làm cho Phật pháp
tồn tại lâu dài.
I. NIỆM
PHẬT TRỌNG ÂN
Thế nào là nhớ ơn
nặng của Phật? Ðức Phật Thích Ca Như Lai của ta, lúc
mới phát tâm, đã vì chúng ta mà tu Bồ tát đạo, trải
qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực. Khi ta
tạo nghiệp, Ðức Phật xót thương, phương tiện giáo
hóa, mà ta ngu si, không chịu tin theo. Ta đọa địa
ngục, Phật càng thương xót, muốn thay ta chịu lấy
khổ sở, nhưng vì nghiệp ta quá nặng, không thể cứu
vớt. Ta sinh làm người, Phật dùng phương tiện khiến
cho ta gieo trồng căn lành.
Ðời đời kiếp kiếp,
Phật luôn theo ta, lòng không tạm bỏ chốc lát. Khi
Phật xuất thế ta còn trầm luân, nay được thân người
Phật đã diệt độ. Tội lỗi gì mà sinh vào thời mạt
pháp, phước đức nào lại được dự vào hàng ngũ xuất
gia, nghiệp chướng gì mà không thấy được thân vàng
của Phật, may mắn nào lại được cung nghinh xá lợi
của Ngài. Suy nghĩ như vậy mới thấy, nếu đời quá khứ
không gieo trồng căn lành thì làm sao được nghe Phật
pháp, không nghe Phật pháp thì làm sao được biết
thường thọ ân đức của Phật. Ân đức này, núi non cũng
khó sánh bằng. Nếu không phát tâm quảng đại, hành Bồ
tát đạo, xây dựng hộ trì Phật pháp, cứu độ chúng
sanh, thì dù cho tan xương nát thịt cũng không thể
đền đáp được. Ðó là nhân duyên thứ nhất của sự phát
Tâm Bồ đề.
II. NIỆM PHỤ MẪU ÂN
Thế nào là nhớ ơn
cha mẹ? Thương thay cha mẹ sinh ta khó nhọc, mười
tháng mang thai ba năm bú mớm, nhường khô nằm ướt,
nuốt đắng nhả ngọt, mới được nên người. Mong ta tiếp
nối gia phong, lo phần tế tự. Mà nay ta đã xuất gia,
lạm xưng Thích tử, nhục hiệu Sa môn, đồ ngon vật
ngọt đã không phụng dưỡng, cúng tế chạp tảo càng
không chu tất. Cha mẹ còn sống, ta đã không thể nuôi
d
ưỡng, khi cha mẹ qua
đời, ta lại không thể hướng dẫn thần thức. Ðối với
phương diện thế gian là sự có lỗi lớn, đối với
phương tiện xuất thế lại không có ích chi. Hai đường
đều lỗi thì tội nặng khó thoát. Suy nghĩ như thế,
chỉ có có cách trong trăm đời ngàn kiếp thường hành
Phật đạo, mười phương ba đời khắp độ chúng sanh.
Ðược như thế thì không phải chỉ cha mẹ một đời, mà
song thân nhiều đời nhiều kiếp đều được độ thoát;
không phải chỉ cha mẹ một người, mà song thân tất cả
mọi người cùng được siêu thăng. Ðó là nhân duyên thứ
hai của sự phát Tâm Bồ đề.
Thế nào là nhớ ơn sư
trưởng? Cha mẹ tuy sinh dưỡng sắc thân ta, nhưng nếu
không có sư trưởng thế gian thì không hiểu biết lễ
nghĩa; không có sư trưởng xuất thế thì không hiểu
Phật pháp.
Không hiểu biết lễ
nghĩa thì chẳng khác gì cầm thú, Phật pháp không
hiểu thì cũng như người phàm tục. Nay ta được biết
chút ít về lễ nghĩa, được hiểu sơ lược về Phật pháp,
ca sa trang nghiêm đắp thân, giới pháp nhuận thấm
thân mình, được như thế là nhờ ân đức sâu nặng của
sư trưởng. Nếu chỉ cầu quả nhỏ thì chỉ có lợi riêng
cho bản thân mình mà thôi. Nay phải phát tâm đại
thừa, phổ nguyện lợi ích hết thảy chúng sanh. Như
thế thì sư trưởng thế gian và sư trưởng xuất thế đều
được lợi ích. Ðó là nhân duyên thứ ba của sự phát
Tâm Bồ đề.
IV. NIỆM
THÍ CHỦ ÂN
Nhớ ơn thí chủ là
thế nào? Chúng ta ngày nay, mọi thứ cần dùng hàng
ngày đâu phải của mình. Cơm cháo hai buổi, quần áo
bốn mùa, tật bịnh cần dùng, thân miệng tiêu xài, đều
xuất từ sức lực của kẻ khác mà đem đến cho ta sử
dụng. Người nhọc sức cày cấy, còn khó nuôi miệng, ta
ngồi không mà ăn, vẫn chưa vừa ý. Kẻ dệt đan mãi
hoài mà vẫn gian nan cực khổ, còn ta an nhàn y phục
thừa thãi, há không thương
tiếc? Họ nhà tranh cửa lá, cực nhọc suốt đời, còn ta
phòng lớn sân rộng, thong thả cả năm. Ðem cái cực
nhọc của họ cung phụng cái an nhàn cho ta, làm sao
an lòng. Ðem cái lợi ích của người để cung cấp sự no
ấm cho thân xác mình, có hợp lý chăng? Do đó, phải
vận dụng cả hai thứ bi trí, trang nghiêm cả hai mặt
phước huệ, để thí chủ nhờ ơn, chúng sanh được phước,
nếu không thì dù chỉ là một hạt gạo, một tấc vải,
vẫn phải có phần trả nợ. Ðó là nhân duyên thứ tư của
sự phát Tâm Bồ đề.
V. NIỆM CHÚNG SINH ÂN
Thế nào là nhớ ơn
chúng sanh? Ta cùng với chúng sanh, từ vô lượng kiếp
đến nay, đời đời kiếp kiếp thay đổi làm cha mẹ, kia
đây đều có ơn với nhau. Nay tuy cách đời hôn mê,
không nhớ biết nhau, nhưng lấy lý mà suy ra thì làm
sao không đem sức báo đáp! Ngày nay đội lông mang
sừng, nhưng biết đâu kiếp trước ta không phải là con
cái của chúng. Hiện tại là các loài bò bay máy chạy,
nhưng biết đâu quá khứ chúng đã không phải là cha
của ta. Thường thường nhìn thấy thơ ấu mà lìa xa cha
mẹ thì lớn lên đã quên hết hình dáng song thân,
huống chi cha mẹ con cái đời trước, kiếp trước là họ
Trương hay là họ Vương, ngày nay khó mà nhớ rõ. Họ
gào thét trong địa ngục, ngất ngư trong ngạ quỉ,
thống khổ ai biết, đói khát kêu ai. Tuy ta không
thấy không nghe, nhưng họ tất cầu cứu độ. Ngoài Kinh
ra nơi đâu bày tỏ được việc này, không Phật chẳng ai
chỉ rõ cảnh ấy. Còn kẻ tà kiến làm sao có đủ sức mà
biết được. Cho nên Bồ tát quán sát sâu kiến thấy
toàn là cha mẹ quá khứ và chư Phật vị lai, thường
nghĩ cách lợi ích cho chúng và thường nhớ trả ơn cho
chúng. Ðó là nhân duyên thứ năm của sự phát Tâm Bồ
đề.
VI. NIỆM SANH TỬ KHỔ
Thế nào là nhớ khổ
sinh tử? Ta cùng với chúng sanh, từ vô lượng kiếp
đến nay, cứ ở mãi trong vòng luân hồi sinh tử, chưa
được giải thoát. Khi sanh trong loài người, lúc ở
trên thiên cảnh, khi ở thế giới này, lúc ở phương
khác, ra vào đủ cách, lên xuống liền liền. Thoáng
chốc làm trời, thoáng chốc làm người, thoáng chốc
sanh vào cõi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Cửa đen
sáng ra chiều về, hang sắt mới tạm lìa khỏi lại bước
vào. Lên núi đao thì thân thể không còn mảnh da
nguyên vẹn, vào rừng kiếm thì tim gan cũng bị cắt xả.
Sắt nóng không hết đói, mà nuốt vào thì ruột gan
cháy nát, đồng sôi đâu khỏi khát, mà uống vào thì
xương tan thịt nát. Cưa bén cắt thân, cắt đứt ra là
liền lại, gió lạ thổi vào thì chết rồi lại sống ngay.
Trong thành lửa dữ chỉ nghe tiếng thét gào thảm
thiết, trên bàn chưng nướng toàn nghe âm thanh đau
khổ thống thiết. Băng tuyết đông lại thì như sen
xanh kết nhụy, máu thịt rã ra thì như sen đỏ mới nở.
Ở trong địa ngục, một đêm chết sống thường đến cả
vạn lần, một buổi thống khổ mà như trăm năm ở nhân
gian. Mãi hoài làm cho ngục tốt mệt nhọc, nhưng có
ai chịu nghe lời Diêm vương khuyên bảo. Khi thọ quả
báo mới biết đau khổ, dẫu hối hận cũng đâu có kịp;
lúc thoát khỏi cảnh khổ thì lại quên ngay, vẫn tạo
nghiệp y như cũ. Ðánh con lừa đến đổ máu, đâu biết
đó là cái bi thảm của mẹ mình; lôi con heo đến lò
thịt, nào hay chính là cái đau thương của cha ta.
Tâm không phải
thường trụ nên giống như thương khách bôn ba giong
ruổi mọi nơi, thân không có
hình dáng cố định nên khác nào phòng ốc thường dời
đổi. Bụi nhỏ của cả đại thiên thế giới cũng khó sánh
thân luân hồi, nước đầy trong bốn biển vẫn không
bằng lệ biệt ly. Xương mà chất thì hơn núi cao, thây
nằm ngang dọc thì nhiều hơn đại địa. Giả sử không
được nghe lời Phật thì việc ấy ai thấy ai nghe, chưa
được đọc văn Kinh thì lý này ai hay ai biết. Vậy mà
có kẻ vẫn tham luyến như xưa, si mê như cũ, chỉ e
rằng muôn kiếp ngàn đời một lần sai lầm là trăm lần
sai lầm. Thân người khó được mà dễ mất, giờ tốt dễ
trôi mà khó kéo. Rồi đường hướng mịt mờ, biệt ly dài
dặc, ác báo tam đồ tự mình phải chịu, thống khổ
không nói hết được, mà ai chịu thay. Trình bày đến
đây, há chẳng lo sợ sao! Cho nên hãy dứt nguồn sinh
tử, vượt bể ái dục, mình người cùng siêu thoát, đồng
lên bờ giác. Từ vô lượng kiếp cho đến nay quan trọng
là ở chỗ này. Ðó là nhân duyên thứ sáu của sự phát
Tâm Bồ đề.
VII. TÔN
TRỌNG KỶ LINH
Thế nào là trọng
linh tánh của mình? Tâm hiện tiền của chúng ta cùng
với đức Thích Ca Như Lai không hai không khác. Vậy
mà tại sao Thế Tôn từ vô lượng kiếp đã sớm thành
chánh giác, còn chúng ta thì vẫn còn là phàm phu hôn
mê điên đảo. Lại nữa Ðức Phật Thế Tôn thì có vô
lượng thần thông, trí huệ, công đức trang nghiêm,
còn chúng ta chỉ có vô biên nghiệp chướng phiền não,
sinh tử buộc ràng. Tâm tánh là một mà vì mê ngộ nên
cách xa một trời một vực. Lặng đi mà nghĩ mới thấy
hổ thẹn. Ví như ngọc báu vô giá vùi xuống bùn dơ mà
xem như ngói gạch, không chút thương tiếc quí trọng.
Vì thế hãy dùng vô lượng thiện pháp mà đối trị vô
biên phiền não. Tu đức có công, thì tánh đức mới lộ.
Bấy giờ thì như ngọc báu được rửa, treo trên phướn
cao, ánh sáng rực rỡ, chói lấp tất cả. Thế mới gọi
là không uổng công Ðức Phật giáo hóa, không phụ tánh
linh của mình. Ðó là nhân duyên thứ bảy của sự phát
Tâm Bồ đề.
VIII.
SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG
Thế nào là sám hối
nghiệp chướng? Kinh dạy: "Phạm một tội kiết la cũng
phải đọa địa ngục bằng năm trăm tuổi thọ của bốn
Thiên vương. Kiết la là tội nhỏ mà còn bị quả báo
đến thế, huống chi tội nặng, quả báo thật khó tả.
Nay chúng ta, mỗi cử chỉ động tác hằng ngày, hằng
trái với giới luật, lúc ăn lúc uống thường phạm vào
thi la. Một ngày tội lỗi đã phạm, cũng đã vô lượng,
huống chi trọn đời nhiều kiếp, tội lỗi đã phạm khó
mà nói hết. Cứ lấy ngũ giới mà xét, thì mười người
đã có đến chín người phạm, phát lộ thì ít mà
che giấu lại nhiều. Ngũ giới
là giới của Ưu bà tắc mà còn không giữ gìn đầy đủ,
huống chi các giới Sa di, Tỳ kheo, Bồ tát, thì không
cần nói đến vậy.
Hỏi cái tên thì nói
"Tôi là Tỳ kheo", hỏi cái thật thì hãy còn chưa đủ
làm Ưu bà tắc, như thế mà không xấu hổ sao! Phải
biết, giới luật của Phật không thọ thì thôi, thọ thì
không được hủy phạm, vì không phạm thì thôi, phạm
thì cuối cùng nhất định bị đọa lạc. Trừ phi cảm
thương thân mình, thân người, lại xót xa cho mình và
kẻ khác, thân và khẩu cùng tha thiết, lệ rơi theo
tiếng, khắp cùng với chúng sanh khẩn cầu sám hối,
nếu chẳng thế thì quả báo ác ngàn đời muôn kiếp cũng
khó tránh khỏi. Ðó là nhân duyên thứ tám của sự phát
Tâm Bồ đề.
IX. CẦU
SANH TỊNH ÐỘ
Thế nào là cầu sinh
Tịnh độ? Ở cõi này tu hành thì sự tiến đạo rất khó
khăn, vãng sinh cõi kia thì sự thành Phật cũng rất
dễ dàng. Dễ dàng nên một đời đã có thể đạt đến, khó
nên nhiều kiếp vẫn chưa thành tựu. Do đó mà thánh
ngày xưa, hiền ngày trước, người người xu hướng;
kinh cả ngàn, luận cả vạn, chỗ chỗ chỉ qui. Sự tu
hành trong thời kỳ mạt pháp này, không có pháp nào
vượt qua pháp môn này. Nhưng kinh đã nói : " Căn
lành nhỏ thì khó được vãng sanh, phước đức nhiều mới
chắc chắn đến được". Nói phước đức nhiều thì không
chi bằng sự chấp trì danh hiệu, nói căn lành lớn thì
không chi bằng sự phát tâm quảng đại. Vì thế tạm trì
danh hiệu Phật hơn cả trăm năm bố thí, một niệm phát
tâm Bồ đề rộng lớn vượt hơn cả sự tu hành trong
nhiều kiếp. Vì niệm Phật vốn mong thành Phật, vậy
tâm lớn không phát thì niệm Phật để làm chi; còn
phát tâm vốn để tu hành, vậy Tịnh độ không sanh thì
có phát cũng dễ thối chuyển. Cho nên gieo hạt giống
Bồ đề, cày bằng lưỡi cày niệm Phật, thì đạo quả tự
nhiên lớn lên; ngồi chiếc thuyền đại nguyện, vào
trong bể cả Tịnh độ, thì Tây phương Cực Lạc quyết
định vãng sanh. Ðó là nhân duyên thứ chín của sự
phát Tâm Bồ đề.
X. LINH CHÁNH PHÁP CỬU
TRỤ
Thế nào là làm cho
Phật pháp tồn tại lâu dài? Ðức Thế Tôn của ta, từ vô
lượng kiếp đến nay, vì chúng ta mà tu đạo Bồ đề,
Ngài đã làm việc khó làm, nhẫn sự khó nhẫn, nhân
tròn, quả mãn, mới được thành Phật. Sau khi thành
Phật, giáo hóa tròn đầy, nhập vào Niết bàn. Nay thì
thời kỳ Chánh pháp tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn
tồn tại thời kỳ mạt pháp. Giáo pháp còn đó mà không
người hành trì, tà chánh không phân, đúng sai lẫn
lộn, tranh giành nhân ngã, mãi
chạy theo danh lợi. Mở mắt ra là thấy đầy dẫy thiên
hạ đều là như vậy. Chẳng ai biết Phật là bực nào,
Pháp là nghĩa gì, Tăng là người chi. Suy tàn đến thế,
bất nhẫn thốt ra lời. Mỗi khi nghĩ đến, bất giác rơi
lệ. Ta là con Phật mà ta không thể báo đáp ân đức
của ngài. Trong vô ích cho mình, ngoài vô ích cho
người, sống vô ích đương thời, chết vô ích mai sau.
Trời tuy cao cũng không che nổi ta, đất tuy dày cũng
khó chở ta. Tội nhân cực trọng, không phải ta thì là
ai?
Vì thế mà đau lòng
không thể nhẫn nổi, nhưng suy nghĩ thì lại không
thấy có cách nào khác hơn, nên quên ngay tư cách quê
mùa, liền phát tâm rộng lớn. Tuy không thể vãn hồi
mạt vận ngay lúc này, nhưng quyết có thể hộ trì
chánh pháp trong mai sau. Vì thế nên cùng với chư
thiện hữu, cùng đến đạo tràng, soạn thuật sám pháp,
lập pháp hội này, phát bốn mươi tám điều đại nguyện,
nguyện nguyện hóa độ chúng sanh, mong thâm tâm suốt
trăm ngàn đời kiếp, tâm tâm thành Phật, từ ngày hôm
nay cho đến cùng tận đời vị lai, hết một đời này
nguyện sanh Cực Lạc, lên chín phẩm xong thì trở lại
Ta bà. Khiến cho mặt trời Phật pháp rạng soi, pháp
môn rộng mở, để tăng giới được trong lặng ở cõi này,
dân chúng được tiếp hóa ngay cõi phương Ðông, vận
Chánh pháp nhờ đó mà kéo dài thêm nữa, Phật pháp do
đó được tồn tại lâu dài. Ðây là tấm lòng khổ tâm
chân thành, tha thiết nhỏ mọn của tôi. Ðó là nhân
duyên thứ mười của sự phát Tâm Bồ đề.
Phần Lưu
Thông
Như trên vậy mười
nhân duyên đã hiểu rõ, tám tướng trạng đã biết, thì
xu hướng có lối, phát tâm có chỗ. Chúng ta nay được
thân người, ở xứ Hoa Hạ, sáu căn khỏe mạnh đầy đủ,
tứ đại nhẹ nhàng an lạc, tín tâm đầy đủ, may mắn lại
không có chướng. Huống chi chúng ta ngày nay còn
được xuất gia, được thọ cụ túc giới, được gặp đạo
tràng, được nghe Phật pháp, được chiêm bái xá lợi,
được tu tập sám pháp, được gặp bạn lành, được nhân
duyên thù thắng tốt đẹp. Nếu ngày nay không phát tâm
rộng lớn, thì còn chờ đến ngày nào.
Cúi xin đại chúng thương cho tâm thành ngu muội của
tôi, xót cho chí nguyện khổ sở của tôi, mà cùng lập
nguyện ấy, đồng phát tâm này. Nếu chưa phát thì nay
phát, phát rồi thì tăng trưởng, tăng trưởng rồi thì
tương tục không gián đoạn. Chớ sợ gian nan mà khiếp
sợ thối lui, đừng cho dễ mà khinh thường, hời hợt,
đừng ham mau mà chẳng lâu bền, đừng biếng nhác giải
đãi mà thiếu dũng mãnh, đừng uể oải mà không phấn
khởi, đừng chần chờ mà kỳ hẹn mãi, đừng vì tối dốt
mà cứ mãi vô tâm, đừng vì căn cơ cạn cợt mà tự khinh
không có phần. Như trồng cây, trồng lâu thì rễ cạn
ngày càng sâu; như mài dao, mài mãi thì dao đùi cũng
thành sắc bén; chẳng nên vì rễ cạn mà không trồng,
mặc cây khô héo, vì dao đùi mà không mài, để dao vô
dụng.
Lại nữa, nếu cho tu hành là cực khổ mà không biết
biếng nhác lại còn khổ hơn. Tu thì khó nhọc tạm thời
mà an vui vĩnh kiếp, còn biếng nhác thì một đời tạm
nhàn nhưng lắm kiếp chịu sự khổ đau. Huống chi lấy
pháp môn Tịnh độ làm thuyền tàu thì lo gì thối
chuyển, lại được vô sanh làm sức nhẫn thì sợ gì khó
khăn. Nên biết, kẻ tội nhân trong cõi địa ngục mà
còn phát Tâm Bồ đề từ bao kiếp trước, huống chi đã
làm người, lại làm con Phật, mà không lập đại nguyện
ngay trong đời này. Từ vô thỉ đến nay hôn mê mờ mịt,
việc gì đã qua rồi đã không thể cản ngăn, mà ngày
nay tỉnh ngộ, những việc trong tương lai còn có thể
theo. Mê mà chưa ngộ, cố nhiên đáng thương; còn biết
mà không làm, mới càng đáng tiếc. Nếu sợ cái khổ địa
ngục thì sự tinh tấn tự sinh, nhớ cái vô thường tấn
tốc thì tính biếng nhác không khởi. Lại nữa cần lấy
Phật pháp làm roi dục, lấy thiện hữu làm tay dắt,
trong khoảnh khắc cũng không tách rời, suốt cả một
đời vẫn cố nương theo, thì không lo lắng còn có sự
thối chuyển nữa. Chớ bảo một niệm phát nguyện là nhỏ
nhặt, đừng cho nguyện suông là vô ích. Tâm chân thì
sự thật, nguyện rộng thì hạnh sâu. Hư không chẳng
rộng lớn, tâm vương mới lớn. Kim cương đâu có cứng
chắc, nguyện lực mới chắc. Đại chúng nếu không chê
bỏ lời tôi, thì quyến thuộc Bồ đề từ đây kết hợp,
bạn hữu Liên xã từ đây kết giao, sở nguyện đồng sanh
Tịnh độ, đồng thấy Di đà, đồng hóa chúng sanh, đồng
thành Chánh giác. Như vậy thì biết đâu ba mươi hai
tướng tốt và trăm phước trang nghiêm sau này chẳng
bắt đầu từ sự phát tâm lập nguyện trong ngày hôm
nay. Nguyện cùng đại chúng chung nhau nỗ lực, như
thế thật vô cùng may mắn!
Thật Hiền Ðại sư tự
Tư Tề, hiệu Tĩnh Am, người đời Thanh, con nhà họ
Thời ở Thường Thục. Xuất gia từ thuở bé, sau khi
xuất gia, nghiêm trì giới luật, giảng kinh thuyết
pháp, nghiên cứu pháp môn tánh tướng. Bốn tháng tham
cứu câu "Niệm Phật Là Ai", hoát nhiên khai ngộ, và
nói: "Tôi đã tỉnh giấc mơ!". Từ đó cơ phong lanh lẹ
sắc bén, biện tài tung hoành, ngày duyệt Tam tạng
kinh, đêm chuyên trì Phật hiệu. Ngài đốt ngón tay ở
tháp A Dục Vương, rồi trước Phật phát bốn mươi tám
điều đại nguyện, lúc ấy cảm ứng xá lợi phóng hào
quang rực rỡ. Ngài làm bài văn "Khuyên phát tâm Bồ
đề", khích lệ tứ chúng, nhiều người đọc bài văn này
đều rơi lệ.
Ngày mười bốn tháng
tư, niên hiệu Ung Chánh thứ mười hai, Ðại sư hướng
về Tây ngồi viên tịch. Hàng đạo tục các nơi nghe tin
hội về đưa tiễn rất đông. Ðại sư bỗng mở mắt nói: "Tôi
đi không bao lâu sẽ trở lại, sanh tử là việc lớn,
mỗi người nên tự thanh tịnh tâm, niệm Phật thì có
thể giải quyết được việc sanh tử!". Dặn dò xong,
chắp tay niệm danh hiệu Phật rồi thị tịch.