Ý NGHĨA NGHI LỄ
(Trích trong “Nghi lễ Phật
giáo”)
Soạn giả: Thích Diệu Tánh
Khi nói đến Nghi lễ chúng ta cần phải hiểu qua ý nghĩa của nó. Hai chữ nghi lễ
có nhiều ý nghĩa:
Nghi: Nghi thức, lễ nghi, lễ phép, khuôn phép, oai nghi.v.v..
Lễ: Lễ giáo, lễ nhạc, (điều hòa), lễ bái, cúng tế, tôn thờ, cung kính.v.v...
Nói tóm, Nghi lễ là chỉ chung cho nghi thức tụng niệm hành lễ, sinh hoạt, trong
phạm vi tín ngưỡng thờ phụng của một tôn giáo.
Bất cứ một tôn giáo nào đều phải có những hình thức nghi lễ để tiêu biểu tinh
thần đạo vị của mình. Mặc dầu trên thể thức và âm điệu của mỗi đạo giáo có phần
sai khác nhưng mục đích vẫn là chí thành cầu nguyện, tán thán công đức vị Giáo
chủ mà mình đã quy ngưỡng tôn thờ.
Đạo Phật không phải là một tôn giáo chỉ chú trọng về phương diện nghi lễ, nhưng
nhờ có sinh hoạt nghi lễ mà đưa người vào đạo Phật một cách dễ dàng. Ví dụ: cầu
an cho người bệnh hoạn, tai nạn..., cầu siêu bạt độ cho kẻ lâm chung.v.v...Đó
là những phương tiện thực tế để điều hòa lý trí, gieo rắc tình cảm của con
người, an ủi tinh thần cho người còn cũng như kẻ mất.Vì thế, nghi lễ cũng là
vấn đề quan trọng và có nhiều lợi lạc trong đạo Phật.
Vậy kẻ hành giả cần phải học tập và hiểu rõ ý nghĩa những vấn đề thuộc về nghi
lễ trước khi hành lễ.
Mỗi khi hành lễ, muốn được điều hòa âm thanh nhịp nhàng, trầm bỗng để tăng phần
trang nghiêm và linh cảm cần phải có những pháp khí để làm phương tiện hộ tương
trong những khóa lễ như sau:
Đây là bài kệ: chuông trống bát nhã (song hành) Bát nhã hội (3lần) Thỉnh Phật
thượng đường (1 lần) Đại chúng đồng văn (1 lần) Bát nhã âm (1 lần) Phổ nguyện
pháp giới (1 lần) Đẳng hửu tình (1 lần) Nhập Bát Nhã (1 lần) Ba La Mật Môn (5,
10 lần)
Trước hết câu từ 3 hồi chung bản qua chuông trống, phải đổ một hồi ngắn, kế
đánh 3 hồi chính thức dài y đúng bài kệ trên, sau cùng dứt 4 tiếng.
Lễ thường đánh 3 hồi dài, lễ lớn đánh 9 hồi dài.
Ý NGHĨA ĐÁNH CHUÔNG MÕ
- Tiên khởi tam (trước đánh 3 tiếng)
- Thứ lôi thất (tiếp nhịp 7 tiếng)
- Tịnh đã tam (và đánh 3 tiếng)
- Chung đã thành (giữa đánh 10 tiếng)
- Hậu diệt tứ (sau dứt 4 tiếng)
- Trước đánh 3 tiếng: Ý nói là chúng sanh đều do 3 nghiệp (thân, khẩu, ý) tạo
ác, sau đọa 3 đường khổ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Cũng có nghĩa trừ tam
độc (tham, sân, si), để chứng tam đức (pháp thân, bát nhã, giải thoát).
- Tiếp nhịp 7 tiếng: Là tiêu biểu thất chi tội (thân tam: sát, đạo, dâm. Khẩu
tứ: vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu). Để chứng thất giác chi (trạch
pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, định, niệm).
- Và đánh 3 tiếng: Nghĩa là hay tu tam học (giới, định, huệ). Quyết chứng tam
thừa (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát).
- Giữa đánh 10 tiếng: Là để tiêu trừ 10 điều ác (thất chi tội, cộng thêm ý có 3
thành 10 điều ác), để chứng 10 thân (bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân, lực
thân, trang nghiêm thân, oai thế thân, ý sanh thân, phước thân, pháp thân, trí
huệ thân).
- Sau dứt 4 tiếng: Là tiêu trừ 4 tướng (sanh, lão bệnh, tử) để chuyển thành tứ
trí:
. Hành sở tác trí (tiền ngũ thức).
. Diệu quang sát trí (đệ lục ý thức).
. Bình đẳng tánh trí (đệ thất mạc na thức).
. Đại viên cảnh trí (đệ bát a lại gia thức).