Bố thí là hạnh đầu tiên theo lời Phật
dạy hay còn gọi đầy đủ là hạnh buông xả. Bố thí là cho, biết cho,là trao
tặng, là giúp đỡ sẻ chia hay mở lòng rộng lượng để cúng dường. Mỗi khi
làm việc bố thí là chúng ta đã thắng được lòng tham lam, ích kỷ của
mình. Chúng ta có thể cho đi cái gì nhỏ nhất là chuyển được lòng tham
đôi chút, cho đi cái lớn hơn là thắng được lòng tham ở mức độ lớn hơn.
Cho đi là hành động cao thượng của
những người có tấm lòng vị tha, nhằm nhắc nhở chúng ta, giảm bớt tham
lam do si mê chấp giữ. Bố thí là biểu hiện của tình người trong cuộc
sống, là sự biết cho đi, là cách để buông xả bớt mọi phiền não khổ đau.
Bố thí cần được thực hiện với tinh thần tự nguyện, không có điều kiện để
trau đổi.
Cho đi là nhịp cầu kết nối yêu thương,
là biết nghĩ tới người khác, biết quan tâm tới người khác. Người hay
thường xuyên bố thí, thân tâm lúc nào cũng an lạc, thảnh thơi và làm cho
người nhận cũng được hoan hỷ vui vẻ.
Với người nghèo, chúng ta san sẻ hay
giúp đỡ một chút cho họ trong cơn hoạn nạn còn quý hơn bằng chín xe mười
vàng. Bố thí cũng không chỉ giới hạn trong vật chất, người không có
phương tiện vật chất gì cũng có thể thực hành bố thí, như bố thí lời nói
để động viên an ủi người khác, bố thí bằng hành động cụ thể như giúp
người đau yếu bệnh tật….
Có một người rất nghèo đến hỏi Đức
Phật: “Tại sao con làm việc gì cũng không thành công, không gặt hái được
kết quả tốt đẹp?”. Phật mới nói rằng: “Vì con chưa học được cách bố thí
cho người khác”. Người kia thưa “Con không có thứ gì cả, thì lấy gì con
bố thí”. Đức Phật dạy : “Cho dù con hoàn toàn không có của cải gì cả,
con vẫn có thể thực hiện bố thí 7 thứ sau đây cho người khác.
1- Nhan thí: Biết nở nụ cười hân hoan trên nét mặt khi tiếp xúc với mọi người, đó cũng là cách đem lại niềm vui cho người khác.
2- Ngôn thí: Biết dùng lời nói nhẹ nhàng, biết nói lời khích lệ, động viên an ủi, cổ vũ người khác.
3- Tâm thí: Biết mở lòng bao dung và độ lượng, biết cảm thông và tha thứ cho người khác vì không thấy ai là kẻ thù của mình.
4- Nhãn thí: Biết dùng ánh mắt thân thiện, sống tình nghĩa mà nhìn mọi người với con mắt biết yêu thương bằng tình người trong cuộc sống.
5- Thân thí: Biết dùng hành động mà giúp đỡ, chăm sóc, chia sẻ cho người khác khi có việc cần thiết.
6- Tọa thí: Biết nhường chỗ ngồi cho người già yếu, trẻ em, người tàn tật, phụ nữ mang thai.
7- Phòng thí: Biết nhường chỗ trong nhà mình hay chỗ nghỉ ngơi chung cho người lỡ đường hoặc có nhu cầu cần thiết hơn mình.
Thế cho nên không giới hạn là người
giàu hay nghèo, ai cũng có khả năng bố thí nhưng của cho không bằng cách
cho, là cho đúng lúc, đúng thời, đúng nơi, đúng chỗ.
Bố thí để tăng trưởng lòng từ bi
Vậy bố thí, cúng dường có ý nghĩa gì?
“Bố thí” tiếng Phạn là Dana, có nghĩa là sự cho; còn theo từ ngữ Hán
Việt “bố” là cùng khắp, “thí” là cho, nghĩa là cho cùng khắp không giới
hạn. Thông thường, ta chỉ bố thí cho người thân, rộng hơn nữa là cho
người nghèo khổ, ít ai bố thí cho người ta đang ghét bỏ hay hận thù.
Chính vì không hiểu biết tới nơi tới chốn nên ta chỉ bố thí có giới hạn
dẫn đến không được nhiều lợi ích, có khi còn tham lam, ích kỷ nữa là
khác. Từ “cúng dường” là nói trại của hai chữ “cung dưỡng”, có nghĩa là
cung cấp và dưỡng nuôi. Về nội dung thì bố thí hay cúng dường chỉ là
một, không có gì là sai khác. Tuy cùng chung một nghĩa cử, một hành
động, nhưng người ta dùng hai từ khác nhau để cho phù hợp với đối tượng
thọ nhận; ta cho với lòng hảo tâm, thương cảm thì gọi là bố thí; còn cho
với lòng ngưỡng mộ, tôn kính thì gọi là cúng dường.
Thí dụ, cha mẹ là hai đấng sanh thành
mang nặng đẻ đau, nuôi ta khôn lớn, lo cho ta ăn học tới nơi tới chốn,
dựng vợ gã chồng, tạo cho ta gia tài sự nghiệp, ta phải có trách nhiệm
cúng dường cha mẹ khi tuổi già hay lúc bệnh hoạn, ốm đau… (nghĩa là cung
cấp và dưỡng nuôi cha mẹ.) Cung cấp những nhu cầu cần thiết để nuôi
dưỡng cha mẹ là đạo lý “uống nước nhớ nguồn; ăn trái nhớ kẻ trồng cây”
trong tập quán của người Việt nam. Làm người trong trời đất ai cũng từ
cha mẹ sinh ra, cha mẹ làm nên thân người, vì vậy ta phải có trách
nhiệm, bổn phận hiếu thảo với mẹ cha bằng cách chăm sóc về tình cảm,
tinh thần và cung cấp, dưỡng nuôi lúc cần thiết. Trong kinh Phật dạy,
gặp thời không có Phật thì cha mẹ là hai vị Phật (Phụ mẫu tại đường như
Phật tại thế). Làm người chúng ta cần nhớ lời dạy quan trọng này.
Một thời lúc Phật còn tại thế, gặp năm
hạn hán mất mùa, dân chúng đói khổ, thiếu thốn, khó khăn, đức Phật cũng
không ngoại lệ. Một vị Tỳ-kheo thấy Phật thiếu ăn liền đem chiếc y của
mình đổi lấy bát cơm dâng lên cúng Phật. Phật hỏi rằng, “ông còn cha mẹ
không?” “bạch Phật, cha con chết rồi, con chỉ còn mẹ già thôi ạ”. Phật
hỏi tiếp, “mẹ ông dùng cơm chưa?” “Dạ chưa!” Phật nói, “người xứng đáng
nhận bát cơm này là mẹ ông chứ không phải Ta”. Sau đó Phật dạy tiếp,
“người xuất gia còn cha mẹ không ai nuôi dưỡng thì người đó có quyền
khất thực đem về cúng dường cha mẹ”. Ngoài việc cúng dường cha mẹ, người
Phật tử còn có trách nhiệm và bổn phận cúng dường người tu hành chân
chánh có đạo đức, có nhân cách, suốt đời phục vụ vì Tam Bảo, vì lợi ích
chúng sanh.
Chính vì vậy, từ cúng dường được dùng
đối với các bậc trưởng thượng, tôn kính như cha, mẹ, thầy Tổ… là những
người có công nuôi dưỡng, dạy dỗ, chỉ dạy, giúp ta nên người. Ngoài từ
ngữ bố thí, cúng dường còn có nhiều từ ngữ khác như kính tặng, kính
biếu… để nói lên lòng tôn kính của người cho.
Từ ngữ “bố thí” được người Việt Nam sử
dụng với nhiều ý nghĩa như cho, tặng, biếu, giúp đỡ, chia sẻ… Tất cả
đều mang ý nghĩa tốt đẹp của hành động cho. Khi gặp người nghèo khổ ta
thương tình giúp đỡ gọi là “cho” hay gọi là “bố thí” cũng được.
Người có tâm từ bi rộng lớn không
những biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ cho người mà còn giúp
các loài vật nữa. Đó là người biết gieo trồng phước đức đúng Pháp. Người
tu hành theo đạo Phật rất cần thực tập để có được tâm từ bi rộng lớn
này.
Con cháu đem vật phẩm nuôi dưỡng ông
bà, cha mẹ thì gọi là cúng dường phẩm vật; còn ông bà cha mẹ đem của cải
vật chất lo cho con cháu thì gọi bằng từ cho, giúp đỡ hay chia sẻ; hoặc
người dân bình thường muốn đem phẩm vật cho những người có địa vị trong
xã hội thì gọi là kính biếu hay kính tặng.
Cùng một hành động bố thí nhưng tùy
đối tượng, tùy hoàn cảnh mà ta dùng từ ngữ sao cho phù hợp để không làm
mất đi sự tôn kính và lòng thương cảm của ta.