Theo
đó, con đường truyền bá giáo lý mang ánh sáng giác ngộ và giải
thoát của Ngài rõ ràng không chỉ nhắm vào đối tượng xuất ly thế
gian, sống đời hành giả mà nền giáo pháp cao tột, vi diệu đó cần
phải được tuyên lưu trong đời sống mọi tầng lớp xã hội. Ví như
một trận mưa đổ xuống, các loại cây cỏ đều được tưới mát, nhưng tùy vào
điều kiện mỗi loại mà sức hấp thụ có khác nhau. Như Lai xuất hiện ở đời
như vầng mây, nói pháp như mây thành mưa, bao trùm chúng sanh; cũng
vậy, các loài hữu tình và vô tình chúng sanh đều được bình đẳng, lợi lạc
trong giáo pháp của Đức Thế Tôn. Giáo pháp đó chính đã đem đến cho
con người nhiều lợi ích thiết thực, tháo gỡ niềm đau nỗi khổ,
vượt lên những hệ lụy của kiếp nhân sinh, nếu ta biết dụng công
trải nghiệm và ứng dụng vào thực tiễn đời sống để mong cầu an lạc,
giải thoát trong hiện tại và tương lai.
Tạo dựng hạnh phúc gia đình là trách nhiệm của người Phật tử
Hiện nay, đồng thời với việc phát triển khoa học kỹ
thuật ở mức cao, nhân loại cũng đang phải đối diện trước vô vàn
những biến động của đời sống vật chất với nhiều gánh nặng về
kinh tế, văn hóa, chính trị-xã hội… Giữa lúc sự phân hóa xã
hội đang đè nặng lên vai của mọi người đang sống, nhất là đối
với hoàn cảnh của người cư sĩ tại gia, thì nền giáo lý được
Đức Thế Tôn truyền dạy lại càng là một nhu cầu cần thiết cho
con người để có phương cách sống hài hòa trước những khó khăn thách
thức của nền văn minh vật chất cứ như một vòng xoáy cuốn hút
con người mải miết chạy theo trong cuộc mưu sinh để tồn tại và
phát triển.
Trong suốt lịch sử truyền bá Chánh pháp của Đức
Phật từ khi Thành đạo đến khi nhập Niết bàn, Ngài đã tùy
duyên hóa độ nhằm truyền trao cho người cư sĩ tại gia - một bộ
phận đông đảo trong đời sống cộng đồng xã hội - chấp nhận và
ứng dụng tu tập giáo nghĩa của Ngài để thực sự đạt được lợi
ích. Do vậy, giáo lý của Đức Phật được mọi tầng lớp từ vua
quan cho đến thứ dân, nam phụ lão ấu thực hành và làm cho lan tỏa rộng
rãi trong các xứ sở thuộc lưu vực sông Hằng thời bấy giờ.
Đề cập đến điều này để nhằm xác định vai trò
của người cư sĩ tại gia trong sứ mệnh tu tập, ứng dụng và
truyền bá giáo pháp của Phật, như trong những pháp thoại Ngài
dạy cho người Phật tử tại gia phương cách tạo dựng hạnh phúc
trong cuộc sống.
Một lần, cư sĩ Dighajanu đến thưa với Đức Phật: "Bạch
Thế Tôn, chúng con là những người cư sĩ bình thường, sống đời sống gia
đình với vợ con. Xin Thế Tôn dạy cho chúng con sống như thế nào để được
hạnh phúc trong hiện tại và cả sau này". Ðức Phật dạy rằng: "Có bốn điều
có thể giúp hành giả được sống hạnh phúc. Có bốn loại hạnh phúc vật
chất mà người tại gia cư sĩ có thể thọ hưởng, thỉnh thoảng và tùy cơ
hội, là: hạnh phúc được có vật sở hữu, hạnh phúc được có tài sản, hạnh
phúc không nợ nần và hạnh phúc không bị khiển trách".
Ðiều đáng lưu ý là mặc dầu ba loại hạnh phúc đầu tiên
đều liên quan đến điều kiện kinh tế, nhưng Đức Phật nhắc nhở người
Phật tử rằng hạnh phúc về của cải, kinh tế chỉ bằng một phần mười sáu
của hạnh phúc tinh thần, do sống một cuộc đời trong sạch, không tội lỗi.
Từ góc nhìn này, ta có thể thấy rằng Đức Phật coi trọng
việc ổn định tài chánh như là một điều kiện căn bản tạo nên hạnh phúc
cho con người, nhưng Ngài không xem việc làm ra của cải là cần và đúng
nếu nó được thiết lập trên một nền móng thiếu đạo đức và tâm linh, bởi
nó sẽ gây mất cân bằng trong đời sống người cư sĩ tại gia.
Trên cơ sở tuệ giác, Phật giáo không cho rằng của cải
vật chất là cứu cánh của cuộc đời, nhưng Phật giáo nhìn nhận rằng con
người cần phải có các điều kiện vật chất tối thiểu để có thể thành công
trong đời sống tâm linh. Có rất nhiều pháp thoại về các đề tài này rải
rác trong các kinh điển. Ví như trong kinh Chuyển Luân Thánh Vương
(Cakkavattishihanada, Trường Bộ, 26), Đức Phật cũng nêu rõ cái nghèo là
nguồn gốc của thói vô đạo đức và tội lỗi như trộm cắp, dối trá, bạo
động, hằn thù, độc ác. Không thể dùng các biện pháp hình luật mà
có thể làm cho con người tránh xa tội phạm; theo quan điểm Phật
giáo, muốn xóa bỏ tệ nạn xã hội, thì các điều kiện về kinh tế, an sinh
xã hội của người dân cần phải được cải thiện.
Lại nữa, Đức Phật luôn nhấn mạnh hạnh phúc của con
người phải được xây dựng trên nền tảng đạo đức phù hợp với
hoàn cảnh thực tế mà con người đang sống. Ngài đã từng chi tiết
hóa sinh hoạt hàng ngày trong khi dạy chàng thanh niên Sigala rằng, anh
ta hãy nên chi tiêu khoảng ¼ số tiền kiếm được, kinh doanh ½ và để dành ¼
còn lại làm tài sản dự phòng, cho thấy mối quan tâm đặc biệt của Ngài
đối với thành phần Phật tử tại gia.
Đa số các bài Pháp liên quan đến Phật tử tại gia là
do Đức Phật giảng cho cư sĩ Anathapindika (Cấp-cô-độc). Có một lần,
khi thuyết giảng về pháp bố thí, Ngài dạy: "Dâng cúng đến chư Tăng hay
Đức Phật tạo rất nhiều phước báu. Nhưng kiến thiết tu viện, giúp chư
Tỳ-kheo có chỗ tu hành càng được nhiều phước báu hơn. Càng nhiều phước
hơn xây cất tu viện là quy y Tam bảo. Càng nhiều phước hơn quy y Tam bảo
là hành trì Ngũ giới. Càng nhiều phước báu hơn trì giới là hành
thiền một lúc về tâm Từ. Và cuối cùng, hơn tất cả các phước báu, là phát
triển sự chứng ngộ tính cách vô thường của vạn hữu".
Nhiều người hiểu sai rằng Phật giáo chỉ tuyên thuyết về
những lý tưởng xa vời, tuyệt đối và các tư tưởng triết học cao siêu mà
bỏ qua những vấn đề về đời sống kinh tế xã hội. Thực ra, Ðức Phật luôn
lý giải tường tận về chân hạnh phúc của con người, theo đó hạnh phúc
không thể có được nếu không dựa vào một cuộc sống trong sạch, có đạo đức
và giới luật. Rải rác trong rất nhiều pháp thoại, kinh điển được lưu
truyền đến nay, từ những lời dạy thiết thực của Đức Phật, giới cư sĩ nam
nữ tại gia sống đời sống gia đình bình thường nhưng vẫn có thể tu tập,
hành trì và đạt được giải thoát, chứng ngộ.
Có một pháp thoại khác về cuộc sống hôn nhân gia
đình. Trong lần Đức Phật đến viếng nhà trưởng giả Cấp-cô-độc, Ngài đã
giảng cho cô con dâu Sujata của gia đình này một bài Pháp về bảy hạng vợ
trên thế gian:
1- Người vợ quấy rối: Kẻ không ngó ngàng chăm sóc chồng và không nhã nhặn, ôn hòa, dễ bị khêu gợi, dễ bị làm chuyện hư hèn trắc nết. 2- Người vợ có tính trộm cắp: Kẻ phung phí của chồng, dầu chỉ một chút đỉnh nào mà chồng đã có công tạo. 3- Người vợ như bà chủ: Người
làm biếng, tham ăn, cả ngày không làm gì mà chỉ ngồi lê đôi mách và la
lối gắt gỏng, không để ý đến công lao khổ nhọc và chuyên cần của chồng. 4- Người vợ như mẹ: Người luôn luôn hiền lương và từ mẫn, bảo vệ chồng như bà mẹ hiền chăm sóc đứa con. 5- Người vợ như em gái: Kính nể chồng như em đối với anh, khiêm tốn ôn hòa và hết lòng phục vụ chồng. 6- Người vợ như bạn: Luôn hoan hỷ đến với chồng như gặp lại người bạn thân lâu ngày xa cách; con người cao quý, đức hạnh và trong trắng. 7- Người vợ như người giúp việc:
Dù bị hăm dọa sẽ làm tổn hại đến mình, hay hình phạt mình, vẫn không
nổi giận, luôn luôn vâng lời chồng mà không bao giờ sân hận.
Đức Phật giảng giải về đặc tính của bảy hạng vợ trong
thế gian và lưu ý rằng hạng vợ gây rối cho chồng, trộm cắp và làm bà chủ
của chồng là xấu. Trái lại, hạng vợ đối với chồng có tình thương như
mẹ, như em gái, như bạn và như người tớ gái trung thành là tốt và đáng
được tán dương.
Trong một đoạn kinh đề cập đến việc để cho Chánh
pháp được cửu trụ ở thế gian, Đức Phật đã nói: "Ở đây, sau khi Như
Lai nhập diệt, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống tôn
trọng và quy thuận Bậc Đạo sư, sống tôn trọng và quy thuận Giáo pháp,
sống tôn trọng và quy thuận Tăng chúng, sống tôn trọng và quy thuận học
giới, sống tôn trọng và quy thuận lẫn nhau. Đây là nguyên nhân khiến cho
Chánh pháp được tồn tại lâu dài sau khi Như Lai viên tịch" (A.III.247).
Người Phật tử tại gia không phải chỉ có tín ngưỡng
theo Phật mà còn phải sống theo Pháp, thực hành giáo pháp, ứng dụng
Pháp vào đời sống để được an lạc cho tự thân, gia đình và tha
nhân. Vai trò thừa tự Pháp của người Phật tử tại gia, do vậy rất quan
trọng trong bối cảnh hiện nay của Phật giáo nước nhà, sẽ góp phần
vào việc làm sáng rõ diện mạo của một tôn giáo luôn mang lại lợi ích
cho cuộc đời, cho nhân thế.
Thích Thiện Bảo (GNO)