Ngay
cả khi mình đã hộ trì chân lý, thậm chí mới giác ngộ chân lý cũng chưa
được phép bài bác giáo pháp của người khác: "Chỉ đây là sự thật, ngoài
ra là sai lầm".
Có lẽ mục đích của tuyệt đại đa số tín đồ đến với tôn giáo
là khi người ta cảm thấy bế tắc trong cuộc sống, muốn đi tìm cho mình
một lối giải thoát khỏi mọi khổ đau.
Nếu cuộc sống đời thường không đáp ứng đủ điều kiện nói trên thì họ lại cầu tìm nó qua niềm tin vào tôn giáo, mặc dù “có
điều được khéo tin tưởng, có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng.
Trái lại, có điều không được khéo tin tưởng, có thể là thật, chân,
không thay đổi”.
Người theo Đạo Thiên Chúa hay Đạo Hồi tin vào sự cứu rỗi, có sự sống
đời đời sau khi chết do một Đấng Tối Cao ban tặng. Còn Phật tử tu tập
theo lộ trình Bát Chánh Đạo của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, để ngăn ác
diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, và cái đích là để
chứng đạt chân lý Diệt Đế (Tâm hết phiền não, không còn tham, sân, si).
Do nhận thức được rằng tôn giáo có ý nghĩa vô cùng lớn lao như vậy
đối với mọi tín đồ, các Phật tử lại càng không nên lên tiếng phê phán
tôn giáo khác, đặc biệt là trên phương tiện thông tin đại chúng.
Trước hết, xin được nhắc lại một sự kiện, có thể nói đã thu hút sự
chú ý đặc biệt của những nhà lãnh đạo tôn giáo, và cũng là một tin vui
với biết bao người trong đó có các Phật tử: Vào ngày
15/12/1999, Khóa họp thứ 54 của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã nghị
quyết lấy Phật Giáo làm tôn giáo điển hình cho toàn nhân loại.
Một chi tiết thú vị ở đây là trong lúc này tại Đại Hội Đồng LHQ có
đông đủ đại biểu đại diện cho nhiều tôn giáo khác, họ cũng đưa ra những
ý kiến ủng hộ tín ngưỡng của mình, nhưng cuối cùng khóa họp đã đi đến
sự thống nhất như trên.
Như vậy, với một sự kiện quan trọng trên đây thì các tôn giáo bạn sẽ
có những cách nhìn nhận như thế nào về đạo Phật, trong khi chính nhiều
người con Phật đã và đang phê phán đạo Thiên Chúa, Tin Lành…?
Một điều cần lưu ý là con người ta thường thường dính mắc, chấp bám
vào ngôn tự chẳng hạn như “tôn giáo” để rồi khởi tâm phân biệt, thành
kiến đối với người theo đạo này, người theo đạo nọ. Theo một đạo nào,
đức Phật dùng trí tuệ Tam Minh xác định đó là do duyên nghiệp, hạnh
nghiệp của họ được huân tập từ lâu. Hơn nữa, các tôn giáo tuy có nhiều
điểm khác nhau về giáo lý nhưng cũng có những nét chung nhất định.
Ví dụ, điều răn “Không được giết người” bên Thiên Chúa Giáo thì nằm trong Đức Hiếu Sinh (thương yêu tất cả các loài chúng sinh) bên đạo Phật, tương tự, điều răn “Chớ làm chứng dối” thì nằm trong Đức Thành Thật, “Chớ lấy của người” thì có điểm chung với Đức Ly Tham, “Chớ muốn vợ, chồng người” thì giống với Đức Chung Thủy.
Và giả sử, có một trường phái nào đó của đạo Thiên Chúa đưa ra thêm
một điều răn nữa là “Chớ uống rượu và dùng các chất kích thích” thì
hiển nhiên, nó sẽ tương đương với Đức Minh Mẫn của đạo Phật!
Nếu quán chiếu theo giáo lý Phật Giáo, thì đạo nào cũng là đạo của
con người và vì con người, hơn nữa là vì tất cả chúng sanh. Đạo hình
thành theo tư tưởng, suy nghĩ của con người, được truyền thừa do bàn
tay con người ghi chép lại, huặc bằng lời chứ không phải do một quyển
sách từ trên trời rơi xuống hay một tiếng nói từ trên trời vọng xuống.
Bởi vậy dù anh tin Thượng Đế, tin vào sự cứu rỗi của Chúa Jesus, tôn
thờ thánh Mohammed, theo đức Phật Thích Ca Mâu Ni hay không thì vẫn có
một thực tại, một nguyên lý mà anh phải chấp nhận: đó chính là phải học
sống có đạo đức trong cuộc đời – tập sống theo những điều răn, đức
hạnh nói trên và tránh làm khổ mình, khổ thân tâm đối tượng khác qua
hành động, lời nói hay suy nghĩ.
Trở lại vấn đề không nên phê phán tôn giáo khác, thì ngay cả trong
kinh Koran của Đạo Hồi cũng dạy: “Tôn trọng quyền tự do của người
khác”. Còn đức Phật hoàn toàn nghiêm cấm các đệ tử của mình khi chưa
chứng đạt chân lý thì không được phép lên tiếng phủ nhận giáo pháp
khác.
Bây giờ chúng ta cùng hướng về lời Phật dạy năm xưa, khi thanh niên Bà-la-môn Kapathika bạch Thế Tôn:
“-- Thưa
Tôn giả Gotama, câu chú thuật (mantapadam) của các cổ Bà-la-môn y cứ
tiếng đồn, truyền thống và Thánh tạng. Và ở đây, các vị Bà-la-môn chắc
chắn đi đến kết luận: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm". Ở
đây, Tôn giả Gotama đã nói gì?”
Sau khi giảng cho thanh niên Bà-la-môn Kapathika về lòng tin thì đức Phật dạy:
“-- Này Bharadvaja, nếu có người có lòng tin và nói: "Ðây là lòng tin của tôi", người ấy hộ trì chân lý, nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm".
Cho đến như vậy, này Bharadvaja, là sự hộ trì chân lý. Cho đến như
vậy, chân lý được hộ trì. Và cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương hộ
trì chân lý. Nhưng ở đây, chưa phải là giác ngộ chân lý.
Này
Bharadvaja, nếu có người có lòng tùy hỷ, này Bharadvaja, nếu có người
có lòng tùy văn; này Bharadvaja, nếu có người có sự cân nhắc suy tư các
lý do; này Bharadvaja, nếu có người chấp nhận một quan điểm và nói:
"Ðây là sự chấp nhận quan điểm của tôi", người ấy hộ trì chân lý. Nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm".
Cho đến như vậy, này Bharadvaja, là hộ trì chân lý. Cho đến như vậy,
này Bharadvaja, chúng tôi chủ trương hộ trì và cho đến như vậy, này
Bharadvaja, chúng tôi chủ trường hộ trì chân lý. Nhưng ở đây chưa phải
sự giác ngộ chân lý.” (Trung Bộ Kinh, Tập II, Kinh Canki)
Như thế, ngay cả khi mình đã hộ trì
chân lý, thậm chí mới giác ngộ chân lý cũng chưa được phép bài bác giáo
pháp của người khác: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm". Tu
tập chừng nào chứng đạt được chân lí, khi chứng đạt được chân lí mới có
thể dạy người : “đây là chân pháp cần phải được ngưỡng theo”; Tất
nhiên, cho dù phải chỉ thẳng đập mạnh, thì vị ấy cũng nói với tâm từ
chứ không phải tâm sân, nói vì lợi ích cho mọi người chứ không phải vì
danh lợi.
Tại sao người tu chứng Tứ Thánh Định và
Tam Minh mới có thể làm được điều đó? Bởi vì họ có đủ Bốn Thần Lực, Tứ
Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỉ, Xả) và đủ trí tuệ để thấy được đường đi lối
về của tất cả chúng sanh, không có một thế lực nào có thể vượt lên
trên, làm thối chuyển được vị A-La-Hán cả! (A-La-Hán là một trong Mười
Danh Hiệu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni).
Tâm của người chứng đạt Chân lý dù khi
làm bất kỳ việc thiện hữu lậu nào thì vẫn luôn bất động trước các ác
pháp và các cảm thọ, luôn ở trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự. Nhưng
sự ra đời của một bậc A-La-Hán không chỉ do duyên lành của riêng người
ấy mà còn một phần vì phước báo của mọi người và tất cả chúng sanh!
Thấy rõ lợi ích này, chúng ta cần tinh cần tu tập theo Chánh Pháp của
đức Phật Thích Ca Mâu Ni để sống cho đúng hơn với nền đạo đức Nhân Bản –
Nhân Quả.
Bây giờ chúng ta hãy thử đặt ngược vấn
đề lại, giả sử có ai đó dùng nhiều phương tiện hủy báng Phật, hủy báng
Pháp, hủy báng Tăng, lúc ấy những người con Phật sẽ có phản ứng như thế
nào? Chắc chắn, ta cần phải sử dụng chánh tư duy, quán xét và như lý
tác ý theo lời chỉ dạy của đức Phật trong Trường Bộ Kinh, Tập I, Kinh Phạm Võng, Tụng Phẩm I:
“Này các
Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các
thầy chớ có vì vậy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn.
Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng
Tăng, và nếu các thầy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền
muộn, thời như vậy sẽ có hại cho các thầy.
- Này các
Tỷ-kheo, khi có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng,
các thầy phải nói rõ những điểm không đúng sự thật là không đúng sự
thật: - “Như thế này, điểm này không đúng sự thật;như thế này, điểm này
không chính xác; việc này không có giữa chúng tôi; việc này không xảy
ra giữa chúng tôi” .
“Này các
Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp, hay tán thán Tăng,
thời các thầy không nên hoan hỷ, vui mừng, tâm không nên thích thú. Này
các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán ta, tán thán Pháp hay tán thán
Tăng, mà nếu các thầy hoan hỷ, vui mừng và thích thú thời sẽ có hại cho
các thầy.
- Này các
Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay tán thán Tăng,
thời các thầy hãy công nhận những gì đúng sự thật là đúng sự thật: “Như
thế này, điểm này đúng sự thật, như thế này, điểm này chính xác, việc
này có giữa chúng tôi, việc này đã xảy ra giữa chúng tôi”.
Lời Phật dạy trên thật vi diệu, là một
phương cách ứng xử tuyệt vời vừa mang lại sự thanh thản cho nội tâm,
cũng như thể hiện được tinh thần bất bạo động của nhà Phật. Còn có pháp
nào hay hơn chăng? Hãy thử nhìn lại xem hàng ngàn năm nay thế giới,
gồm loài người và tất cả các loài chúng sanh, có khi nào ngưng nghỉ
chiến tranh và đa dạng các thể loại xung đột?
Sanh tâm phiền não và giận hờn thì khổ
mình, công kích và phản bác lại người thì chắc chắn khổ mình, hoặc khổ
người, hoặc khổ cả hai tùy theo tính chất đặc tướng của cộng nghiệp hay
biệt nghiệp.
Đúng là “Đứng lại thì chìm xuống, tiến tới thì trôi dạt, chỉ có vượt qua”.
Vượt qua cái gì và như thế nào? Ở đây, bó hẹp trong phạm vi bài viết
này, theo tôi vượt qua là tâm không còn dính mắc vào các hình thức tôn
giáo, bằng cách tư duy, quán xét về tính bình đẳng về sự sống của loài
người và tất cả các loài chúng sanh.
Quán từ bỏ và đoạn diệt tâm phân biệt
đối xử một cách cục bộ giữa những người theo đạo khác nhau là một trong
những thể hiện của quá trình tu tập trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm.
Tâm Thuận