Hỏi: Chúng con đi chùa và
thấy chùa thờ rất nhiều tượng Phật và Bồ tát. Vậy cho con hỏi là lạy
Phật, Bồ tát có ý nghĩa như thế nào và lạy như thế nào mới đúng? Có khác
biệt gì giữa lạy Phật, Bồ tát với các vị thần linh?
Đáp: Chư Phật và Bồ
tát thị hiện ra trong cõi đời này là để cứu độ chúng sanh, đưa chúng
sanh từ bến bờ của mê mờ, khổ đau bên này sang đến bờ bên kia của hiểu
biết, an vui và giải thoát. Chính vì lòng từ bi rộng lớn và bao la của
các ngài nên chúng ta phải tôn thờ, lễ bái và nguyện cầu, trước cầu được
chở che và gia hộ, sau là học theo đức hạnh từ bi, trí tuệ của các
ngài.
Trong sự tu tập, lạy Phật chính là tôn kính ân của ngài,
lạy Phật cũng chính là tôn kính đức của ngài, bậc thầy của cả cõi trời
và cõi người. Việc lễ lạy do đó tích tụ thêm rất nhiều phước báu cho
chính mình, vì khi lạy chúng ta cũng dẹp bỏ được rất nhiều những tập
tính xấu xa trong tâm thức, nào bản ngã, kiêu căng ngạo mạn, nào cho
mình là hay là giỏi hơn tất cả mọi người.
Khi tất cả những tánh
khí xấu ác (tham, sân si, ngã mạn, nghi ngờ, ác kiến, biên kiến, tà
kiến.v.v…) do công năng tu tập mà dần được loại bỏ bên trong tâm thức
của chúng ta, thì chúng ta mới tiêu trừ bớt những nghiệp chướng, tội lỗi
trong đời; phước đức, công đức cũng nhờ đó được tăng trưởng đem đến sự
an vui, hạnh phúc trong đời sống.
Khi lạy Phật chúng ta phải nhiếp tâm
niệm lại, thành kính, từ tốn và trang nghiêm trong việc lễ lạy. Tránh
việc chấp tay xá xá, bái bái làm nhanh rồi ra ngoài. Lễ lạy tôn tượng
chư Phật, Bồ tát là một việc làm cao quý và có nhiều ân phước, nhất là
khi ấy tâm chúng ta chí thành, cung kính và cầu nguyện. Năng lực cảm ứng
trong đạo (giữa tâm mình với tâm chư Phật, Bồ tát) một khi đã được
tương ưng, thiết lập, kết nối thì như trong kinh nói là không thể suy
nghĩ và bàn luận được.
Ví dụ như khi chúng ta có một chiếc Radio,
hoặc TV và khi không bắt được đài thì chỉ có làn sóng rè rè trên màn
hình. Nhưng khi chúng ta bắt trúng kênh TV, trúng đài Radio thì hàng
trăm, hàng ngàn đài với vô số vô biên hình ảnh và âm thanh hiện ra. Tâm
Phật, Bồ tát và tâm chúng sanh khi có tu tập và cầu nguyện chí thành
cũng vậy, khi kết nối được thì có vô cùng sự linh thiêng, mầu nhiệm hiện
ra.
Lạy Phật, chư vị Bồ tát với tất cả
những ý nghĩa cao quý của việc kính lễ ân đức, trí tuệ và từ bi của các
ngài để nguyện noi theo tu học nên do đó được nhiều phước báu, trí tuệ,
công đức trong tu tập và đời sống. Còn lạy các thần linh chỉ để cầu tài,
cầu lộc, cầu có được đời sống vật chất hưởng thụ nên không có phước
báu, trí tuệ và công đức tu hành. Sự sùng bái và cầu nguyện nơi thần
linh sẽ làm tăng trưởng tâm tham và tâm si mê bên trong chúng ta, đánh
mất hiểu biết trí tuệ và năng lực tu hành, vốn có thể sẽ tạo ra nhiều
phước báu và công đức khác trong cuộc đời.
Hỏi: Chúng con thường thấy
khi cúng Phật, mọi người thường cúng hoa, cúng trái cây, đốt hương và
cầu chư Phật, Bồ tát gia hộ gia đình được bình an, khỏa mạnh, tài lộc
đều tăng trưởng, thịnh vượng. Vậy việc dâng cúng và cầu nguyện như vậy
có ý nghĩa, có được không và đúng chánh pháp không?
Đáp: Dâng cúng các phẩm vật, hương
hoa, trái cây là biểu lộ lòng thành kính của mình lên chư Phật và Bồ
tát. Sự dâng cúng này chính là biểu lộ lòng thành kính và tri ân
lên Tam bảo, vì nhờ có Tam bảo chúng ta mới có được lòng tin, sự hiểu
biết về chân lý trong cuộc đời. Nhờ có Tam bảo chúng ta mới biết tu học,
làm lành lánh dữ, tu nhân tích đức để được an vui và hạnh phúc lâu dài.
Tâm chúng ta phải chí thành, sáng suốt và tri ân như vậy khi dâng cúng
lên bàn thờ. Một khi khởi tâm như vậy thì việc dâng cúng dù ít dù nhiều,
nhưng phải đẹp, trang nghiêm và thanh tịnh.
Khi tâm của chúng ta hướng về chư
Phật, Bồ tát, Hiền thánh tăng, và tổ tiên thì một niệm khởi lên
đã lan tỏa đến khắp mười phương pháp giới. Nói đến dâng hương và ý
nghĩa của việc thắp hương thì trong đạo Phật mang ý nghĩa rất sâu
xa. Hương này là biểu thị cho sự trang nghiêm, thanh tịnh và lòng
chí thành. Hương này cũng là hương của giới, hương của định và hương
của trí huệ.
Đây là 3 yếu tố quý báu để trang nghiêm cho sự tu
hành của một con người, cũng là để thành tựu sự tu tập giải thoát, giác
ngộ. Vì thế khi ta tự mình dâng nén hương lên bàn thờ Phật, đồng
nghĩa ta đang tự biểu lộ lòng tri ân, thành kính, nguyện nương
vào hương thơm giới, định, huệ của chư Phật và Bồ tát mà được gia hộ
cho mình cũng có được đầy đủ những đức tính đó, để mai này chúng ta tu
học, làm các việc phước thiện và lợi lạc cho mọi người, mọi loài.
Sự dâng hương, cúng dường phẩm vật lên
chư Phật, Bồ tát như vậy gọi là sự dâng cúng chơn chánh, có trí tuệ và
được nhiều phước báu.
Hỏi: Bạch thầy! Trước
khi tu tập, thông thường chúng con thấy Phật tử thỉnh tượng Phật về
nhà, làm lễ khai quang điểm nhãn và an vị Phật. Như vậy việc khai quang
điểm nhãn có ý nghĩa gì? Có cần thiết hay không? Có phải khi khai quang
xong thì tượng Phật, Bồ tát liền linh thiêng?
Đáp: Khai quang điểm nhãn và an vị
Phật là những nghi thức có trong Kinh Luật được đức Phật giảng dạy. Tuy
nhiên nếu được giảng giải, khai thị có chiều sâu cho phật tử hiểu biết
thì việc khai quang điểm nhãn và an vị Phật có lợi ích vô cùng cho phật
tử; đó là mở bày cho phật tử thấy, những tính chất cao quý nơi các tôn
tượng Phật và Bồ tát như: “Trí tuệ, từ bi, vị tha, thanh tịnh, sáng
suốt, bình đẳng, năng lực, phương tiện.v.v…” của chư Phật, Bồ tát đều có
ở trong ta và ta nếu biết và cố gắng dụng công tu tập, những đức tính
này sẽ hiển lộ ra ở nơi ta. Đây là trọng điểm mà phật tử cần phải biết
và gắng sức học hỏi. Được vậy thì phước báu, công đức, trí tuệ và lợi
lạc sẽ đến với ta.
Còn nếu phật tử tin rằng, sau khi làm
lễ khai quang điểm nhãn và an vị Phật trong nhà thì các tôn tượng Phật,
Bồ tát liền được linh thiêng, cầu gì được nấy, gia đình an ổn, mọi việc
thuận lợi, buôn may bán đắt, phước lộc đầy nhà, thì niềm tin như vậy
chưa phải là chánh tín, chánh kiến của phật tử. Muốn có được tất cả
những điều ấy, phật tử phải học pháp, tu tập, giữ giới và gieo trồng
thêm rất nhiều nhân thiện, điều phước trong cuộc sống. Một khi có giới
đức, trí tuệ và thường xuyên hành thiện bố thí, cúng dường thì phước báu
tự nhiên sẽ đến, hoạn nạn và khổ đau sẽ qua khỏi. Cuộc sống và gia đạo
sẽ được nhiều bình an và hạnh phúc.
Hỏi: Kính bạch thầy! Con
thấy hiện nay ở Việt Nam, phong trào tu học Mật tông rất thịnh lành.
Người người, nhà nhà đua nhau thỉnh mời các bậc thầy Tây Tạng đến để làm
lễ quán đảnh, ban phước. Vậy việc đó có thật sự được lợi ích và phước
báu như mong cầu?
Đáp: Mật tông còn gọi là Kim cang
thừa, một truyền thống Phật giáo thịnh hành ở Tây Tạng. Giáo nghĩa và
pháp tu của truyền thống này rất thâm sâu, lấy 3 nền tảng chính cho sự
tu tập và hành trì: Bồ đề tâm, tánh không và sự xả ly. Phật tử nào, hành
giả nào đến với Mật tông và Phật giáo Tây Tạng trên tinh thần đó thì là
đến với chánh kiến và đúng với pháp.
Đáng tiếc thay phật tử Việt Nam ở hải
ngoại hay ở trong nước thường đến với Mật tông Tây Tạng dường như theo
một phong trào, hơn là theo để cầu học pháp, phát Bồ đề tâm, cầu giải
thoát giác ngộ; Theo phong trào bởi vì hiện nay đang là một xu hướng,
thịnh hành, người ta theo nên mình theo, người ta tin nên mình tin, cho
nên đa số đến với Phật giáo Tây Tạng và các Lama bằng cách cầu xin thọ
nhận các lễ quán đảnh, cầu các bậc thầy đến để ban phước, gia trì hoặc
cầu tài cầu lộc.
Các ngài Lama không thể có năng lực
thay đổi nghiệp chướng trong cuộc đời chúng ta. Cho nên đến với các ngài
bằng tâm cầu học, cầu tu để được giải thoát giác ngộ thì việc làm ấy là
đúng chánh pháp, có nhiều phước báu và công đức. Còn đến với tâm mê để
cầu danh tiếng, cầu tài, cầu lộc thì phước báu, công đức ấy rất nhỏ.
Hỏi: Bạch thầy. Trong thời
gian gần đây, người Phật tử thường nghe nói đến các bậc thầy chứng đạo,
chứng quả A La Hán hoặc là Bồ tát tái sanh, Phật tái sanh? Vậy việc đó
như thế nào? Là thật hay là giả?
Đáp: Phật tử chân chánh phải là người
phật tử có học pháp và tu theo pháp. Mang danh phật tử vì đã Quy y và
thọ trì năm Giới nhưng chưa từng học pháp và tu pháp thì người phật tử
như vậy chỉ có danh từ phật tử, còn họ thật không phải là phật tử. Do có
học pháp và tu theo pháp nên phật tử có hiểu biết pháp, có trí tuệ và
chánh kiến để biết phân biệt đâu chánh, đâu tà, đâu là thầy tu thật, đâu
là thầy tu giả, đâu là bậc tu hành chứng đắc và đâu là hạng giả danh
cầu lợi.
Một bậc thầy tu chứng quả A-la-hán
không bao giờ tự xưng rằng mình chứng quả A-la-hán, đó là pháp của Phật,
trừ phi các vị đó được các bậc thầy khác đắc quả ấn chứng. Tuy nhiên
theo Hòa thượng Tuyên Hóa, một bậc thánh tăng cận đại, Ngài dạy như sau:
“Căn cứ vào đâu để biết được đó là một
bậc Thánh nhân đã chứng đắc quả vị thứ tư của hàng A-la-hán? Khi bậc
Thánh nhân hàng Tứ-quả bước đi, chân không hề chạm đất - bàn chân ngài
thường ở cách mặt đất khoảng ba phân, vì như thế mới khỏi giẫm chết các
côn trùng hoặc kiến. Ngài chẳng phải như phàm phu chúng ta, thường đạp
chết côn trùng và kiến trên lối đi. Ngài không hề giẫm lên trùng và kiến
ở dưới chân; điều này chứng minh rằng ngài đã chứng Thánh quả!
Không những bậc Thánh nhân ở hàng
Tứ-quả, mà ngay cả các bậc ở hàng Sơ-quả cũng có được khả năng ấy; cho
nên trong Kinh mới dạy rằng: "Các bậc A-la-hán đều có thể phi hành, biến
hóa." Các bậc Tứ-quả A-la-hán muốn đến nơi nào là có thể đến ngay nơi
đó, và các ngài đều có khả năng biến hóa khôn lường.
Các bậc Tứ-quả A-la-hán không những
chỉ có khả năng chuyển dịch tinh thần mà còn có thể chuyển dịch cả nhục
thể của các ngài đến bất cứ nơi nào tùy ý nữa. Các ngài không cần mua vé
máy bay, mà chỉ du hành trong không trung; cho nên nói: "Có thể phi
hành, biến hóa." Các bậc A-la-hán có mười tám phép biến hóa, và những
phép biến hóa ấy đều bất khả tư nghì.
"Có thọ mạng lâu dài tới cả khoáng
kiếp." "Khoáng kiếp" tức là trường-viễn-kiếp, và cũng là vô-lượng-kiếp;
nghĩa là quãng thời gian lâu xa, không thể nào tính đếm được. Các bậc
Tứ-quả A-la-hán muốn sống bao nhiêu lâu cũng được, không trở ngại gì cả.
Khi thân thể này hư hoại, già nua cằn cỗi, thì các ngài có thể đổi lấy
một thân thể khác. Vì các ngài có thể thay đổi thân thể một cách rất dễ
dàng, cho nên nói rằng các ngài "có thọ mạng lâu dài tới cả khoáng
kiếp."
Các Thánh nhân chứng đắc Tứ-quả
A-la-hán đều đạt được sự tự do về vấn đề sanh tử. Các ngài thật sự được
tự do - muốn sống, thì cứ tiếp tục sống; muốn chết, thì bất cứ lúc nào
cũng có thể chết được. Các ngài muốn chết đứng, thì đứng mà chết; muốn
chết ngồi, thì ngồi mà chết; muốn chết khi đang đi, thì chết khi đang
đi; muốn chết trong lúc ngủ, thì chết trong lúc ngủ! Các ngài rất tự do,
không ai có thể cai quản được cả. Chính vì thế mà nói là các ngài "có
thọ mạng lâu dài tới khoáng kiếp" và được gọi là bậc "Vô-sanh" - không
sanh ra mà cũng chẳng chết đi! Và làm động trời đất nơi họ an trụ." Các
bậc A-la-hán trú ngụ ở nơi nào, thì Thiên-thần và Địa-thần đều sanh lòng
cảm động, và đều thọ nhận sự giáo hóa của các ngài; đó là ý nghĩa của
câu "trụ động thiên-địa - làm rúng động trời đất nơi các ngài an trụ."
Nơi nào các ngài an trụ cũng đều có Trời, Rồng, cùng Tám bộ chúng thường
xuyên lui tới hộ pháp. Hễ nơi nào có một bậc A-la-hán an trụ, thì nơi
đó rất bình yên, không hề có các loại tai nạn như gió lốc, gió xoáy, mưa
bão, động đất, vỡ đê, sóng thần...xảy ra. Đó là vì các Thiện-thần và
các vị Hộ-pháp luôn luôn ủng hộ bậc A-la-hán làm cho mọi việc có liên
quan đến ngài đều được may mắn, thuận lợi.
Hỏi: Theo truyền thống
Phật giáo trong nước ta thì người phật tử thường hay đi chùa vào ngày
14, 15 hay 30, mồng một. Họ tin rằng những ngày này linh thiêng và
thường cầu được phước, được lộc, khỏe mạnh sống lâu, thăng quan tiến
chức.v.v… vậy những điều cầu nguyện ấy có được không?
Đáp: Niềm tin đi chùa vào các ngày
trên không phải là không có căn cứ. Đọc trong kinh tạng có ghi rằng, vào
các ngày trên, các vị trời Tứ Thiên Vương thường du hành khảo sát nhân
gian, cho nên các ngày ấy thường được người xưa tin tưởng là ngày tốt để
đi chùa lễ bái, cầu tài cầu lộc. Niềm tin dân gian là vậy nhưng xét
theo phương diện hành trì tích cực thì chính nhưng ngày này, thay vì
chúng ta chỉ biết cầu và xin, thì người Phật tử chúng ta phải nên đi học
pháp, dự các khóa tu tập và thực hành tất cả các điều phước thiện trong
những ngày này. Nếu ngày thường thì những việc học pháp, tu tập và hành
thiện đã có phước báu, công đức thì những ngày này do lòng tin mãnh
liệt, sự tinh tấn và tâm bố thí, cúng dường, phước báu và công đức sẽ
càng tăng trưởng mạnh. Niềm tin như vậy rõ ràng đặt trên sự hiểu biết và
trí tuệ.
Hỏi: Bạch thầy! thông
thường người Phật tử miền Bắc chúng con không có thờ Phật trong nhà, xem
đó là điều úy kỵ vì sợ phạm lỗi, điều ấy có đúng không? Trong mỗi nhà
cũng đều có bàn thờ cúng gia tiên và mỗi bàn thờ đều có bát nhang. Chúng
con tin rằng bát nhang là nơi các hương linh ông bà trú ngụ và do đó
không nên đụng vào bát nhang, đây cũng là điều rất là kiêng kỵ. Niềm tin
như vậy có đúng không?
Đáp: Nếu đã là Phật tử thì việc thiết
lập một bàn thờ trang nghiêm trong nhà là điều cần thiết. Trước đây khi
đời sống kinh tế khó khăn, nhà cửa chật chội mà phải sống chung rất
nhiều người thì việc thiết lập bàn thờ là một trở ngại. Tuy nhiên ngày
nay đa phần gia đình đều có những căn hộ, căn nhà riêng tư với một diện
tích tương đối hoặc rộng lớn thì việc lập bàn thờ là điều nên làm nếu
người Phật tử chúng ta muốn thực hành việc tu tập. Như phần trên kinh
Phật đã nói về phước đức mang lại cho gia đình khi thiết lập bàn thờ,
cho nên việc úy kỵ thờ Phật trong nhà theo nhân gian là mê tín.
Về việc bàn thờ gia tiên mà có quá
nhiều bát hương là không cần thiết. Việc thờ phụng của người
Việt phần lớn theo văn hoá cổ truyền: Ông bà, cha mẹ chúng ta
làm sao, nay ta làm như vậy, vì thế trong sự thờ phụng có rất
nhiều hủ tục, mâu thuẫn rườm rà, không đem lại lợi lạc thiết
thực cho người sống cũng như người đã khuất. Khi chúng ta học
Phật và tu hành theo đạo Phật chúng phải can đảm thực hành theo
chánh pháp, có chánh kiến và biết loại bỏ những tập tục lâu đời mà không
đúng pháp và không cần thiết. Bàn thờ gia tiên có thể an trí bên cạnh
bàn thờ Phật và phải thấp hơn. Hình thờ người mất nếu có nhiều và hình
lớn thì có thể cho thu nhỏ hình lại và sắp đặt chung trên một bàn thờ
gia tiên. Tất cả bát hương chỉ còn giữ lại một và thường xuyên dọn dẹp,
lau chùi; chớ để cho tàn nhang và thân cây nhang rớt đầy trên bàn thờ.
Đạo Phật là đạo của hiểu biết và
trí tuệ. Người Phật tử tu tập chỉ tin theo lời Phật giảng dạy trong kinh
điển và qua lời giảng dạy của một số bậc thầy chơn chánh. Không nên tin
và dựa vào các thầy cúng, thầy pháp, thầy đồng, thầy bói để rồi nay thì
làm theo lời thầy này, mai lại nghe thầy cúng, thầy pháp kia chỉ vẽ lại
làm theo họ. Lòng tin không chơn chánh như vậy thì dù có quy y theo
Phật cũng sẽ không thoát thoát khỏi những mất mát và khổ đau.
(Gần đây tôi có độ cho một người Phật
tử ở Quãng Ninh, biết phát tâm quy y (Pháp danh Đồng Tín) và đi hành
hương đất Phật. Từ một người chưa từng biết ăn chay, nếu buộc phải vào
chùa ăn chay trong ngày một ngày hai, thì ngày thứ ba phải ra chợ và
hàng quán chén đủ các loại thịt khác để bù trừ. Là một chủ doanh nghiệp
về du lịch, cô ta cũng là một cây nhậu số một, uống rượu bia thì nhiều
nam giới cũng phải chịu thua, đầu hàng, lắc đầu le lưỡi bái phục. Bởi
thế xe hơi cô chạy thì không móp chỗ này thì cũng méo chỗ kia, cô tự hào
khoe với tôi như vậy. Còn thầy cúng, thầy pháp thì đều là bạn thân hàng
ngày của cô vì cô quanh năm suốt tháng nghe lời thầy cúng, cúng hết lễ
này đến lễ kia, thường khi đốt giấy vàng mã đến cả mấy xe.
Trong lần được cơ duyên đi hành hương
đất Phật gần đây, và trên đường đi, tôi tận dụng thời gian tối đa để
thuyết giảng Pháp Phật cho tất cả Phật tử trong đoàn. Ai ngờ cho đến gần
cuối đoạn đường hành hương, sau gần 10 ngày, cô ‘quậy” này bỗng dưng
giác ngộ. Cô phát biểu trên xe rằng, từ đây về sau sẽ cải tà quy chánh,
không còn uống rượu bia, nhậu nhẹt nữa, phát tâm ăn chay mỗi tháng 10
ngày, mỗi ngày tụng kinh, niệm Phật và lạy Phật 108 lạy. Hơn thế nữa, cô
đã xóa hết danh sách trên 20 tên của thầy Cúng, thầy Pháp trong điện
thoại của cô. Cô khoe với mọi người như vậy.
Mới đây trò chuyện với tôi qua điện
thoại, cô cho biết là đã thẳng thừng từ chối gặp mấy ông thầy Cúng, thầy
Pháp và không cúng bất cứ gì theo họ nói nữa. Thế là mấy ông thầy kia,
quát mắng cô một tràng, không có đường thối lui: “mày mà không cúng thì
để mày xem, không có một cái bát mẻ mà ăn trong năm nay nhe con! Một
ông thầy Pháp khác cũng không tiếc lời nguyền rủa cô: “Mày mà không cúng
thì mày sẽ chết sông chết biển nghe con, để mày xem mày có sống nổi
không?”
Rồi cô kể với tôi rằng: “Thầy ơi, đâu
như mấy ông đó nói, con cảm thấy đầu năm nay tất cả tai nạn cũ của con
đã qua hết. Chỉ mấy ngày đầu năm mà con ký được bao nhiêu hợp đồng, một
cách dễ dàng, không ngờ đến. Cứ như là có ai đó đã xếp đặt an bài sẵn
cho con vậy đó!
Tôi khuyến khích thêm: “Vâng, Phật
pháp là vậy đó! Một khi mình tu theo chánh pháp, dứt bỏ mê tín, tà vạy
để sống đúng với tất cả những lời Phật dạy thì phước báu chân thật sẽ
tăng trưởng, thân tâm con sẽ thường được an vui. Chắc chắn nếu con tu
hành tinh tấn hơn, bỏ các điều xấu, điều ác và sự phóng túng, giãi đãi
buông lung như trước đây, phước báu còn sẽ đến với con rất nhiều và
nhiều hơn nữa. Thầy mong cho con luôn tinh tấn tu hành, tăng trưởng các
pháp thiện, dứt hẳn các pháp ác và thành đạt trong đời sống. Con thấy
đấy, có phải là Phật pháp quá nhiệm mầu hay không! Như vậy, chỉ một
chuyến hành hương đất Phật 14 ngày mà đã thay đổi được cả một cuộc đời
của con.)
Thượng tọa Thích Hạnh Nguyện
Tạp chí Nghiên cứu Phật học số tháng 3/2015