CÁC
BÀI SÁM VĂN
XƯNG
TÁN KỶ NIỆM PHẬT BỒ TÁT
118
-
SÁM VĂN XƯNG TÁN TAM THẾ PHẬT
Vô
thượng cảnh Niết bàn ĐẠI GIÁC,
Phóng
hào
quang chiếu đạt Tam thiên,
Hư
linh
hoạt bát vô biên,
Quán
thông
Pháp giới, định yên đất trời.
PHẬT,
BỒ
TÁT ba đời mười hướng,
Ánh
kim
quang muôn trượng chói lòa,
Từ
bi
thệ nguyện hải hà,
Độ
trong
lục đạo thoát mà khổ nguy.
Tây
phương
cảnh Tổng trì Cực lạc,
A
DI ĐÀ PHẬT tác Tịnh bang,
Kim
thân
vô lượng hào quang,
Thọ
mạng
kiếp kiếp muôn vàn khôn phân.
Xưa
bốn
tám nguyện chơn quảng đại,
Độ
chúng
sinh tam giới mười phang,
Đồng
lên
chín phẩm sen vàng,
Hưởng
phần
khoái lạc tịnh an thanh nhàn,
Ta
bà
giới khổ nàn Uế độ,
Ngũ
trược
thời PHẬT TỔ THÍCH CA.
Giáng
trần
độ chúng hằng sa,
Dùng,
Bi,
Trí, Dũng, diễn ra phép mầu.
Đạo
Chánh
giác cao sâu Bát nhã,
Cả
Tam
thừa, Tứ quả, gội nhuần,
Phép
thiền
giải thoát độ nhơn,
Khỏi
nơi
khổ hải, đặng gần Thiên Thai.
Cõi
Đâu
Suất, Liên đài chói rạng,
DI
LẶC
NHƯ LAI quảng độ sanh,
Từ
Thị
diệu lạc tánh thành,
Tử
kim
trăm ức thân sanh khắp cùng.
Đời
mạt
kiếp muôn trùng tai họa,
Kế
THÍCH
CA PHẬT hóa vạn linh,
Đương
lai
trần thế hạ sinh
Long
Hoa
đại hội diễn minh đạo mầu.
Phép
Bồ
Tát cao sâu huyền diệu,
QUAN
THẾ
ÂM lượng liệu hóa thân,
Nhành
dương
quét sạch trược trần,
Tịnh
bình
cam lộ giải tan não phiền.
Đại
bi
rải khắp miền Nam Thiệm,
Tìm
tiếng
kêu nguy hiểm khóc than,
Cứu
người
thoát khỏi tai nàn,
Đồng
đăng
Bát nhã từ thoàn Tây qui.
CHIẾN
THẮNG
PHẬT hộ trì bốn biển,
Cứu
chúng
sanh tai biến vương mang,
Tà
ma
quỉ quái kinh hoàng,
Phục
tùng
Thánh lịnh, qui hàng pháp minh.
THỦ
GIÀ
LAM, oai linh HỘ PHÁP,
Trục
tà
ma, hộ Phật, Pháp, Tăng,
Độ
người
thiện niệm đạo hằng,
Thân
tâm
an tịnh, huệ tăng phước tràn.
Thượng
thiên
cảnh KIM CANG BÁT BỘ,
Chư
Thiện
Thần cứu khổ giải oan,
Thập
phương
BỒ TÁT hóa thân,
Lịch
đại
chư Tổ, ân cần hộ nhơn.
Hóa
vạn
loại ngộ chơn Chánh giác,
Ra
khỏi
miền đọa lạc trầm luân,
Đồng
lên
bệ Phật chín tầng,
Muôn
năm
an hưởng kim thân Bồ Đề.
Dạ
thành
kỉnh một bề qui mạng,
Pháp
Pháp
Tăng tiếp vãng Niết Bàn,
Cầu
PHẬT,
BỒ TÁT mười phang,
Giải
tiêu
thủy hỏa tai nàn đao binh.
Hộ
quốc
thái, an ninh lê thứ,
Khắp
năm
châu xứ xứ hòa bình,
Đạo
mầu
Chánh giác phổ minh,
Chúng
sanh
đồng đặng vãng sinh cõi Thiền,
Nam
mô
Thập Phương Tam Thế Phật, BồTát Thánh Chúng.*
119
- SÁM VĂN KỶ NIỆM PHẬT ĐẢN
Ngày
xưa vào giữa tháng Tư,
Chúng
sanh
mừng đức Đại Từ cung nghinh.
Ngày
nay
kỷ niệm Đản Sanh,
Thiện
nam,
tín nữ lòng thành dâng hương.
Thông
hòa
thế giới mười phương,
Một
lòng
hướng thiện, một đường cần tu.
Giải
oan,
quên hận, dứt thù,
Thương
yêu,
cứu trợ, hòa nhu, tươi cười.
Vì
đời,
đức Phật ra đời,
Vớt
người
mê đắm, cứu người khổ đau.
Hy
sinh
danh lợi sang giàu,
Vẹn
nguyền
tu niệm quản bao phong trần.
Sáu
năm
ép xác, gầy thân,
Năm
năm
tầm đạo, bước chân mỏi mòn.
Độ
sanh
bốn chín năm tròn,
Thân
vàng
dầu mỏn, lòng son chẳng dời.
Treo
gương
giải thoát soi đời,
Treo
gương
từ ái dạy người từ bi.
Lợi
sanh
xả kỷ trường kỳ,
Siêu
sanh
độ thế huyền vi đạo tràng.
Tịch
nhiên
cứu cánh Niết bàn,
Đưa
người
giác ngộ lên đàng tiêu diêu.
Đạo
Từ
quí báu cao siêu,
Giúp
đời
kể biết bao nhiêu cho cùng,
Nhơn
ngày
Khánh Đản lễ chung,
Cùng
trong
Phật tử, cùng đồng pháp môn.
Hiệp
vầy
dưới bóng Từ Tôn,
Một
lòng
thành kính ghi ơn cao dày.*
Nam
Mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
120
- SÁM VĂN KỶ KIỆM PHẬT NIẾT BÀN
- Chúng
con cung kính nghe rằng :
Đức
Bổn
Sư Từ phụ,
Ba
đời
đạo quả vuông tròn,
Giáo
pháp
lưu truyền vũ trụ.
Sáu
độ
tu nhơn đầy đủ,
Pháp
vương
nhập diệt Niết bàn.
Tuy
rằng
: Chân tánh thường an,
Sao
khỏi
hóa thân biến dịch.
-
Nhớ xưa đấng cha lành họ Thích,
Khi
hóa
thân tuổi đã tám mươi.
Hóa
du
khắp cả trời người,
Đại
sự
nhân duyên đã mãn.
Người
từng
báo tin ba tháng,
Rằng
ta
sẽ nhập Niết Bàn...
- Một
hôm cùng chúng lên đàng,
Đi
về
phía rừng Song Thọ,
Giữa
đêm
trăng thanh sáng tỏ,
Trước
mặt
đông đủ Thánh Hiền.
Với
cùng
vô số nhơn thiên,
Tay
phóng
hào quang rực rỡ.
Mọi
người
hết thảy lo sợ,
Đợi
chờ
biến cố xảy ra...
Với
cả
rừng cây Ta La,
Lúc
ấy
biến thành sắc trắng,
Đấng
Chánh
Đẳng, Chánh Giác,
Người
tuyên
bố như vầy :
-
Ta nay đã đến ngày,
Vào
Niết
bàn tịch diệt,
Vậy
những
gì chưa biết,
Với
những
gì hoài nghi,
Bất
luận
một việc chi,
Các
người
cứ xin hỏi,
Ta
Đạo
Sư ba cõi,
Sẽ
giải
thích rõ ràng.
Để
mọi
người tâm an,
Ta
ra
đi vui vẻ.
A
Nan nghe cặn kẽ,
Lòng
bối
rối băn khoăn,
Liền
quì
gối thưa rằng :
Xin
Thế
Tôn từ mẫn.
Dạy
các
điều thỉnh vấn,
Xin
bày
tỏ sau đây :
-
Chư Tăng lấy ai làm thầy,
Chư
Tăng
nương đâu để sống,
Sau
khi
Thế Tôn vãng bóng,
Tại
các
Pháp hội xưa nay ?
Và
việc
nữa thấy này :
Các
Tỳ
kheo ác tánh,
Các
Tỳ
kheo thô hạnh,
Làm
thế
nào ở chung ?
Việc
quan
trọng sau cùng,
Khi
kết
tập kinh điển.
Nên
mở
đầu mỗi quyển,
Bằng
những
câu thế nào ?
Trước
khi
vào phần chính.
Dạy
các
việc thế này:
Chư
Tăng
lấy giới luật làm Thầy
Chư
Tăng
lấy lục hòa để sống.
Sau
khi
ta vắng bóng,
Ở
chung mà tu hành,
Còn
những
người chẳng lành,
Thì
đồng
tâm mặc tẫn.
Việc
kết
tập cẩn thận,
Mở
đầu
kinh thế này :
Rằng
tôi
nghe như vầy,
Một
thuở
nọ đức Phật...
Lời
lẽ
phải thành thật,
Đúng
lời
dạy của Thầy...
-
Nghe Phật dạy tới đây
A
Nan liền cúi lạy.
Xin
vâng
lời Phật dạy,
Lòng
buồn
bã ngại ngùng,
Trước
lời
dạy sau cùng,
Đầy
lo
âu xúc động
Không
biết
thức hay mộng,
Nay
NGHE
THẤY tại đây,
Mai
chỉ
nghe như vậy,
Mà
không
thấy Thầy nữa !
Rồi
giờ
ăn đến bữa,
Ai
ngồi
trước Chư Tăng,
Ai
dạy
bảo khuyên răn,
Ai
dắt
dìu đại chúng.
Ai
hóa
duyên ứng cúng,
Ai
phục
ngoại hàng ma...?
-
Ôi thôi ! Còn đâu Giáo chủ Ta bà !
Ôi
thôi
! Còn đâu Đạo Sư vũ trụ!
-
Đêm đấy cỏ cây ủ rũ,
Cúi
đầu
lễ Phật Niết bàn !
Đêm
ấy
Thánh chúng bàng hoàng,
Quỳ
khóc
Thầy nhập diệt !
Biết
bao
nỗi niềm thương tiếc,
Chi
xiết
mất mát thiệt thòi.
Rồi
từ
đây đường về Xá Vệ trăng soi,
Nào
thấy
bóng thầy La Hán.
Nẻo
đến
Linh Sơn gió thoảng,
Đâu
nghe
tiếng pháp Giác Hoàng !
Và
còn
buồn hơn nữa :
-
Kỳ Viên tấc đất tấc vàng.
Tịnh
xá
giờ này mây che gió lạnh,
Ta
La
đôi cây đôi nhánh,
Kim
thân
ngày đó lửa tắt củi tàn !
Vậy
thì
người đi đâu ?
-
Chẳng theo chân Tịnh Phạn phụ hoàng ?
Không
nối
gót Ma Gia thánh mẫu ?
Chúng
sinh
khó mà hiểu thấu,
Chư
Phật
hẳn đã cảm thông.
Và
rồi
cũng từ đó :
Tây
Thiên
- Ấn Độ núi sông,
Vắng
mặt
Pháp vương cao cả.
Lộc
Uyển,
Trúc Lâm sơn dã,
Mờ
hình
Từ phụ nghiêm trang !
Nhưng
giờ
thì chỉ còn :
-
Nhục thân xá lợi ngọc vàng,
Tháp
miếu
phụng thờ bốn biển.
Xá
lợi
Pháp thân kinh điển,
Thọ
trì
đọc tụng năm châu.
-
Mấy nghìn năm truyền bá pháp mầu,
Xe
pháp
biết bao vất vả !
-
Mấy nghìn năm lưu thông đạo cả,
Thuyền
từ
chi xiết gian nguy.
-
Gieo rắc từ bi, mở mang trí tuệ.
Cứu
nhân
độ thế, cứu quốc an dân.
-
Nơi nơi mát mẻ tứ thân,
Xứ
xứ
thấm nhuần Pháp vũ,
-
Ân ban cây cỏ, đức hòa càn khôn.
Điên
đảo
tỉnh hồn, lợi danh tan mộng.
-
Nghìn thu cửa thần cao rộng,
Muôn
thuở
nhà Phật thâm nghiêm.
-
Nhớ xưa cũng ngày đêm này :
-
Ta La trăng sáng trọn đêm,
Đưa
Phật
đến thành Bất thối
Bản
tự
đèn chong suốt tối,
Rước
người
về từ cõi Vô dư.
Đến
đây
:
Hương
giới
hiến cúng một lư,
Hoa
lòng
kính dâng mấy đóa.
Trống
chuyển
luân Bát Nhã,
Âm
nhạc
cử tác Thánh ca.
Tất
cả
hướng về thành cũ Thi Na.
Tất
cả
vọng đến vườn xưa Song Thọ.
Gởi
hồn
xuôi theo chiều gió,
Dâng
lòng
đến với làn hương,
Cúng
dường
ngôi Trí Tuệ khôn lường,
Tôn
vinh
đấng Từ Bi vô lượng.*
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
121
- MƯỜI HAI ĐẠI NGUYỆN
CỦA
ĐỨC QUÁN THẾ ÂM
Nguyện
Thứ Nhứt : Khi thành Bồ Tát
Danh
hiệu
tôi : Tự Tại Quán Âm
Mười
hai
lời nguyện cao thâm
“Nghe
tiếng
cứu khổ”, Quán Âm thề nguyền.
Nguyện
Thứ Hai : Không nài gian khổ
Quyết
một
lòng cứu độ chúng sanh
Luôn
luôn
thị hiện biển Đông
Vớt
người
chìm đắm, khi dông gió nhiều.
Nguyện
Thứ Ba : Ta Bà ứng hiện
Chốn
U
Minh nhiều chuyện khổ đau
Oan
oan
tương báo hại nhau
Nghe
tiếng
than thở, mau mau cứu liền.
Nguyện
Thứ Tư : Hay trừ yêu quái
Bao
nhiêu
loài ma quỉ gớm ghê
Độ
cho
chúng hết u mê
Dứt
trừ
nguy hiểm, không hề nhiễu nhương.
Nguyện
Thứ Năm : Tay cầm dương liễu
Nước
cam
lồ rưới mát nhân thiên
Chúng
sanh
điên đảo, đảo điên
An
vui
mát mẻ, ưu phiền tiêu tan.
Nguyện
Thứ Sáu : Thường hành bình đẳng
Lòng
từ
bi thương xót chúng sanh
Hỷ
xả
tất cả lỗi lầm
Thường
hành
bình đẳng, chúng sanh mọi loài.
Nguyện
Thứ Bảy : Dứt ba đường dữ
Chốn
ngục
hình, ngạ quỉ, súc sanh
Cọp
beo... thú dữ vây quanh
Quán
Âm
thị hiện, chúng sanh thoát nàn.
Nguyện
Thứ Tám : Giải thoát còng la
Nếu
tội
nhân sắp bị khảo tra
Thành
tâm
lễ bái thiết tha
Quán
Âm
phò hộ, thoát ra nhẹ nhàng.
Nguyện
Thứ Chín : Cứu vớt hàm linh
Trên
con
thuyền Bát Nhã lênh đênh
Bốn
bề
biển khổ chông chênh
Quán
Âm
độ hết, đưa lên Niết Bàn.
Nguyện
Thứ Mười : Tây phương tiếp dẫn
Tràng
hòa
thơm, kỹ nhạc, lộng tàn
Tràng
phan,
bảo cái trang hoàng
Quán
Âm
tiếp dẫn, đưa đàng về Tây.
Nguyện
Mười Một : Di Đà thọ ký
Cảnh
Tây
phương, tuổi thọ khôn lường
Chúng
sanh
muốn sống miên trường
Quán
Âm
nhớ niệm, Tây phương mau về.
Nguyện
Mười Hai : Tu hành tinh tấn
Dù
thân
nầy tan nát cũng đành
Thành
tâm
nghiêm chỉnh thực hành
Mười
hai
câu nguyện độ sanh đời đời.*
122
- VĂN TÁN NGUYỆN QUAN ÂM
Cúi
đầu làm lễ QUAN ÂM,
Phật
tiền
đệ tử chí tâm khẩn nguyền:
Một
cầu
mở hoát tâm nguyên,
Biết
liền
cả thảy pháp thiền NHƯ LAI.
Hai
cầu
Bát Nhã tánh khai,
Sớm
đặng
trí huệ nhãn rày quang minh.
Ba
cầu
từ huệ rộng thinh,
Độ
liền
cả thảy chúng sinh khỏi nàn.
Bốn
cầu
tâm địa mở mang,
Sớm
đặng
phương tiện trí toan lẹ làng.
Năm
cầu
tâm đạo vẹn toàn,
Liền
lên
Bát Nhã từ thoàn Tây qui.
Sáu
cầu
tránh khỏi tai nguy,
Sớm
qua
khổ hải thoát ly hồng trần.
Bảy
cầu
thanh tịnh tâm thân,
Mau
thành
GIỚI, ĐỊNH, HUỆ chơn pháp thiền.
Tám
cầu
đạo hạnh cố kiên,
Sớm
lên
bỉ ngạn tịnh yên Niết Bàn.
Chín
cầu
tánh đặng thanh an,
Vô
vi
diệu trí minh quang phát liền.
Mười
cầu
hành đạo tinh chuyên,
Sớm
thành
Phật tánh diệu viên Bồ đề.
Mong
ơn
Bồ Tát chứng tri,
Độ
cho
đệ tử tu trì thành công.*
123
- SÁM VĂN QUAN ÂM
MƯỜI
HAI NGUYỆN
Cúi
đầu làm lễ VIÊN THÔNG,
QUAN
ÂM
TỰ TẠI mở lòng độ hơn.
Từ
bi
quảng đại vô lường,
Lập
hoằng
thệ nguyện vẹt đường khổ nguy.
Một
niềm
lòng chẳng ngại chi,
QUAN
ÂM
ân đức chơn vi hải hà.
Thường
cư
Nam Hải Phổ Đà,
Chí
nguyền
độ chúng khỏi sa tội tình.
Ta
bà
thế giới u minh,
QUAN
ÂM
thường trụ hiện hình khắp nơi,
Tầm
thinh
cứu kẻ lưng vơi,
Chí
nguyền
độ thế về nơi an nhàn.
Trừ
yêu
trục quỉ kinh mang,
QUAN
ÂM
oai đức phục hàng chúng Ma.
Vớt
người
nguy hiểm đọa sa,
Chí
nguyền
phổ tế, nhọc mà chẳng than.
Thường
cầm
thanh tịnh bình vàng,
QUAN
ÂM
cậy có nhành dương cam lồ,
Rưới
tâm
phiền não lửa lò,
Chí
nguyền
độ chúng an cư Niết bàn.
Từ
bi
tánh đức mở mang,
QUAN
ÂM
hỉ xả tâm hoàn huệ thông,
Thường
hành
bình đẳng đại đồng,
Chí
nguyền
hóa độ khắp trong muôn loài.
Mười
phương
tuần sát đêm ngày,
QUAN
ÂM
tinh tấn mựa nài công lao,
Độ
đều
nhơn vật khỏi hao,
Chí
nguyền
diệt tận khổ đau ba đường.
Một
lòng
vọng tưởng Nam Sơn,
QUAN
ÂM
lễ bái ân cần hôm mai.
Xem
nơi
xiềng tỏa đọa đày,
Chí
nguyền
độ kẻ mang tai khỏi nàn.
Từ
bi
tạo chiếc Pháp thoàn,
QUAN
ÂM
dạo khắp khổ nàn biển khơi.
Độ
người
lặn hụp chơi vơi,
Chí
nguyền
tiếp dẫn về nơi Niết bàn.
Tràng
phan
bửu cái nghiêm trang,
QUAN
ÂM
sắp đặt rỡ ràng trước sau
Rước
người
niệm Phật chẳng xao,
Chí
nguyền
dìu dắt thẳng vào Tây phương.
Vô
Lượng
Thọ Phật cõi thường,
QUAN
ÂM
thọ ký, chỉ đường vô sanh,
Từ
bi
phổ hóa hàm linh,
Chí
nguyền
độ chúng kiến minh Di Đà.
Đoan
nghiêm
thân hiện sáng lòa,
QUAN
ÂM
diệu tướng thiệt là vô song,
Lực,
hùng,
bi, trí viên dung,
Mười
hai
đại nguyện quả công tu tròn.*
124
- THIỆN SINH KỆ VĂN
Sắp
bình minh mỗi ngày,
Nghe
gà
gáy dậy ngay,
Đánh
răng,
rửa mặt sạch,
Y
phục liền đổi thay.
Trang
nghiêm lại đạo tràng,
Sửa
bông,
thắp đèn nhang,
Thay
nước
cho thanh tịnh,
Cúng
dàng
Phật Pháp Tăng.
Chắp
tay cung kính lễ,
Tam
bảo
khắp tam the,á
Phát
nguyện
báo tứ ân,
Chuyên
cần
không biếng trễ.
Ân
sư trưởng, mẹ cha,
Ân
xã
hội, nước nhà,
Ân
chúng
sinh muôn loại,
Ân
Phật
Pháp Tăng già.
Nên
phát tâm chơn thật,
Hành
sáu
Ba la mật,
Pháp
môn
thật nhiệm mầu,
Đưa
đến
quả vị Phật.
Một
là phát bi tâm,
BỐ
THÍ
khắp xa gần,
Độ
người
bớt mê khổ,
Khiến
ta
dứt keo tham.
Hai
là TRÌ GIỚI luật,
Để
ngăn
ngừa phóng dật,
Vi
phạm
các điều răn,
Cho
phước
sanh, tội mất.
Ba
là khẩu, ý, thân,
NHẪN
NHỤC
trừ nóng sân,
Đối
với
mọi nghịch cảnh,
Khiến
hằng
được an lành.
Bốn
là thường gắng sức,
TINH
TẤN
trong mọi lúc,
Diệt
lười
biếng, hôn trầm,
Để
thành
tựu công đức.
Năm
là chăm TU THIỀN,
Diệt
ý
mã, tâm viên,
Khiến
tâm
hằng khế hội,
Chân
như
tánh diệu huyền.
Sáu
là TRÍ BÁT NHÃ,
Văn,
tư,
tu hành cả,
Diệt
vọng
tưởng, ngu si,
Để
thành
bậc GIÁC GIẢ.
Ngày
tháng chẳng chờ người,
Siêng
tu
chớ biếng lười,
Sanh,
già,
bệnh, chết khổ,
Thân
mạng,
được bao thời.
Huống
chi khi sắp chết,
Chẳng
ai
thay cho hết,
Không
chốn
nào dựa nương,
Oằn
oại
trong rên xiết.
Dù
cho có sang giàu,
Thuốc
thang
chữa được đâu,
Phước
trời
còn lúc hết,
Phước
người
được bao lâu.
Nào
mẹ, cha, con, vợ...
Đều
như
khách ngủ trọ,
Đêm
qua
cùng sống chung,
Sáng
nay
đà tan vỡ.
Có
hợp là có ly,
Trần
thế
thật khổ nguy,
Vô
thường
là như vậy,
Mau
lo
việc tu trì.
Vả
lại trong sáu ngả,
Do
nghiệp
đưa đẩy cả,
Luân
hồi
không tạm dừng,
Sống
chết
thật vất vả.
Nay
may được thân người,
Nghe
gặp
chánh pháp rồi,
Hãy
mau
tự tu tiến,
Và
khuyến
hóa cho đời.
Thuyền
từ là lục độ,
Hay
vượt
qua biển khổ,
Sinh
tử
để đến bờ,
An
vui
nơi tịnh thổ.
Chư
Phật Vô Lượng Quang,
Cha
lành
cõi Lạc bang,
Nguyện
lực
thật rộng lớn,
Tiếp
dẫn
đến đài vàng.
Thọ
ký Bồ đề đạo,
Dứt
khổ
mê phiền não,
Bất
thoái
chuyển chóng thành,
Quả
vô
thượng rốt ráo.
Tứ
chúng hãy vâng lời,
Cõi
Phật
quyết cầu sang,
Để
thoát
ly sanh tử,
Thể
nhập
đại Niết bàn.*
125
- BỐN MƯƠI TÁM LỜI NGUYỆN
CỦA
ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ.
Nguyện
Thứ Nhứt : khi tôi thành Phật,
Trong
nước
tôi, không có ngục hình,
Hay
loài
ngạ quỉ, súc sanh,
Không
bao
giờ có sanh thành nơi đây.
Tôi
nguyện
không được như vầy,
Thề
không
thành Phật lời này không sai.
Nguyện
Thứ Hai : nhân dân trong nước,
Đều
hóa
sanh từ “Chín Phẩm Liên”,
Nương
theo
nguyện lực tinh chuyên,
Đến
khi
thọ mạng, sen liền nở hoa.
Nguyện
Thứ Ba : hóa ra vật thực,
Nhiều
thứ
ngon, khỏi phải tìm cầu,
Dùng
xong,
vật dụng liền thâu,
Không
cần
phải rửa, phải lau nhọc nhằn.
Nguyện
Thứ Tư : y phục mỗi ngày,
Muốn
bao
nhiêu : áo, mũ, dép, giầy,
Thảy
đều
hóa đủ trưng bày,
Khỏi
mua,
khỏi giặt, khỏi may cực lòng.
Nguyện
Thứ Năm : thành trì bát ngát,
Nhiều
lâu
đài , cung điện nguy nga,
Bảy
hàng
cây báu đơm hoa,
Hương
thơm
ngào ngạt, tỏa ra nhe nhàng.
Nguyện
Thứ Sáu : kính mến tương giao,
Không
xan
tham, giúp đỡ lẫn nhau,
Không
lời
qua lại trước sau,
Không
ganh,
không ghét, thương nhau vô
vàn.
Nguyện
Thứ Bảy : nhân dân trong nước,
Không
có
lòng uế trước, dâm ô,
Cũng
không
có tiếng tục thô,
Cùng
là
nóng giận, hồ đồ ngu si.
Nguyện
Thứ Tám : chuyên trì chán niệm,
Nhớ
điều
hay, điều dở bỏ đi,
Nếu
ai
muốn nói chuyện gì,
Người
kia
hiểu ý, tức thì khỏi phân.
Nguyện
Thứ Chín : chỉ nghe điều thiện,
Có
hơi
đâu, nghĩ chuyện dông dài,
Chuyên
tâm
tu niệm hằng ngày,
Rồi
ra
nghiệp chướng dứt ngay không còn.
Nguyện
Thứ Mười : biết thân này huyễn,
Thì
không
nên tham luyến thế gian,
Khổ
thay
trần thế không an,
Xin
đừng
tham đắm, vô vàn điêu linh.
Nguyện
Mười Một : trời, người tuy khác,
Hình
dung
đồng một sắc vàng y,
Người
người
nghiêm chỉnh phương phi,
Mặt
mày
đẹp đẽ, không chi sánh bằng.
Nguyện
Mười Hai : Thinh Văn, Duyên Giác,
Nhờ
chuyên
cần tu tập hành thiền,
Cho
đến
động vật... nhân, thiên,
Chứng
quả
Duyên Giác, Thinh Văn không lường.
Nguyện
Mười Ba : dân số Phật Đà,
Không
còn
có số tính ra cho bằng,
Nhiều
như
số cát sông Hằng,
Tại
An
Dưỡng Quốc, khó phân khó lường.
Nguyện
Mười Bốn : sống đời trường thọ,
Cảnh
thanh
nhàn hưởng thọ tự nhiên,
Không
sao
tính được vận niên,
Sống
lâu
vô lượng, vô biên đời đời.
Nguyện
Mười Lăm : hưởng lạc an nhàn,
Trọn
sống
đời Cực lạc, cao sang,
Như
người
vượt thoát trần gian,
Lậu
hoặc
dứt hết, Lạc bang vui vầy.
Nguyện
Mười Sáu : thanh tịnh trang nghiêm,
Hẳn
xa
lìa vọng tưởng triền miên,
Sống
đời
tịch tịnh an nhiên,
Niết-bàn
hiển
hiện, Chân nguyên tỏ bày.
Nguyện
Mười Bảy : thực hành đạo cả,
Suốt
đêm
ngày ròng rã độ sinh,
Thiết
tha
nói pháp tụng kinh,
Hoằng
khai
Phật đạo, công trình hơn ai.
Nguyện
Mười Tám : biết được kiếp trước,
Hễ
vừa
sanh vào cõi nước tôi,
Người
người
rõ chuyện xa xôi,
Trăm,
ngàn,
muôn kiếp qua rồi đều thông.
Nguyện
Mười Chín : “cái thấy ” thông suốt,
Dân
chúng
tôi có thể xa trông,
Toàn
thể
vũ trụ mênh mông,
Rõ
ràng
trước mặt, đều không trở ngại.
Nguyện
Hai Mươi : “cái nghe” rõ ràng,
Ở
phương xa, chư Phật nói kinh,
Thảy
đều
nghe rõ âm thinh,
Nghìn
muôn
ức cõi, như hình đâu đây.
Nguyện
Hăm Mốt : biết rõ tâm người,
Cách
trăm
ngàn thế giới xa xăm,
Chúng
sanh
vừa mới mống tâm,
Dân
tôi
đều biết, không nhầm mảy may.
Nguyện
Hăm Hai : thong dong tự tại,
Những
tận
đâu, chẳng nại đường xa,
Chỉ
trong
khoảnh khắc vượt qua,
Mười
phương
các cõi như là dạo chơi.
Nguyện
Hăm Ba : công đức vui mừng,
Khen
ngợi
tôi, đại chúng đồng thanh,
Phát
tâm
vui vẻ hiền lành,
Lâm
chung
sẽ được, hóa sanh sen vàng.
Nguyện
Hăm Bốn : quang minh chiếu diệu,
Nơi
đảnh
tôi rực rỡ vô ngần,
Sáng
hơn
nhật nguyệt muôn lần,
Luôn
luôn
tỏ rạng, khó phân đêm ngày.
Nguyện
Hăm Lăm : hào quang chói lọi,
Đến
tận
nơi các cõi U Minh,
Chư
Thiên
cho đến bàng sinh,
Thấy
hào
quang sáng, tự mình quy y.
Nguyện
Hăm Sáu : quang minh cảm hóa,
Khắp
mười
phương các cõi nhân dân,
Hào
quang
chiếu đến bản thân,
Từ
hòa
tâm tánh hơn dân cõi trời.
Nguyện
Hăm Bảy : vãng sanh Tịnh độ,
Cho
những
người giữ giới, ăn chay,
Đến
những
ai thiền định, đêm ngày,
Khi
nào
mãn báo thân nầy
Tôi
và
Thánh chúng đông vầy,
Phóng
quang
tiếp dẫn, lên ngay sen vàng.
Nguyện
Hăm Tám : trời, người các cõi,
Nghe
danh
tôi, trần thiết huy hoàng,
Ngày
đêm
tưởng niệm vái van,
Người
ấy
sẽ được, Lạc bang sanh về.
Nguyện
Hăm Chín : chúng sanh các cõi,
Nếu
dốc
lòng ra khỏi bến mê,
Tên
tôi
mười niệm, không hề,
Xao
lãng
chánh niệm, được về Tây phương.
Trừ
những
kẻ tánh tình ngỗ nghịch,
Cùng
những
người báng Phật, Pháp, Tăng.
Ra
vào
tập tánh hung hăng,
Chắc
đọa
địa ngục, muôn năm thọ hình.
Nguyện
Ba Mươi : mọi điều như ý,
Kiếp
trước
đây tạo nghiệp không lành,
Hôm
nay,
phát nguyện tu hành,
Tây
Phương
Cực Lạc, cầu sanh dễ dàng.
Nguyện
Băm Mốt : mọi người cung kính,
Nghe
tên
tôi, đảnh lễ cúng dàng,
Người
đó
sẽ được dễ dàng,
Trời,
người,
kính nể, quy hàng, tán dương.
Nguyện
Băm Hai : sanh làm nam giới,
Những
đàn
bà con gái chán đời,
Phát
tâm
tín niệm danh tôi,
Thân
sau
sẽ khỏi luân hồi nữ nhi.
Nguyện
Băm Ba : chứng liền đạo quả,
Bậc
“Nhất
Sanh Bổ Xứ” chứng liền,
Lại
còn
những vị siêu nhiên,
Muốn
sanh
cõi khác, tôi liền giúp cho.
Giúp
cho
hạnh nguyện Phổ Hiền,
“Tịch
Diệt”,
“Phạm Hạnh” cần chuyên thi
hành.
Rồi
ra
giáo hóa chúng sanh,
Chứng
nên
Phật quả, viên thành nguyền
xưa.
Nguyện
Băm Bốn : nhân dân trong nước,
Muốn
sanh
về cõi khác độ sanh,
Nếu
không
như nguyện, cũng không,
Đọa
ba
đường dữ, thoát vòng trầm luân.
Nguyện
Băm Lăm : các hàng Bồ Tát,
Muốn
cúng
dường chư Phật những đâu,
Hương,
hoa,
anh lạc, trân châu,
Mang
đi
khắp cả, vừa hầu bữa ăn.
Nguyện
Băm Sáu : được như ý nguyện,
Nếu
ước
muốn mọi vật có liền,
Đưa
đi
khắp cả các miền,
Cúng
dường
chư Phật, về liền chưa trưa.
Nguyện
Băm Bảy : thông minh trí tuệ,
Hàng
Bồ
Tát phúng tụng các kinh,
Liền
được
trí huệ thông minh,
Diễn
dương
Chánh Pháp, tài tình cao siêu.
Nguyện
Băm Tám : biện tài vô ngại,
Chư
Tôn
Bồ Tát huệ sáng ngời,
Giảng
kinh
thuyết pháp khắp nơi,
Biện
tài
vô ngại, không người sánh phân.
Nguyện
Băm Chín : nhân dân trong nước,
Ba
mươi
hai tướng tốt trang nghiêm,
Kim
cang
thần lực vô biên,
In
như
chư Phật, kim thân sáng ngời.
Nguyện
Bốn Mươi : quốc độ trang nghiêm,
Trong
cây
báu, muốn xem chư Phật,
Mười
phương
các cõi ở xa,
Hiển
hiện
trước mặt như là soi gương.
Nguyện
Bốn Mốt : mọi đường công đức,
Bồ
Tát
nào chưa được hoàn toàn,
Có
thể
biết được Đạo tràng,
Bề
cao
cho đến bốn ngàn do tha.
Nguyện
Bốn Hai : người, vật khôn lường,
Quốc
độ
tôi, đồ vật, chúng sinh ...
Mỗi
người
mỗi vật tịnh minh,
Dù
chứng
thiên nhãn, chẳng nhìn hết đâu.
Nguyện
Bốn Ba : mọi người trong nước,
Chí
mong
cầu nghe được Pháp, Kinh,
Tự
nhiên
có sẵn âm thinh,
Không
cần
mời thỉnh, theo tình thế gian.
Nguyện
Bốn Bốn : Bồ Tát, Thinh Văn,
Trong
nước
tôi, trí huệ oai linh,
Trên
đảnh
có ánh quang minh,
Biện
tài
nói pháp, in hình Thế Tôn.
Nguyện
Bốn Lăm : mười phương Bồ Tát,
Nghe
tên
tôi phát nguyện quy y,
Lại
thêm
thiền định hành trì,
Liền
được
giải thoát không gì vướng ngăn.
Nếu
chí
muốn cúng dường chư Phật,
Trong
khoảnh
khắc khắp cả các phương,
Đường
xa
tuy khó đo lường,
Nương
nhờ
thần lực, trên đường thong
dong.
Nguyện
Bốn Sáu : chư Tôn Bồ Tát,
Ở
phương xa, tinh tấn tu hành,
Tam
muội,
giải thoát chứng xong,
Thường
thấy
chư Phật số đông không lường.
Nguyện
Bốn Bảy : dân số đông dầy,
Hàng
hàng
lớp lớp về đây tu hành,
Người
người
nguyện thỏa vô sanh,
Vào
hàng
Bất thối, viên thành nơi đây.
Nguyện
Bốn Tám : hoàn thành Pháp Nhẫn,
Người
người
đều thành khẩn quy y,
Hoàn
thành
nguyện lớn một khi,
Nhất,
nhị,
tam nhẫn, hành trì luôn luôn.
Pháp
Tạng phát nguyện vừa xong,
Mười
phương
các cõi thảy đồng hân hoan,
Hương,
hoa,
kỹ nhạc, lộng tàn,
Cúng
dường
Giáo Chủ Lạc Bang Di Đà.*
126
- BÀI KINH TÁM ĐIỀU
Kinh
tám điều người trên hiểu biết,
Con
Phật
thời nên hết đêm ngày,
Dốc
lòng
tụng niệm không ngơi,
Tám
điều
hiểu biết của người bậc trên.
Thứ
nhất
: biết thế gian không chắc,
Hiểu
rõ
rằng cõi nước yếu nguy,
Thân
này
nào có ra chi,
Đất,
nước,
gió, lửa hợp về lại tan.
Luống
những
chịu muôn ngàn đau khổ,
Ngũ
ấm(
) không, còn có mình sao,
Khác
nào
như cảnh chiêm bao.
Biến
thiên
sinh diệt, ai nào chủ trương,
Lòng
này
chính là nguồn độc ác,
Đem
thân
ra gánh vác tội tình.
Nay
đà
xem xét cho rành,
Dần
dần
xa lánh tử sinh có ngày.
Điều
thứ
hai : ta đây hiểu biết,
Ham
muốn
nhiều chỉ mệt mà thôi,
Chết
đi,
sống lại bao đời,
Tham
là
gốc khổ, mấy người tỉnh đâu.
Ham
muốn
ít, không cầu cạnh mấy,
Thân
tâm
đều tự tại tiêu dao,
Điều
thứ
ba : rõ trước sau,
Lòng
không
chán đủ, tham cầu không ngơi,
Gây
nên
tội tầy trời tầy bể,
Bồ
Tát
không như thế bao giờ,
Biết
vừa
nên chẳng cầu dư,
Phận
nghèo
giữ đạo sớm trưa an nhàn.
Cốt
sao
cho trí khôn sáng tỏ,
Điều
thứ
tư : cũng rõ gót đầu,
Biếng
lười
sa xuống vực sâu,
Nên
cần
tinh tiến để cầu tiến lên.
Phá
sạch
hết điều phiền não trước,
Bốn
con
ma ( ) dẹp hết là xong,
Ngục
ngũ
ấm thoát khỏi vòng,
Thứ
năm
: biết rõ thủy chung muôn loài,
Thuần
chỉ
những sống say chết ngủ,
Bồ
Tát
thường lấy đó làm lo.
Học
hành
chẳng quản công phu,
Nghe
nhiều
học rộng cốt cho thành tài.
Trí
tuệ
lớn vẹn đầy sau trước,
Dạy
muôn
loài đều được yên vui,
Sáu
là
: hiểu rõ đầu đuôi,
Nghèo
cùng
khổ não lắm người thù riêng,
Thường
mắc
phải ác duyên hoạnh họa.
Bồ
Tát
cho khắp cả muôn loài,
Một
niềm
bình đẳng không hai,
Oán
thân
như một lòng đầy từ bi,
Điều
xấu
cũ không hề vướng vít,
Kẻ
xấu
xa chẳng ghét không chê,
Thứ
bảy
: biết ngủ nghê ăn uống,
Danh,
Sắc,
Tài ham muốn là nguy,
Dù
chưa
thay đổi hình nghi,
Còn
là
người tục chẳng mê thói đời,
Áo,
bát,
pháp đêm ngày tưởng nhớ,
Theo
đạo
mầu chí cố xuất gia,
Giữ
gìn
trong ngọc trắng ngà,
Nết
thanh
cao giữ thật là thanh cao.
Lòng
từ
bi lúc nào cũng đủ,
Thứ
tám
là : biết rõ tử sinh,
Khác
nào
lửa cháy bên thành,
Chứa
chan
khổ não nghĩ tình xót thương,
Mở
lòng
rộng tìm đường cứu vớt,
Thay
muôn
loài chịu hết đắng cay,
Khiến
cho
hết thảy muôn loài,
Đều
cùng
giải thoát tháng ngày yên vui.
Tám
việc
ấy là nơi chư Phật,
Cùng
các
Ngài Bồ Tát Đại nhân,
Đều
cùng
hiểu rõ nguồn cơn,
Từ
bi
trí tuệ sửa tròn trước sau,
Làm
việc
đạo bấy lâu tinh tiến,
Thuyền
Pháp
thân chở đến Niết bàn,
Là
nơi
yên tĩnh an nhàn,
Lại
về
cõi khổ cưu mang mọi loài,
Tám
việc
trước ta đây hiểu biết,
Mở
đường
ra cho hết thảy đi,
Khiến
bao
loài trước ngu si,
Biết
sống,
chết, khổ bỏ lìa muốn năm, ( )
Theo
đạo
chính tận tâm tu tập,
Nếu
quả
là con Phật tụng đây,
Trong
khi
nghĩ tám việc này,
Bao
nhiêu
tội lỗi tức thời sạch ngay.
Đạo
Bồ
đề thẳng tới nơi,
Lên
ngôi
Chính giác chỉ giây phút thành,
Đoạn
tuyệt
hẳn đường sanh nẻo tử.
Đời
đời
thường ở chỗ yên vui.*
*
127
- SÁM A DI ĐÀ PHẬT
Nam
mô Giáo chủ Tây phang,
A
DI ĐÀ Phật tịnh an Niết bàn,
Kim
thân
vô lượng hào quang,
Thọ
mạng
kiếp kiếp muôn vàn khôn phân.
Từ
bi
rải khắp đức ân,
Hóa
miền
Tịnh độ muôn phần trang nghiêm.
Đức
công
phổ độ vô biên,
Khắp
trong
tam giới các miền chúng sanh.
Lực,
Hùng,
Bi, Trí, lập thành,
Liên
trì
hải hội đức lành sấm vang.
Có
hàng
La Hán, Thinh Văn,
Cùng
chư
Bồ Tát pháp năng cao cường.
Chúng
sanh
trong cõi Tây phương,
Chẳng
hề
thối chuyển, hằng nương đạo trường.
Tu
hành
tiến hóa phi thường,
Một
đời
thành đạo chứng chơn Phật Đà.
Số
người
đắc quả hằng sa,
Ở
ngôi Bồ Tát, Ta bà độ sanh.
Thiện
nam
tín nữ kính thành.
Một
niềm
tín ngưỡng trì danh hiệu Ngài.
Lâm
chung
giờ đến chẳng sai,
Di
Đà
chúng Thánh hiện ngay nhãn tiền.
Thân
an
tâm chẳng đảo điên.
Liền
sanh
Cực Lạc Tây thiên Di Đà.
Đức
công
Phật Tổ hải hà,
Nguyện
xưa
bốn tám thiệt là từ bi.
Chúng
sanh
tín ngưỡng qui y,
A
DI ĐÀ Phật độ ly khổ nàn...
Hằng
ngày
hộ niệm tâm an,
Liền
đặng
phước huệ, Tịnh bang vãng hồi.
Ai
mà
trước phát nguyện rồi,
Hoặc
là
nay nguyện, hoặc rồi nguyện sau.
Muốn
sanh
cõi Phật tối cao,
Đạo
mầu
Chánh Giác trước sau chắc thành.
Ngưỡng
trông
đức cả tột lành,
Hiển
linh
soi xét lòng thành chứng minh.
Độ
cho
bá tánh khương ninh,
Nhà
an
nước trị, hòa bình năm châu.
Phép
mầu
phương tiện cao sâu,
Thần
thông
độ khắp hồi đầu tánh linh.
Hữu
tình
cùng với vô tình,
Đồng
thành
chủng trí, vãng sinh Niết bàn.
Lại
nguyền
Tam bảo đạo tràng,
Nhờ
ân
Phật Tổ điểm ban diệu huyền.
Đạo
mầu
chánh giác hoằng tuyên,
Pháp
môn
vĩnh viễn rộng truyền khắp nơi.
Độ
người
biển khổ lưng vơi.
Lên
thuyền
Bát Nhã về nơi thanh nhàn.*
PHỤ
LỤC
KỆ
VĂN A NAN THỈNH PHẬT
CHỨNG
MINH
Tâm
Chánh Định như như bất động,
Phật
Ba
thân nhân thế khó tìm.
Trăm
ngàn
muốn kiếp đảo điên,
Vô
minh
dứt sạch, chứng liền Pháp Thân.
Nay
con nguyền chứng ngôi Chánh Giác,
Độ
chúng
sanh như cát sông Hằng.
Thân,
tâm
này nát như trần, (bụi)
Hồng
ân
chư Phật, chút phần báo ơn.
Cung
thỉnh Thế Tôn lại chứng minh,
Đời
năm
trược con xin vào trước,
Một
chúng
sanh quả Phật chưa thành,
Con
nguyền
không chứng Vô Sanh Niết Bàn.
Đại
Hùng,
Đại Lực, Đại Từ Bi,
Giúp
con
dứt sạch sân, si, buồn, phiền.
Để
sớm được lên miền Thượng Giác,
Ngồi
Đạo
Tràng bát ngát mười phương.
Hư
không
có thể tiêu tan,
Nguyện
con
kiên cố không hề lung lay.
Nam
Mô Thường Trụ Thập Phương Phật,
Nam
Mô
Thường Trụ Thập Phương Pháp,
Nam
Mô
Thường Trụ Thập Phương Tăng.*