CÁC
BÀI SÁM VĂNCẦU AN CẦU SIÊU
143
- SÁM CẦU NGUYỆN TRAI TĂNG
Nay
tín chủ lòng thành phát nguyện,
Lễ
cúng
dường phụng hiến chư Tăng.
Sắm
sanh
vật uống, thức ăn,
Thuốc
men,
mùng chiếu, áo chăn cúng dường.
Là
tứ
sự thông thường mọi việc,
Sắp
gom
vào một tiệc trai Tăng.
Lễ
này
vốn lễ cầu an,
Hiền
tiền
phụ mẫu được ban phước nhiều.
Và
cũng
để cầu siêu báo bổ,
Trong
Cửu
Huyền Thất Tổ từ xưa.
Được
nhờ
ân đức móc mưa,
Tiêu
diêu
khoái lạc phước thừa sanh thiên.
Cùng
nội
ngoại hai bên cật ruột,
Tổ
tông
đồng quyến thuộc lục thân.
Kẻ
xa
cho chí người gần,
Thảy
đều
thọ hưởng phước phần vẻ vang.
Lòng
tin
tưởng trong hàng Tăng chúng,
Bủa
đức
lành mưa phún nước rơi.
Từ
bi
thương xót cứu đời,
Ra
ơn
chú nguyện như lời cầu xin.
Vậy
gom
cả tâm linh hòa nguyện,
Phước
lành
nầy phổ biến thế gian.
Chúng
sanh
khắp cõi các hàng,
Siêu
vòng
nghiệp chướng thoát đàng trầm luân.
Xứ
xứ
thảy thấm nhuần đạo đức,
Người
người
đều ra sức cần tu.
Mưa
hòa
gió thuận êm ru,
Trăm
nhà
phước lạc muôn thu thái bình.
Địa
ngục
bớt hãm hình thống khổ,
Ngạ
quỉ
thường được chỗ siêu lên.
Súc
sanh
vượt cõi thấp hèn,
Theo
duyên
tiến hóa đua chen lần lần.
Đường
thiện
đạo chư thần cải dữ,
Cõi
nhơn
người biết xử khoan dung.
Nhịp
nhàng
theo lẽ sống chung,
Chư
thiên
hòa hiệp thảy đồng yên vui.
Mớ
vật
chất lấp vùi hố thẳm,
Nẻo
tinh
thần bước giẫm lên cao.
Thánh
vương
phải mặt anh hào,
Hiền
thần
đức hạnh thanh cao dạy đời.
Dân
lành
biết giữ lời khuyến nhủ,
Chỉ
chuyên
lo chăm chú tu hành.
Không
người
giàu có ỷ mình,
Không
người
nghèo khổ, ghét ganh khích hiềm.
Chốn
tù
tội ngày đêm trống vắng,
Nạn
điên
khùng mất hẳn hôn trầm.
Ăn
xin,
đui, điếc, què, câm,
Bao
nhiêu
những cảnh thương tâm chẳng còn.
Núi
xương
trắng mau mòn thán oán,
Biển
máu
đào chóng cạn thù hằn.
Bầu
trời
độc khí tiêu tan,
Mùi
hương
bác ái thơm lan khắp cùng.
Chúng
sanh
biết tôn sùng Phật Pháp,
Tiếng
kệ
kinh lấn áp lợi danh.
Ai
ai
lánh dữ về lành,
Bến
mê
Đông độ đổi thành Tây phương.
Không
còn
phải vấn vương tứ khổ,
Nỗi
khổ
sanh đến độ khổ già.
Khổ
đau
oằn oại rên la,
Ngặt
nghèo
khổ chết, xót xa bi sầu.
Kỉnh
đức
Phật nhiệm mầu đạo chánh,
Trọng
chư
Tăng khổ hạnh công dày.
Quí
yêu
Pháp bảo bực thầy,
Biết
cây
đuốc sáng hiệp vầy nương theo.
Kẻ
sống
chớ giàu nghèo xao xuyến,
Người
thác
đừng lưu luyến tríu mê.
Sanh
giả
không, tử giả không hề,
Sống
nương
cõi tạm, thác về quê xưa.
Vong
linh
được cải chừa nghiệp dữ,
Giữa
ngày
nầy tứ sự cúng dâng.
Là
ngày
tín chủ trai Tăng.
Cầu
siêu
nghiệp tội vong nhân bấy chầy.
Được
thọ
thưởng đủ đầy phẩm thực,
Lại
chi
dùng phước đức dồi dào.
Thêm
nghe
nhạc Pháp thanh tao,
Vội
vàng
thức tỉnh xôn xao qui đầu.
Lối
tham
chấp từ lâu được giải,
Nợ
buộc
ràng oan trái dứt tiêu.
Cất
mình
bay nhẹ cao siêu,
Thung
dung
khoái lạc tiêu diêu thanh nhàn.
Người
hiện
tại bình an thơ thới.
Sức
khỏe
tăng, phấn khởi tinh thần,
Sống
lâu
tuổi thọ thêm phần,
Trí
thông,
huệ sáng, sắc thân tốt màu.
Ý
nghiêm mật giồi trau đức hạnh,
Mắt
tinh
vi theo chánh bỏ tà.
Đoan
trang
mặc áo nhu hòa,
Ngồi
tòa
thanh tịnh, vào nhà Từ Bi.
Học
thấu
suốt huyền vi phép nhiệm,
Diệt
tâm
phàm vọng niệm chẳng sanh.
Tập
trung
tư tưởng điển lành,
Hào
quang
rạng chói chung quanh đỉnh đầu.
Bồ
đề
nguyện đạo mầu chứng đắc,
Bồ
Tát
thân dìu dắt thế trần,
Trang
nghiêm
thị hiện oai thần,
Độ
trong
sanh chúng tinh cần chuyên tu.
Người
người
biết công phu thiền định,
Dưỡng
tinh
thần thanh tịnh tự nhiên,
Cõi
đời
biển ái lặng yên,
Sông
mê
trong vắt não phiền còn đâu.
Chúng
sanh
thảy quay đầu bến giác,
Kẻ
sống
vui, người thác nhẹ nhàng,
Đàn
na
tín thí công ơn,
Phước
điền
rộng đức, huệ sơn cao tài.
Hữu
tình
vốn nhơn loài động vật,
Vô
tình
là cây đất bao đồng.
Thảy
đều
đắc quả thành công,
Cả
nên
Phật đạo hiện trong kiếp này.*
144
- KỆ VĂN VÔ SINH NIỆM PHẬT
“Lửa
mồi ánh chớp có gì đâu ?
Ân
ái
sao còn quấn quít nhau !
Một
túi
da khô đầy bảo vật,
Tấm
thân
vàng kệch rượu cơm bầu.
Luân
hồi
sống chết ai là khỏi,
Tờ
lệnh
Diêm La kíp tới hầu,
Phúc
tội
tóc tơ bày rõ hết,
Phân
minh
sổ sách trước như sau.
Cột
đồng
giường sắt trông ghê khiếp,
Than
khóc
kêu gào tránh được đâu ?
Hối
lại
tu hành e đã muộn,
Đầu
thai
làm kiếp ngựa hay trâu.
Nghiệp
duyên
chồng chất quên đời trước,
Nhờ
Phật
rồi đây mới thoát cầu,
Một
điểm
“Chân như” ai nấy sẵn,
Thoát
vòng
sinh tử niệm lên mau.
“Quạ
bay,
thỏ chạy chóng như thoi,
Than
hỡi
! Đời ta được mấy hồi,
Chỉ
cõi
Tây phương nơi Lạc cảnh.
Quay
đầu
ta kíp niệm đi thôi !
Nam
mô
A Di Đà Phật (1 tràng)
Dù
cho
nhà ngọc với kho vàng,
Cảnh
đến
Vô thường khó nỗi mang,
Chỉ
cõi
Tây phương nơi Lạc cảnh,
Quan
Âm
Bồ Tát độ cho sang.
Nam
mô
Quán Thế Âm Bồ Tát (10 tiếng)
Sống
lâu
bảy chục mấy ai đâu,
Trăm
tuổi
xem như bóng ngựa câu.
Chỉ
cõi
Tây phương nơi Lạc cảnh.
Cầu
xin
Thế Chí độ sang mau.
Nam
mô
Đại Thế Chí Bồ Tát (10 tiếng)
Giơ
tay,
cất bước tội ngang mày,
Địa
ngục
đao sơn cửa rộng thay,
Chỉ
cõi
Tây phương nơi Lạc cảnh,
Cầu
xin
Địa Tạng độ sang ngay.
Nam
mô
Địa Tạng Vương Bồ Tát (10 tiếng)
Hàm
đan
giấc mộng có hay chi ?
Cuộc
thế
lân la cái nỗi gì ?
Chỉ
cõi
Tây phương an lạc cảnh.
Thanh
Tịnh
Bồ Tát độ cho về.
Nam
mô
Thanh Tịnh Hải Chúng Bồ Tát (10 tiếng)
Nguyện
vong
chóng sinh sang Tịnh độ,
Ngôi
cửu
liên là chỗ náu nương,
Vô
sinh,
sen nở ngát hương,
Chư
tôn
Bồ Tát bên đường tiếp nghinh.
Chốn
ao
báu muôn sen đua nở,
Phật
Di
Đà, Thế Chí, Quan Âm,
Tiếp
hồn
lên cõi Lạc tâm,
Phát
lời
thệ nguyện dự phần tiêu dao.*
*
145
- SÁM TIÊU TAI GIẢI HẠN
Con
nay dốc hết tâm thành,
Kính
lạy
đức Phật Xí Thạnh Quang Vương.
Nếu
con
sắp bị tai ương,
Cúi
xin
chư Phật đoái thương giải nàn:
La
Hầu
hay bị tai oan,
Tháng
giêng,
tháng bảy vô vàn điêu linh.
Con
nguyền
học đạo sửa mình,
Sân
si
dứt sạch, Phúc tinh phò trì.
Thổ
Tú,
Thủy Diệu sầu bi,
Tháng
tư,
Tháng tám thiếu gì nhiễu nhương.
Cúi
xin
Phật Tổ xót thương,
Giúp
cho
con được gia đường bình yên.
Thái
Bạch
hết sạch cửa nhà,
Tháng
năm
tan tác vào ra bực mình.
Khẩn
cầu
Cửu Diệu Thất Tinh,
Cứu
con
thoát khỏi điêu linh cửa nhà.
Thái
Dương
tiền bạc kiếm ra,
Tháng
mười,
tháng sáu cửa nhà bình an.
Con
hằng
tâm nguyện vái van,
Cầu
cho
con được an nhàn thảnh thơi.
Vân
Hớn
dù có nói chơi,
Tháng
hai,
tháng tám bị lời thị phi.
Con
nguyền
học đạo Từ bi,
Nhớ
lời
Phật dạy, khắc ghi vào lòng.
Kế
Đô
gia thất long đong,
Tháng
ba,
tháng chín, xa chồng xa cha.
Khấn
cầu
đức Phật Thích Ca,
Quán
Âm
phò hộ cửa nhà bình yên.
Thái
Âm,
mười một truân chuyên,
Tháng
chín
tốt đẹp, của tiền khá ra.
Khuyên
người
theo chánh bỏ ta,ø
Trau
giồi
đức hạnh, mới là chân tu.
Mộc
Đức,
bổn mạng không xui,
Tháng
chạp,
phúc lộc, hưởng vui, thanh bình.
Gắng
lo
bố thí, phóng sinh,
Để
cho
hết thảy gia đình bình an.
Nguyện
cho
Đại hạn tiêu tan,
Tiểu
hạn
hết sạch, an nhàn thảnh thơi.
Nguyện
cho
con được đời đời,
Hành
Bồ
Tát đạo, cứu người lầm than.*
*
*
*
146
- SÁM KỆ GIẢI NGHIỆP SÚC SINH
Chúng
sanh đấy có bấy nhiêu,
Lắng
tai
nghe lấy những điều dạy răn :
Các
ngươi
trước lòng trần tục lắm,
Nên
kiếp
này chìm đắm sông mê.
Bấy
lâu
chẳng biết tu trì,
Gây
bao
tội ác lại về mình mang.
Sống
đọa
đày chết thường đau khổ,
Lông,
da,
sừng có đỡ được đâu,
Dù
là
bay trước lặn sau,
Lưới
vây,
tên bắn, lưỡi câu thả mồi.
Tát
cạn
bắt cùng hơi hun độc,
Lúc
đó
dù kêu khóc ai thương,
Nằm
trên
chốc thớt lạ thường,
Hồn
còn
phảng phất nấu rang xong rồi.
Muôn
phần
chết nay ngươi cầm chắc,
May
sao
nhờ các bậc thiện nhân,
Cứu
cho
ngươi được thoát thân,
Đến
đây
lại được nhờ ân pháp mầu.
Vậy
ngươi
kíp hồi đầu quy Phật,
Cùng
dốc
lòng quy Pháp quy Tăng,
Quy
rồi
tội chướng sạch băng,
Trí
khôn
sáng tỏ tưng bừng khắp nơi.
Phát
tâm
tu sau rồi được hưởng,
Về
phương
Tây sung sướng đời đời,
Lên
tòa
sen hưởng thảnh thơi,
Không
hề
luân chuyển yên vui tháng ngày.
Xin
đại
chúng ra tay cứu khổ,
Phát
tâm
cầu Phật độ chúng sanh,
Cùng
nhau
dốc một lòng thành,
Cầu
cho
thoát khỏi trong vành trầm luân.*
*
*
*
147
- VĂN CÚNG CỬU HUYỀN THẤT TỔ
Thành
kính lạy Cửu Huyền Thất Tổ,
Ngỏ
đáp
ơn báo bổ sanh thành,
Con
quy
y Phật tu hành,
Cửu
Huyền
Thất Tổ lòng thành chứng tri.
Noi
theo
hạnh từ bi của Phật,
Bỏ
dứt
đi những tật xấu xa,
Trau
giồi
đức hạnh thuận hòa,
Đạo
thành
cứu độ Mẹ, Cha, Cửu Huyền.
Nay
phẩm
vật hiện tiền dâng cúng,
Hương,
đăng,
hoa chúc tụng cầu xin,
Cửu
Huyền
Thất Tổ hương linh,
Chứng
lòng
hiếu thảo ân sinh thuở đầu.
Công
dạy
dỗ cao sâu thăm thẳm,
Công
dưỡng
nuôi khó gẫm gì hơn,
Ăn
cay,
uống đắng không sờn,
Vì
con
đau khổ không hờn phiền chi.
Cha
mẹ
rất từ bi hà hải,
Nội
ngoại
đồng bác ái tình thương,
Cửu
Huyền
Thất Tổ đồng nương,
Từ
đời
vô thỉ khôn lường kiếp sinh.
Ân
dưỡng
dục minh minh như hải,
Ân
sanh
thành tợ Thái Sơn cao,
Con
nay
muốn đáp công lao,
Đền
ơn
trả nghĩa thế nào cho xong.
Lời
Phật
dạy mênh mông biển khổ,
Cõi
Ta
bà không chỗ dựa nương,
Chúng
sanh
vì bởi tình thương,
Tình
ân,
tình ái mà vương nghiệp sầu.
Sanh
tử
mãi biết đâu mà kể,
Cứ
trầm
luân trong bể ái hà,
Cũng
vì
bản ngã chấp ta,
Tham
lam,
sân giận, cùng là si mê.
Những
tội
lỗi không hề dứt bỏ,
Đường
tử
sanh nên khó bước qua,
Làm
con
muốn cứu mẹ cha,
Cửu
Huyền
Thất Tổ, ông bà đền ân.
Đem
phẩm
vật cúng dâng Tam Bảo,
Nhờ
chư
Tăng tâm đạo cầu nguyền,
Cầu
cho
Thất Tổ Cửu Huyền,
Siêu
sinh
Tịnh độ phước duyên đủ đầy.
Ai
muốn
đáp công thầy dạy dỗ,
Hay
đền
ơn Thất Tổ Cửu Huyền,
Chúng
sanh
tất cả các miền,
Thì
nên
phát đại lời nguyền độ tha.
Trước
xuất
thế lìa xa cõi tục,
Sau
diệt
tiêu lòng dục, tánh phàm,
Chẳng
còn
ưa chuộng, muốn ham,
Thân
tâm
thanh tịnh, Già lam dựa kề.
Tu
chứng
đắc Bồ đề Phật quả,
Độ
chúng
sanh tất cả siêu thăng,
Vượt
lên
cửu phẩm thượng tầng,
Là
phương
trả nghĩa đáp bằng công lao.
Ai
hiếu
tử mau mau ghi nhớ,
Muốn
đáp
đền mối nợ từ xưa,
Cần
nên
tu niệm sớm trưa,
Công
dầy
quả mãn phước thừa báo ân.*
148
- VĂN CÚNG TỔ TIÊN
Đốt
nén hương thơm,
Chí
tâm
bái thỉnh :
Trời
đẻ,
đất nuôi,
Đức
che
chở lấy gì lường kịp;
Nước
nguồn,
cây gốc,
Công
bón
vun biết sánh chi tầy.
Đây
nền
nhân, đây nền nghĩa,
Do
Tổ
tiên gây dựng mà nên ;
Nọ
lá
ngọc, nọ cành vàng,
Bởi
công
đức chất chồng mới có.
-
Hiểu đạo nghĩa mới thành gần gũi ;
Rõ
nguồn
cơn sẽ chẳng xa đâu.
-
Dù âm dương, u hiểm khác nhau
Nhưng
Phật
pháp đề huề thật dễ.
-
Xin nguyện Tổ tiên chư linh :
Trượng
phép
mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ
chân
ngôn bí mật tối linh,
Về
đây
thụ hưởng đan thành,
Nén
hương
bát nước cơm canh cúng dàng.
-
Lại đốt hương thơm, hai phen triệu thỉnh:
Công
Tổ
tiên non cao biển rộng,
Phận
cháu
con phải cúng phải thờ ;
Nén
hương
nghi ngút khói đưa,
Chư
linh
phảng phất như vừa đâu đây.
Xin
triệu
thỉnh về ngay thụ hưởng
Chút
tâm
thành nhất hướng kính dâng,
Trượng
thừa
Tam Bảo gia ân,
Hộ
trì
tiếp dẫn dự phần trai nghi.
Xin
nguyện
chư linh :
Trượng
phép
mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ
chân
ngôn bí mật tối linh,
Về
đây
thụ hưởng đan thành,
Nén
hương
bát nước cơm canh cúng dàng.
Nam
mô
An Bảo Tọa Bồ Tát Ma Ha Tát.*
*
*
*
149
- VĂN CÚNG CHA MẸ
Đốt
nén hương thơm, chí tâm bái thỉnh :
Trời
cao
vòi vọi, đất rộng thênh thang,
Từ
bé
rồi đến lúc lớn khôn,
Công
của
cha bằng trời cao biển rộng ;
Nằm
chỗ
ướt nhường con chỗ ráo,
Đức
của
mẹ như núi cả sông dài.
Lòng
chỉ
lo báo đáp nghĩa sinh thành :
Ý
những đáp sớm hôm thường định tỉnh.
Tuy
âm
dương xa cách khôn lường,
Nhưng
Phật
pháp gia trì tất ứng.
Xin
nguyện
Phụ (Mẫu) thân chân linh :
Trượng
phép
mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ
chân
ngôn bí mật tối linh,
Về
đây
thụ hưởng đan thành,
Nén
hương
bát nước cơm canh cúng dàng.
-
Lại đốt hương thơm, hai phen triệu thỉnh:
Nhớ
ơn
đức cha mẹ sinh dưỡng,
Khác
nào
như bể rộng sông sâu.
Nền
Nhân,
cội Phúc là đâu ?
Phận
con
cái phải nghĩ câu báo đền.
-
Nay thời tiết nhân duyên vừa đến,
Trước
linh
sàng thân quyến tề quy,
Tụng
kinh
niệm Phật gia trì,
Nghe
câu
triệu thỉnh hồn về thụ trai.
Xin
nguyện
Phụ (Mẫu) thân chân linh :
Trượng
phép
mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ
chân
ngôn bí mật tối linh,
Về
đây
thụ hưởng đan thành,
Nén
hương
bát nước cơm canh cúng dàng.
Nam
mô
An Bảo Tọa Bồ Tát Ma Ha Tát.*
150
- VĂN CÚNG VỢ CHỒNG
Đốt
nén hương thơm,
Nhất
tâm
triệu thỉnh :
Tình
như
Loan Phụng,
Nghĩa
tựa
sắt cầm.
Bao
tháng
năm khăng khít keo sơn,
Nay
bỗng
chốc phân chia đôi ngả,
Đau
xót
nhé ! Kẻ đi người ở.
Buồn
thương
thay ! Đấy khuất đây còn,
Báo
đáp
nhau chút nghĩa sắt son
Cầu
Phật
độ cho hồn sang Tịnh cảnh.
Xin
nguyện
Lương quân (Hiền thê) chân linh :
Trượng
phép
mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ
chân
ngôn bí mật tối linh,
Về
đây
thụ hưởng đan thành,
Nén
hương
bát nước cơm canh cúng dàng.
-
Lại đốt hương thơm hai phen triệu thỉnh:
Chim
Loan
Phụng từ xưa hòa hợp,
Đàn
sắt
cầm bỗng dứt dây tơ,
Âm
dương
đôi ngã cách xa,
Bóng
kia
hình nọ bây giờ tìm đâu ?
Lòng
thành
kính ai cầu chư Phật,
Phóng
Từ
quang cứu vớt chân linh
Về
nơi
An dưỡng Vô sinh,
Dự
ngôi
bất thoái vô minh sạch lầu.
-
Xin nguyện Lương quân (Hiền thê) chân linh :
Trượng
phép
mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ
chân
ngôn bí mật tối linh,
Về
đây
thụ hưởng đan thành,
Nén
hương
bát nước cơm canh cúng dàng.
Nam
mô
An Bảo Tọa Bồ Tát Ma Ha Tát.*
*
*
*
151
- VĂN CÚNG CON CHÁU
Đốt
nén hương thơm,
Lòng
thương
triệu thỉnh :
Ân
thâm
nghĩa trọng,
Con
nỡ
sao rứt bỏ cho đành ?
Gan
héo
ruột rầu,
Cha
mẹ
muốn quên đi chẳng được.
Hẳn
duyên
nghiệp không từ kiếp trước,
Nên
giờ
đây con cướp công lao,
Để
mẹ
cha sống cảnh quạnh hiu.
Nhìn
ngó
lại con đã theo tuyền lộ.
Nay
triệu
thỉnh hồn nhờ Phật độ,
Về
đây
cùng thụ hưởng chút dư ân,
Thôi
không
duyên, không nợ cũng thâm tình,
Con
phù
hộ cho gia đình an lạc.
-
Cầu nguyện cho chân linh con
Trượng
phép
mầu tựa nương chư Phật
Nhờ
chân
ngôn bí mật tối linh,
Về
đây
thụ hưởng đan thành,
Nén
hương,
bát nước, cơm canh khuyên mời.
-
Lại đốt hương thơm, hai phen triệu thỉnh:
Mối
tình
Phụ (Mẫu) tử, chút nghĩa cái con,
Nuôi
bao
năm mong được lớn khôn,
Nay
bỗng
chốc lá xanh sớm rụng,
Đau
xót
nhẽ ! Thần hôn cô quạnh,
Ngậm
ngùi
thay ! Ngày tháng đìu hiu,
Nghĩ
đến
con thương nhớ trăm chiều,
Cầu
Phật
độ cho hồn siêu cõi Tịnh.
Cúi
nguyện
cho chân linh con :
Trượng
phép
mầu tựa nương chư Phật,
Nhờ
chân
ngôn bí mật tối linh,
Về
đây
thụ hưởng đan thành,
Nén
hương,
bát nước, cơm canh khuyên mời.
Nam
mô
An Bảo Tọa Bồ Tát Ma Ha Tát.*
152
- SÁM GIÁC LINH TỐNG TÁNG
Đời
người như một giấc mơ,
Trăm
năm
nào khác cuộc cờ đổi thay.
Tuần
hườn
máy tạo chuyển xoay,
Chết
đi,
sống ở xưa nay lẽ thường.
Hương,
đăng,
hoa, quả cúng dường,
Nguyện
cầu
Tam Bảo mười phương chứng lòng.
Hôm
nay
ta hãy đồng thời,
Đưa
người
nhẹ bước về nơi Phật đường.
Cũng
vì
bác ái lòng thương,
Cầu
cho
người được về nương Bồ đề.
Xa
lìa
biển khổ tối mê,
Tam
đồ,
lục đạo, mà về Tây phương.
Dứt
lìa
sanh tử vấn vương,
Ở
nơi Phật quốc an khương đời đời.
Vậy
nên
đây có đôi lời,
Nhắc
người
bóng cũ nay thời biệt ly.
Cảnh
đời
lắm nỗi sầu bi,
Tình
ân
phụ mẫu nay thời cách xa.
Cảnh
đời
như bóng phù hoa,
Tình
thâm
huynh đệ phải xa hội này.
Cảnh
đời
nào khác chòm mây,
Tình
chồng
nghĩa vợ hôm nay xa lìa.
Cảnh
đời
như bọt nước kia,
Tình
thương
cho mấy cũng lìa với nhau.
Cảnh
đời
như gió thổi mau,
Tình
thương
con cháu thế sao cũng lìa.
Cảnh
đời
như bể dâu kia,
Tình
bằng
cố hữu cũng chia đôi đường,
Cảnh
đời
như thể sa sương,
Tình
thâm
quyến thuộc cũng thường cách nhau.
Cảnh
đời
như đá mài dao,
Cả
hai
mòn hết có nào bền lâu ?
Cảnh
đời
như lửa đốt dầu,
Cháy
mau
thì hết có đâu còn hoài.
Cảnh
đời
nghĩ luống bi ai,
Khác
nào
hoa nở rồi mai hoa tàn !
Cảnh
đời
khó nỗi thở than,
Khác
nào
một đám rừng hoang mịt mù.
Cảnh
đời
vì bởi chẳng tu,
Nên
đường
sanh tử lu bu không lìa.
Cảnh
đời
vì bởi trau tria,
Đeo
theo
vật chất khó lìa lợi danh.
Cảnh
đời
như biển nước xanh,
Gió
cuồng,
sóng cuộn mé gành lao xao.
Cảnh
đời
như giấc chiêm bao,
Như
lằn
điển chớp, khác nào tiếng vang.
Cảnh
đời
như đống tro tàn,
Giống
như
Dã Tràng xe cát biển Đông.
Cảnh
đời
như thể mật ong,
Thoa
vào
lưỡi kiếm gạt lòng trẻ em.
Cảnh
đời
nhìn kỹ mà xem,
Khi
về
âm cảnh nào đem món gì ?
Cảnh
đời
là khối hiệp ly !
Nay
dời,
mai đổi theo thì thời gian.
Hồi
nào
ở chốn đền vàng,
Bây
giờ
gởi xác đồng hoang một mình,
Hồi
nào
mắt đẹp, mày xinh,
Bây
giờ
một đống thịt sình mà thôi !
Hồi
nào
đứng đứng, ngồi ngồi,
Bây
giờ
yên lặng như chồi cây khô,
Hồi
nào
trang điểm khôi ngô,
Bây
giờ
nhắm mắt mà vô quan tài !
Hồi
nào
tình bạn bắt tay,
Bây
giờ
cắt đứt làm hai con đường.
Hồi
nào
mền, nệm, gối, giường,
Bây
giờ
dứt bỏ thảm thương vô cùng.
Hồi
nào
xưng bá, xưng hùng,
Bây
giờ
nhắm mắt mà chun xuống mồ.
Hồi
nào
lên xuống, ra vô,
Bây
giờ
yên lặng như đồ bất tri.
Hồi
nào
ứng cử khoa thi,
Bây
giờ
sao dứt mà đi cho đành.
Hồi
nào
tham lợi, tham danh,
Bây
giờ
một đám cỏ xanh nắm mồ.
Hồi
nào
du lịch giang hồ,
Bây
giờ
ở chốn đồng khô băng ngàn.
Hồi
nào
trau ngọc chuốt vàng,
Bây
giờ
một đống xương tàn rũ da.
Hồi
nào
múa, hát, đờn, ca,
Bây
giờ
lìa bỏ tách xa xóm làng.
Hồi
nào
kiệu phụng, lầu vàng,
Hồi
nào
mặt biển sóng tràn nhấp nhô,
Hồi
nào
anh, chị, chú, cô,
Bây
giờ
chẳng thấy ra vô bóng hình.
Hồi
nào
con, vợ của mình,
Bây
giờ
hai ngã thình lình cách xa.
Hồi
nào
mẹ mẹ, cha cha,
Bây
giờ
bóng đã khuất qua xế rồi,
Hồi
nào
tớ, chủ, quân, tôi,
Bây
giờ
như giọt nước trôi giữa dòng.
Hồi
nào
bác, thím, em, chồng,
Bây
giờ
cách biệt hết mong được gần.
Hồi
nào
yểm cựu nghinh tân,
Bây
giờ
chỉ thấy mộ phần thiết tha.
Cảnh
đời
bách chiết, thiên ma,
Huỳnh
tuyền
choán lộ phải qua một lần.
Ở
trong cảnh thế dương trần,
Dầu
cho
vua, chúa, quan, dân, sang, hèn.
Hạng
nào
cũng thể bóng đèn,
Hết
tim
thì tắt một phen mịt mù.
Dầu
cho
kẻ trí, người ngu,
Kẻ
khôn,
người dại hình thù nhỏ to.
Rốt
rồi
cũng táng một gò,
Của
trần
để lại chẳng cho đem về !
Có
gì
tríu mến, tham mê,
Đeo
theo
vật chất nghiệp nghề làm chi ?
Thế
rồi
cũng bỏ mà đi,
Nghĩ
ra
lắm nỗi sầu bi dập dồn.
Tiếng
kêu
ơi hỡi linh hồn !
Cảnh
đời
nay biển, mai cồn tỉnh chưa ?
Tỉnh
rồi
dứt mối say sưa,
Thì
là
có Phật rước đưa qua liền.
Do
hồi
đời sống sanh tiền,
Gieo
nhiều
miếng ruộng phước điền khắp nơi !
Bây
giờ
an hưởng vui chơi,
Cũng
như
trong lúc đương đời có tu.
Cho
nên
mới được võng dù,
Không
còn
trăng trói ngục tù trần lao.
Dứt
lìa
sanh tử đớn đau,
Ở
nơi Phật quốc ra vào thảnh thơi.
Chẳng
còn
nghĩ đến việc đời,
Cõi
trần
giả tạm vốn thời đổi thay.
Nếu
như
muốn vậy hôm nay,
Phải
lo
tu trước ngày mai là nhờ.
Biết
rằng
phải ngộ thiền cơ,
Mau
mau
nhẹ gót qua bờ sông mê.
Khi
nào
bỏ thế về quê,
Thì
là
có Phật dựa kề một bên.
Rước
đem
về đến cõi trên,
Hưởng
điều
khoái lạc vững bền dài lâu.
Đôi
lời
kính chúc mong cầu,
Nhờ
ơn
chư Phật rước thâu hồn về.
Khỏi
vòng
biển khổ, sông mê,
Tam
đồ,
lục đạo; dựa kề hoa sen.
Nhìn
xem
thấy rõ bóng đèn,
Quang
minh
rạng chói một phen sáng lòa.
Nguyện
cầu
với đức Di Đà,
Từ
bi
tế độ những là chúng sanh.
Dầu
loài
vô giác, hữu tình,
Thảy
đều
được phước về sinh nước Ngài.
THÍCH
CA
PHẬT TỔ NHƯ LAI,
QUAN
ÂM,
THẾ CHÍ cùng Ngài TẠNG VƯƠNG.
Từ
bi
mở tấm lòng thương,
Nước
mưa
cam lộ mười phương rưới vào.
Chúng
sanh
tất cả trần lao,
Nương
theo
quả giác về mau Niết bàn.*
153
- SÁM CẦU SIÊU
Cuộc
nhân thế như tràng ảo mộng,
Chuỗi
thời
gian tựa bóng bạch câu.
Đời
người
gẫm có bao lâu,
Tử
vong
là một nhịp cầu phải qua.
Cơn
tử
biệt châu sa lệ đổ,
Cảnh
chia
phôi thảm khổ sầu bi ;
Não
nề
kẻ ở người đi,
Khóc
than
nghẹn tiếng, biệt ly nát lòng.
Những
tiếc
rẻ tấm công cha mẹ,
Nợ
cưu
mang bồng bế dưỡng nuôi;
Vật
trong
vũ trụ đắp bồi,
Hôm
nay
một phút thôi rồi bỏ đi.
Một
thể
sống đã ly cõi sống,
Đem
hình
hài tăm bóng về đâu ?
Mênh
mông
trời đất nhiệm mầu,
Huyền
vi
máy tạo cơ cầu ai hay !
Trong
Phật
Pháp giãi bày tỏ rõ,
Người
thế
gian nếu có tâm lành,
Việc
làm
trong thuở bình sanh,
Giúp
người
cứu vật để dành phước to.
Ngày
nhắm
mắt khỏi lo chi nữa,
Khối
âm
công tích chứa từ xưa,
Nẻo
về
đã có người đưa,
Cõi
riêng
đã có phước thừa an vui.
Bằng
có
kẻ một đời qua luống,
Chưa
kịp
gieo miếng ruộng phước lành.
Thì
người
quyến thuộc chung quanh
Thay
người
quá vãng làm lành gieo duyên:
Dưới
chơn
Phật kiền thiềng đảnh lễ,
Nghe
câu
kinh kính nể chắp tay.
Trai
Tăng
cung dưỡng các thầy,
Qui
y,
giữ giới, ăn chay, hành thiền.
Phát
tâm
rộng thí tiền, thí gạo,
Thương
người
nghèo cho áo, cho cơm.
Những
ngày
cúng kiến quảy đơm,
Đừng
bày
giết vật oán hờn về sau.
Phải
duyên
cũng sửa cầu bồi lộ,
Gặp
vật
thì ủng hộ phóng sanh.
Một
nhơn
tốt, một quả lành,
Phước
này
hồi hướng vong linh hưởng nhờ.
Cõi
trần
thế mơ hồ giả tạm.
Kiếp
nhơn
loài như đám phù vân,
Hiệp
tan,
tan hiệp xoay vần.
Mà
cơn
tan hiệp, là phần thương đau.
Ngao
ngán
nỗi thảm sầu vô tận,
Thức
tỉnh
cơn phiền hận vĩnh miên.
Dầu
rằng
khổ hải vô biên,
Hồi
đầu
thị ngạn, nghiệp duyên sạch lần.
Âu
cũng
bởi lòng trần vọng niệm,
Để
xa
rời một điểm chơn như,
Đường
trần
từ đó ngẩn ngơ,
Càng
dong
ruỗi bước, càng mờ mịt xa.
Do
tâm
ý tạo ra nghiệp cảnh,
Cho
thân
hình chịu lãnh đau thương,
Tỉnh
ra
một giấc mộng trường,
Liệu
bề
giải khổ, tìm đường thoát sinh.
Trước
bửu
tọa nghe kinh sám hối,
Lượng
từ
bi xả tội lỗi lầm;
Nước
dương
rửa sạch trần tâm,
Qui
y
Tam Bảo kỉnh thâm phụng thờ.
Hồn
được
nhẹ là nhờ phép nhiệm,
“A
Di
Đà “, rán niệm Phật danh.
Phật
xưa
sẵn có nguyện lành,
Niệm
danh
mười tiếng được sanh nước Ngài.
Niệm
chuyên
chú đừng sai chỗ diệu,
Chớ
luyến
trần mê tríu tiếc thương.
Luyến
trần
ngăn lấp con đường,
Thoát
trần
thức tỉnh tỏ tường lối đi.
Mê
tríu
dứt, tức thì nhẹ bước,
Giác
ngộ
xong Phật rước theo Ngài,
A
Di Đà Phật Như Lai,
Hiện
thân
tọa bửu liên đài độ sanh.*
154
- SÁM VĂN LÂM CHUNG
Đầu
ngưỡng vọng Tây phương Phật Tổ,
A
Di Đà Phật độ trần gian.
Từ
bi
cứu kẻ lâm nàn,
Trong
giờ
bịnh ngặt, linh quang từ trần.
Nhờ
đức
cả Quan Âm tế độ,
Văn
Thù
đồng ủng hộ Giác linh.
Phổ
Hiền,
Địa Tạng Thánh minh,
Hộ
người
khỏi bị vật mình trở trăn.
Mong
Phật
Tổ bủa giăng ân đức,
Trợ
vong
hồn thêm sức thiêng liêng.
Kim
thân
Phật hiện nhãn tiền,
Phóng
hào
quang giải nghiệp duyên não phiền.
Trấn
hồn
phách, độ yên tâm cảnh,
Diệt
ác
tà, pháp tánh qui chơn.
Lục
căn,
lục thức, lục trần,
Thảy
đều
thanh tịnh, Chơn thần định an.
Kìa
trước
mắt đài vàng cửa Phật,
Rước
những
người chơn chất thiện lương.
Tĩnh
lòng
quán cõi Tây phương.
A
Di Đà Phật niệm thường chớ sai.
Đừng
vọng
tưởng trần ai ân ái,
Bỏ
lợi
danh khổ hải luân hồi,
Giữ
lòng
định tĩnh mà thôi,
Một
niềm
tưởng Phật, vãng hồi Tịnh bang.
Cầu
Di
Lặc, Nhiên Đăng Cổ Phật,
Thích
Ca
đồng gom phách hồn thâu.
An
trong
một giấc tịnh mầu,
Xuất
ra
nơi đỉnh huyền châu nê hoàn.
Noi
đại
đạo minh quang Chánh Giác,
Thoát
khỏi
vòng sóng thác trầm luân.
Hồn
linh
theo dõi Phước Thần,
Nương
nơi
phước báu siêu thăng kịp giờ.*
155
- SÁM NGUYỆN CẦU SIÊU
Quy
mạng lễ mười phương Tam bảo,
Khắp
ba
đời chánh đạo Bồ đề.
Nay
con
thành kính hướng về,
Chí
tâm
sám nguyện tư vì hương linh.
Chúng
con
bởi vô minh bất giác,
Nên
tử
sanh trôi dạt luân hồi.
Để
cho
nghiệp lực cuốn lôi,
Đẩy
đưa
ràng buộc từ đời xưa xa.
Nhờ
chút
niệm nên đà sanh được,
Làm
thân
người trong kiếp sống này.
Trải
qua
những tháng năm dài,
Chung
quy
rồi cũng đến ngày tử vong.
Tất
cả
những điều trong cuộc thế,
Đã
sống
theo những lẽ phàm tình.
Chỉ
vì
nghĩ đến thân mình,
Mà
gây
tạo tác muôn nghìn oán ân.
Đem
trọn
cả cái THÂN, MIỆNG, Ý,
Quay
cuồng
nơi tục lụy hồng trần.
Bởi
con
chẳng rõ VỌNG CHÂN,
Lại
không
tri kiến định phân chánh tà.
Lầm
chấp
vào “CÁI TA” hư ngụy,
Lấy
“VỌNG
TÂM PHÀM Ý” làm mình.
Cho
nên
tư tưởng tánh tình,
Dẫy
đầy
tà ác VÔ MINH mê lầm.
Những
cái
gì thuận lòng hợp dạ,
Thì
thích,
THAM MUỐN cả không ngơi.
Còn
khi
bị nghịch ý rồi,
Căm
tức,
SÂN HẬN tạo thời ác duyên.
Tánh
tình
trở thành PHIỀN NÃO chướng,
Làm
cội
nguồn ý tưởng nảy sanh,
Chẳng
rõ
xấu ác, tốt lành,
Chỉ
biết
phải trái theo mình nghĩ thôi.
Bị
danh
lợi, tình đời thúc đẩy,
Tạo
gây
nên đầy dẫy ác nhân,
Nào
là
những nghiệp nơi THÂN :
Sát
sanh
trộm cướp, tà dâm, rượu chè.
Cùng
bao
thứ đam mê đọa lạc,
Khiến
thành
người bạo ác, xấu xa,
Nào
từ
LỜI NÓI thốt ra :
Những
điều
dối trá, điêu ngoa, ngang tàng.
Hoặc
đâm
thọc, khoe khoang, khêu gợi,
Khinh
khi
và chửi bới hỗn hào,
Càng
ngày
tội lỗi càng cao,
Thế
mà
con vẫn có nào biết đâu.
Đã
vậy
tánh hiểm sâu xảo quyệt,
Khiến
cho
con chỉ biết lợi mình,
Mặc
cho
tổn hại chúng sinh,
Miễn
sao
thỏa ý thích tình thì thôi.
Bởi
thế
nên một đời tạo nghiệp,
Đành
trải
thân nhiều kiếp khổ mê,
Bao
nhiêu
tội chướng nặng nề,
Bao
nhiều
phiền não, sở tri chất chồng.
Đều
tích
lũy vào trong TẠNG THỨC,
Kết
tạo
thành nghiệp lực buộc ràng,
Tùy
theo
nhân tố đã làm,
Đẩy
đưa
dắt dẫn đôi đàng đọa thăng.
Theo
cái
sự vận hành nhân quả,
Tà
ác
thì sa đọa đắm chìm,
Địa
ngục,
ngạ quỉ, súc sanh,
Khổ
đau,
đói khát, ngục hình tối tăm.
Trải
bao
kiếp khó mong thoát khỏi,
Bởi
đấy
là cảnh giới đọa đầy,
Để
đền
trả nghiệp đã gây,
Cho
nên
rất đỗi lâu dài khổ nguy.
Hoặc
lúc
sống thường thì làm thiện,
Tạo
phúc
lành tinh tiến huân tu,
Thể
hiện
đức hạnh nhân từ,
Hóa
sanh
thiên giới thường cư lâu dài.
Hay
sẽ
được tái lai trần cảnh,
Tùy
nhân
xưa thọ lành phúc phần,
Hay
sanh
cảnh giới quỷ thần,
Đều
do
nghiệp lực chuyển vần đẩy đưa.
Chúng
con
từ xa xưa vô thủy,
Quanh
quẩn
trong tục lụy luân hồi,
Sáu
đường,
ba cõi nổi trôi
Bởi
chưa
giác ngộ để hồi lại tâm.
Nay
nhờ
lượng hồng ân Tam Bảo,
Mà
được
nương theo đạo Bồ đề,
Khiến
con
giải bớt khổ mê,
Khiến
con
thức tỉnh hướng về nẻo chân.
Xin
thành
khẩn ân cần sám hối,
Những
mê
lầm, tội lỗi ác tà,
Kể
từ
những kiếp xưa xa,
Cho
đến
hiện tại cùng là hậu lai.
Những
nghiệp
chướng tự tay gây tạo,
Hoặc
cố
tình xúi bảo người làm,
Hoặc
do
vô ý vương mang,
Hoặc
cùng
kẻ khác tính toan thực hành.
Nay
nương
vào nguyện lành chư Phật,
Và
quang
minh pháp lực oai thần,
Khiến
cho
nghiệp chướng giảm lần,
Khiến
cho
phước huệ được phần phát sanh.
Để
tâm
thức thiện lành trong sáng,
Mà
tỏ
ngộ được ánh đạo mầu,
Bao
nhiêu
phiền não nặng sâu,
Bao
nhiêu
oan trái cũng mau giải trừ.
Nhờ
Pháp
Bảo Dược Sư Quán Đảnh,
Và
bổn
nguyện siêu thắng vô lường,
Của
đấng
Vô thượng Y vương,
Cũng
là
oai đức mười phương độ trì.
Nguyện
Tam
Bảo thường thì gia hộ,
Đến
chúng
sanh mê khổ trầm luân,
Thảy
đều
thọ lãnh hồng ân,
Thảy
đều
giải thoát khỏi dòng sông mê.
Lại
thành
kính nguyện về tất cả,
Chư
Bồ
Tát hỷ xả, từ bi,
Dùng
mọi
phương tiện huyền vi,
Ứng
hóa
gia hộ độ trì chúng sanh.
Đồng
được
ánh quang lành nhuần thấm,
Giải
tan
dần mê vọng vô minh,
Khiến
cho
trí sáng phát sinh,
Khiến
cho
nghiệp chướng tội tình nhẹ vơi.
Việc
xấu
ác đồng thời xa lánh,
Điều
tốt
lành cố gắng huân tu,
Giữ
tâm
trong sạch hòa nhu,
Nương
theo
Chánh pháp công phu hành trì.
Thể
hiện
lòng đại bi đại xả,
Hằng
rộng
làm tất cả việc lành,
Nguyện
cho
lục đạo chúng sanh,
Thảy
đều
giác ngộ phát tâm Bồ đề.
Đạo
giải
thoát thẳng về tới chốn,
Không
ai
còn lăn lộn tử sanh,
Vô
thượng
Chánh giác chóng thành,
Nguyện
xin
chư Phật mười phương gia trì.
Nay
chúng
con đã vì vong giả,
Mà
sám
nguyện với cả lòng thành,
Được
bao
phước lực phát sinh,
Xin
hồi
hướng đến hương linh đủ đầy.
Và
nhờ
Pháp bảo này hộ niệm,
Nguyện
mười
phương ứng hiện oai thần,
Phóng
quang
tiếp dẫn hương linh,
Nương
công
đức lực siêu sinh cõi lành.*