Miếng mồi nguy hiểm
Ni sư Hạnh Chiếu
25/03/2010 22:25 (GMT+7)

Có một câu chuyện của chim đại bàng đã vì miếng mồi nguy hiểm mà vong thân. Loài chim này rất lớn, nó bay trên cao và dùng đôi mắt cực tinh tìm mồi tận dưới biển. Đại bàng có cách bắt mồi rất dữ dằn. Khi thấy miếng ăn thích hợp, nó từ trên cao lao xuống phập lấy con mồi thật nhanh, rồi mang vào bờ rỉa sạch.
Lần đó, cũng như mọi khi từ trên cao đại bàng thấy con mồi vừa tầm, nó lao xuống phập rất sâu rất mạnh. Phập vô rồi cất cánh bay lên, bay không được, tại vì phập nhầm cá mập. Bấy giờ muốn nhả ra, nhả cũng không được vì mống vuốt đã lún sâu vào thịt cá. Sức nặng của cá mập cứ trì xuống trì xuống. Nó không màng tới chuyện ăn uống chi lúc này, chỉ muốn bay lên thoát nạn mà thôi, nhưng không được nữa rồi. Trong hoàn cảnh như thế, con đại bàng không còn cách nào khác hơn là cùng với cá mập, từ từ chìm xuống lòng đại dương. Và câu chuyện kết thúc.

Câu chuyện ngắn củn. Ngắn củn mà đi hết vô lượng đời. Bởi vì tất cả chúng sanh đều giông giống như chim đại bàng đó vậy. Đại bàng đâu ngờ nó bấu miếng mồi, nhưng cuối cùng miếng mồi bấu lại nó. Nó nghĩ miếng mồi đó ngon lắm, vừa mắt, vừa lòng nó lắm nên quên cả tính mạng, lao vào phập thật sâu thật nhanh, không cần biết miếng mồi ấy là gì. Khi quắp không được miếng mồi, nó muốn nhả ra nhưng muộn mất rồi. Đau khổ ở chỗ là không ăn thì nhả ra, nhưng nhả ra cũng không được.

Con người cũng thế, khi lòng tham nổi lên không nghĩ tới hậu quả. Bằng mọi cách cứ bám theo miếng mồi, không biết được sự nguy hiểm của nó, không biết hoàn cảnh của mình đang ở giữa lòng đại dương, cuối cùng chính miếng mồi ấy giết mình. Nhưng nếu nói chính xác hơn thì không phải miếng mồi giết mình, mà lòng tham của mình giết mình. Cái đau nằm ở chỗ nuốt không trôi đã đành, mà muốn nhả ra nhả không được. Trong tất cả chúng ta, đa số đều rơi vào tình huống như thế. Vì lòng tham cũng như vì sự si mê ta lao vào một đối tượng nào đó, một cảnh duyên nào đó, cho đến khi hay ra ăn không được nuốt không trôi mà nhả cũng không xong. Thế là tìm cách quyên sinh. Nếu không đi vào cửa tử thì sống cũng bằng chết, đau khổ dày vò, không ai cứu được.

Miếng mồi đó Phật gọi là ngũ dục, sự lao sâu vào miếng mồi ấy là si mê tạo nghiệp. Chúng sanh vì tham quá, dại khờ quá, thấy miếng mồi mà không lượng sức. Đối với ngũ dục chúng ta lao theo nó, nhưng không nghĩ khi giáp mặt với nó ta sẽ như thế nào? Thỏa mãn hay đau khổ. Chúng ta không cần biết, chỉ biết muốn. Muốn mà được thì sướng lắm. Cũng như con đại bàng kia nghĩ đớp được miếng mồi thì no lắm, nào ngờ chẳng những không no mà còn mất mạng. Phật đã thấy nỗi khổ của nhân sinh chính là chạy theo ngũ dục. Chạy theo một cách say sưa. Một khi muốn một cái gì đó là muốn cho được. Không được thì bức tai bức tóc, than trời trách đất. Tới hồi phập vô được lại muốn nhả ra, mà nhả không xong nên đau khổ.
Con đại bàng trong câu chuyện phải chết vì nó không còn đường sống. Chúng ta có phước hơn, lúc đập cánh thoi thóp giữa đại dương thì gặp cái phao, đó là Phật pháp. Có lần Hòa thượng Ân sư hỏi chúng tôi:
- Thầy đố tụi con tại sao chúng sanh luân hồi trong lục đạo?
- Dạ chúng sanh luân hồi là tại vì vô minh.
- Thầy muốn nói một cách cụ thể hơn.
Chúng tôi không đáp được. Hòa thượng dạy:
- Con người sanh ra là vì có cha có mẹ và có nghiệp thức. Cha là người nam, mẹ là người nữ. Cả thế gian này ai cũng than có gia đình khổ, mà sao ngộ, hễ lớn lên là người ta có gia đình. Có gia đình là kết hợp hai giới tính tương phản nhau. Phái nam mạnh mẽ phóng khoáng thì lại thích sự nhẹ nhàng, dịu dàng của phái nữ. Phái nữ tỉ mỉ mềm mỏng lại thích cái mạnh mẽ cứng cỏi của phái nam. Cho nên họ thấy có một sức hút giữa hai bên. Vì thế họ tìm mọi cách để được chung sống bên nhau. Nào ngờ, tất cả đều không như họ nghĩ. Bởi vì đó chỉ là cái bẫy. Bẫy nghiệp.
Không có chuyện hai giới tính tương phản lại luôn luôn tương đồng trong cuộc sống, nhưng nghiệp nó dụ chúng sanh phải gặp nhau như thế. Để chi? Để trả nghiệp. Ngày xưa người nữ thích tính cách phóng khoáng phong nhã của người nam, bây giờ khổ với cái hào hoa đó. Cũng thế, người nam thích sự chăm chút tỉ mỉ của người nữ, bây giờ khổ với tập khí nhỏ nhặt đó. Đi đâu cũng bị hỏi, làm gì cũng bị theo dõi. Vừa theo dõi vừa cằn nhằn. Chết dỡ chưa? Hạnh phúc đâu rồi! Hạnh phúc thì ít mà trả nghiệp thì nhiều. Giống như con đại bàng kia, ăn không vô mà nhả cũng không được vậy.
Bây giờ nhờ gặp Phật pháp, hiểu rõ như vậy, chúng ta không cắn đắn nhau nữa. Mỗi bên tự hoá giải, tháo gỡ những trói buộc không cần thiết. Phật tử là bạn đạo của nhau, khuyên nhắc chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Đừng chấp người thân của mình mà sanh phiền não. Hãy thông cảm vì cùng chung số phận của những kẻ bị lọt bẫy. Chuyện đáng làm nhất bây giờ là lo thoát ra khỏi cái bẫy ấy. Con đại bàng không có cơ hội thoát ra khỏi miếng mồi vì nó không gặp Phật pháp, không biết tu. Chúng ta hơn nó nhờ biết nghe pháp, biết ứng dụng tu. Vậy còn chần chờ gì nữa không chịu tự cởi trói cho mình và người thân của mình?

Thoát ra khỏi bẫy không có nghĩa là từ chối trách nhiệm lẫn nhau, hoặc từ chối kết quả mình đã tạo tác. Chỉ là hiểu rõ rồi chúng ta không lao theo ngũ dục, không mơ đuổi chiếc bóng hạnh phúc, mà chấp nhận cuộc sống thực tại, chịu trách nhiệm với những gì mình đã tạo, để tăng thêm nghị lực và sức chịu đựng. Từ đó vươn lên nghịch cảnh, vui sống với hoàn cảnh của chính mình. Con đại bàng không có cách gì để tự cứu, nên nó đành phải chìm luôn, nếu chúng ta không gặp Phật pháp có thể cũng sẽ như con đại bàng.

Nhiều Phật tử nói: “Nếu không gặp Phật pháp, chắc con chết, sống không nổi”. Chúng ta mang tâm trạng của con đại bàng, bởi cuộc đời đâu có gì vui. Tuy nhiên Phật bảo chúng sanh bình đẳng như nhau trên hai lĩnh vực đau khổ và an lạc. An lạc ở đây là niềm vui chân thật xuất phát từ bản tâm chân thật. Khi mê thì khổ, tỉnh rồi biết muôn pháp duyên sinh, buông bỏ dễ dàng thì hết khổ, được vui.
Do hai lĩnh vực này bình đẳng nên chúng ta dễ thông cảm nhau. Mỗi vị có sở trường riêng tùy theo năng lực của mình, té ở chỗ nào thì đứng lên ở chỗ đó. Nhưng nhớ là thoát ra khỏi bẫy này, đừng nhảy vào bẫy khác. Nhiều người vừa mới thoát ra khỏi bẫy này lại nhảy vô bẫy khác. Chúng sanh thật là gan cùng mình. Nhiều người sống khổ vô cùng, vừa bỏ được cái khổ này lại muốn nhảy vô cái khổ khác.
Phật bảo chúng sanh mê lầm nên mới lọt bẫy nghiệp. Vì vậy thế gian không có cái gọi là hạnh phúc chân thật. Hơn ai hết, quý Phật tử quá đổi thấm thía về việc này. Thế tại sao con cái lớn lên, cha mẹ không giúp cho nó nhận ra cái bẫy để đừng đút đầu vô? Chung quy cũng vì thua sức mạnh của nghiệp. Con cái cũng có cái nghiệp của nó. Bản chất của cuộc đời như Hòa thượng Trúc Lâm đã nói: Chúng sanh vì nghiệp mà phải lọt vô bẫy, ở trong đó chịu đựng lẫn nhau suốt một đời. Suốt một đời là ít, có khi suốt nhiều đời. Sống chung với nhau một là thương, hai là hận. Cả hai đều là nguyên nhân để tiếp tục gặp nhau nữa. Thế thì làm sao để thoát ra khỏi hai tình huống đó? Chỉ có buông xả mê lầm thôi.
Chúng ta là Phật tử có học Phật, khi chưa biết đạo khổ đã đành. Bây giờ đã hiểu Phật phải có định hướng cho đời mình, chọn cách sống an vui cho chính mình. Chúng ta không thể để niềm đau nỗi buồn chi phối mình mãi. Đã hiểu Phật thì phải giải quyết cho được những khúc mắc trong tâm. Tu Phật là ứng dụng những điều Phật dạy vào đời sống, biết những gì mình gây tạo từ trước đến nay đều do nghiệp. Nó là nghiệp thì không thật, cho nên sửa được. Bao giờ sửa được nghiệp xấu ta thấy trong người thư thả nhiều lắm, bớt cố chấp, si mê, giận dữ, nhờ thế mà bớt khổ. Bớt khổ thì ngay đời này chúng ta được an vui.
Ngũ dục đối với nhà Phật là một miếng mồi nguy hiểm. Môït chút si mê thôi, chúng ta đã đổi qua đoạn đời khác. Nhưng thôi, quá khứ qua rồi, không hoài tưởng làm chi nữa cho lao tâm nhọc sức, mất thì giờ vô ích. Trước mắt, chúng ta không nên tiếp tục nuôi dưỡng gốc si mê, không tạo nghiệp bất thiện mà lo chuyển nghiệp. Chuyện này chúng ta có quyền quyết định, không ai cản trở được. Lòng dặn lòng, nhớ lời Phật dạy, gặp chướng duyên ứng dụng liền, xả hết mê lầm phiền não. Như vậy mới thấy đạo pháp nhiệm mầu, mới thấy nhờ tu mà cuộc đời mình được cải tử hoàn sinh.
Quý Phật tử đừng nghĩ rằng vô chùa như quý thầy cô mới tu được. Tu ở trong tâm. Khổ từ tâm thì phải nhổ cái gốc khổ ấy ở nơi tâm. Khổ ở đâu thì nhổ ở đó. Nếu trong tâm không ổn vô chùa vẫn bất an như thường. Bây giờ Phật tử đã hiểu đạo lý rồi, chúng ta sống tùy duyên. Tạm bảo tồn thân căn để nương tựa nó tu hành. Mỗi người tuy vẫn sinh nhai để sống, nhưng nhớ tu là chủ yếu. Chúng ta làm việc để có phương tiện duy trì thọ mạng, với mục đích chuyển nghiệp cho tới sạch nghiệp, chứ không phải để lao vào miếng mồi.
Được thân này rất quý, nhờ nó chúng ta hiểu Phật pháp, biết tu hành để ra khỏi vòng trầm luân sanh tử. Do đó khi chưa thành tựu đạo nghiệp, mình phải dưỡng nó. Lập kế sống đủ cho thân tồn tại trong một thời gian hữu hạn nào đó để tu, chớ không mưu cầu hưởng thụ tiện nghi vật chất, thỏa mãn sự ham muốn của thân. Hai tinh thần này khác nhau. Nếu vì mục đích hưởng thụ của thân sẽ làm chúng ta lao đao lận đận. Càng làm càng thấy thiếu hụt, vì lòng ham muốn không bao giờ biết đủ.
Ví dụ lúc nghèo ta muốn giàu. Giàu rồi muốn giàu hơn nữa. Từ hồi sống trong túp lều tranh, ta thèm được ngôi nhà ngói. Được ngôi nhà ngói mình muốn đổi nhà lầu. Cứ thế mà chồng chất lòng tham muốn ngày càng nhiều. Muốn thì phải ráng làm ăn cho có tiền. Nhưng khi tất cả những gì mình muốn đã có trong tay, ta vẫn thấy thiếu! Tại vì thật ra không phải ta muốn những thứ ấy, mà là ta đang mắc bệnh “muốn”. Vậy thôi. Bệnh “muốn” tức là bệnh tham. Có cái gì thì có, chứ cái “muốn” không có, nên cứ “muốn”. Như nói muốn cái nhà, lẽ ra được cái nhà là xong rồi, nhưng tại sao lại muốn cái nhà khác nữa? Cái muốn tức lòng tham không có hình thức, nên sở hữu được hình thức nào cũng không phải cái muốn.
Tham muốn là một sự khao khát bất tận. Nó chỉ là ảo tưởng do con người dệt nên. Cái đó không trưng bày ra được nhưng luôn luôn tồn tại trong tâm tưởng chúng sanh, cho nên ta luôn khao khát và bất như ý. Con người bỏ mạng ra làm đủ mọi việc để phục vụ cái thân. Nghe thật lạ lùng. Vì thân mà làm bỏ mạng! Bỏ mạng rồi thì ai hưởng đây? Có mâu thuẫn chưa. Vậy mà chúng sanh truyền đời nối tiếp nhau sự vận hành lạ lùng ấy. Thật ra thân này không đòi hỏi nhiều lắm, mà vì lòng tham khiến chúng sanh tự lao mình vào hố thẳm vong thân. Nhân sinh nối tiếp nhau đi trong mê lầm, từ đời này sang đời khác.
Bây giờ học Phật chúng ta biết rồi, chúng ta chỉ nương thân này để xả tham, xả sân, xả si. Phật tử không có yêu cầu như Tăng Ni, phải chấm dứt sanh tử là lý tưởng tối hậu. Nhưng từng bước quí vị cũng nên thực tập hạnh viễn ly, để tháo gỡ cho chính mình. Thật ra chuyện chấm dứt sanh tử đối với Tăng Ni cũng còn xa lắm, không ai dám nói quá sức của mình. Chỉ cố gắng hành trì liên tục. Đó là định hướng để ta không lạc lối và tiến bước mạnh mẽ thôi. Lý tưởng như vậy nhưng trên thực tế không đơn giản chút nào.
Phật tử muốn xả bỏ lòng tham nên học theo hạnh thiểu dục tri túc của người tu. Tri túc là biết đủ. Đời sống vật chất tuy cần thiết nhưng không quan trọng bằng đời sống tâm linh. Tại sao? Bởi vì nếu đời sống vật chất quan trọng thì những người giàu sang tột đỉnh, lẽ ra phải hạnh phúc nhất trần gian, nhưng đâu đó ta vẫn nghe họ tự tử như thường. Cho nên đừng để mất trắng thời gian vì đời sống vật chất. Toan tính nhiều, làm việc nhiều dễ sanh phiền não. Đã phiền não thì không có an vui, hạnh phúc. Để dành quỹ thời gian cho thân tâm nó thở với chứ! Cực khổ quá khó tu. Hôm nào mình làm việc lao nhọc nhiều, tối lại ngồi thiền buồn ngủ, thở cũng không thông. Hôm nào làm việc thư thả, tối đó ngồi thiền thích lắm.
Con người tưởng chạy lo cho cái thân là tốt, không ngờ cuối cùng nó chẳng hưởng được gì mà còn đổ bệnh. Tiền làm ra để trị bệnh. Trị bệnh cho hết để làm ra tiền. Ra tiền rồi thì tiếp tục trị bệnh. Cứ thế cho tới chết. Rõ là chúng ta sống một đời vô nghĩa. Người hiểu đạo không như thế. Trong mọi việc, cố gắng giữ tâm thanh thản là chính yếu. Khi phiền muộn dấy lên biết nó ngu si, bỏ đi. Đây là chuyện làm có ý nghĩa vô cùng mà chúng ta quên làm. Thật ra người thế gian thành đạt cách mấy cũng phải bệnh, cũng phải chết. Chết trong phiền não là thất bại, chớ đâu phải thành công.
Thành công là lúc nào mình cũng thấy vừa ý. Một bộ đồ cũng vừa ý, hai bộ cũng vừa ý, ba bộ cũng vừa ý. Có mười bộ mà không vừa ý là thất bại. Quí vị sống ngoài đời, không biết đặt tiêu chuẩn cho cái đẹp thế nào, chớ chúng tôi ba bộ đồ vạt khách, một kiểu, một màu, mặc hoài vẫn thấy đẹp. Đầu cạo sạch cũng đẹp, mặt mày sáng sủa dễ coi, mà đỡ tốn tiền nữa, như vậy là vui rồi. Dù quý vị có kẹp tóc, uốn tóc, nhuộm tóc kiểu nào, cuối cùng nó cũng rụng hết cho mà coi. Nó chỉ đẹp một thời thôi, hết thời là hết đẹp. Trong khi cái đẹp tâm linh không có giới hạn tuổi tác. Nếu biết chăm sóc, càng già càng đẹp. Vậy tại sao ta không để thì giờ chăm chút cho cái đẹp tâm linh, mà lại chạy theo cái đẹp phù phiếm giả tạm và… khá tốn tiền như thế?
Bây giờ không để mất thì giờ chăm chút làn da sắc tóc nữa, mà chú ý xem tâm khúc nào nổi khùng, khúc nào không nổi khùng để chỉnh lại cho đàng hoàng. Nó đã khùng rồi mà còn khùng theo nó thì chết. Thân này không thật mà còn phủ lên thêm ba bốn lớp không thật nữa, có phải đáng thương không? Mê một chút thôi, Phật còn không cho, huống là mê nhiều lớp quá!
Phật dạy người tu thiểu dục tri túc để có thời gian quán chiếu, thiền định. Tâm thanh thản, không chạy theo vật chất thì nhẹ được tấm thân. Tâm không chạy theo vọng tưởng lung tung thì an định sáng suốt, không tạo nghiệp thế gian. Khi chạy theo vật chất thì phải suy nghĩ toan tính để làm ra tiền, từ đó tạo vô số nghiệp. Vậy mà tới lúc được hưởng lại không có cảm giác gì vui sướng. Không biết cảm giác hưởng thụ của người thế gian khi thành đạt trên đường công danh như thế nào, nhưng chúng tôi có kinh nghiệm về cảm thọ ở nhà chùa. Khi chùa có Phật tử cúng dường trai tăng hay trai phạn (tức cúng dường cơm trưa), quí cô nấu mấy món ăn thịnh soạn hơn những ngày bình thường, vì vậy công việc cũng nhọc hơn. Đến giờ ăn bỗng dưng no ngang, ăn không được.
Có lẽ người đời chạy theo công danh sự nghiệp cũng no ngang. Lúc chưa được cố lao theo cho được. Được rồi mệt quá, no ngang. Cho nên thế gian khổ nhiều. Bây giờ quý Phật tử biết rồi, tất cả những gì là miếng mồi nguy hiểm thì đừng đụng tới. Phật nói nó chính là tài, sắc, danh, thực, thùy. Nói không đụng tới nên thấy nó chúng ta nhắm mắt lại không dám nhúc nhích, thưa phải không? Nhất định là không phải rồi. Làm tất cả việc mà không tham, không lậm vào nó, chớ không phải không làm gì hết. Không làm gì hết thì thân này không có ăn, còn đâu nữa mà tu. Thay vì ta nấu một bữa ăn thật nhiều món, thật thịnh soạn, đến lúc ăn mệt quá mình ăn không được thì bây giờ bớt lại, nấu vừa sức, miễn đầy đủ chất và coi cũng không tệ. Như thế còn có sức khỏe để mà thọ hưởng thành quả do chính ta làm ra. Các nhu cầu vật chất càng đơn giản ta càng khỏe. Khỏe thân thì tâm cũng khỏe theo. Bởi vì thân tâm luôn tương tác lẫn nhau.
Hôm đó có đoàn sinh viên người Mỹ, họ đến thiền viện để nghiên cứu về thiền học Phật giáo Việt Nam. Tại thiền viện Thường Chiếu, đoàn đã sinh hoạt với chư Tăng và ghi nhận được hầu hết những gì họ mong muốn. Tuy nhiên, họ muốn qua thăm thiền viện Ni để coi quí cô… cạo đầu ra sao! Có một cô nói thẳng với chúng tôi như vầy:
- Mục đích của em qua đây coi quý cô cạo đầu ra sao?
Nói rất thiệt tình. Tôi cũng hỏi lại thiệt tình:
- Em thấy chúng tôi ra sao?
Cô ta trả lời:
- Đẹp lắm! Đẹp lắm.
Tôi hỏi:
- Em trả lời vì phép lịch sự hay em nói thiệt?
- Em nói thiệt.
Tôi cười vui:
- Vậy thì cạo đầu giống quí cô đi.
Cô ta đáp ngay, không chút tần ngần:
- Hồi chưa gặp quý thầy quý cô, nghe nói chuyện này em sợ lắm.
Bây giờ gặp rồi, nếu cô xúi vài lần nữa, em dám làm thiệt lắm.
- Tại sao?
- Tại vì không phải quý thầy quý cô đẹp ở hình thức bên ngoài. Làm sao cạo đầu đẹp hơn chúng em được. Sở dĩ em thấy đẹp vì em cảm nhận được nét tươi mát, trong sáng, giản dị từ bên trong toát ra.
Tôi thấy giới trẻ ngày nay rất thích tìm hiểu về đời sống tâm linh và có tầm nhìn khá chính chắn trong lĩnh vực này. Chỉ cần tươi là đẹp, cho nên người ta hay nói tươi đẹp. Người mũi tẹt mà tươi cũng đẹp, chứ không cần thiết mũi dọc dừa. Mũi dọc dừa mà kiểu cách, kiêu kỳ, tô vẽ nhiều quá, người ta cũng không muốn gần. Người trong lòng an vui không có phiền não, không toan tính là người giàu có sung mãn. Do sung mãn tâm linh, nên có thể chia sẻ được với mọi người nguồn an vui hạnh phúc của mình. Đó là giá trị chân thật không ai phủ nhận được. Cho nên chọn cuộc sống đơn giản, tâm hồn dễ tươi mát. Tâm hồn tươi mát là một tâm hồn cứ sức sống rất mãnh liệt, cho mình và cho người. Đó là sự thật mà đôi khi chúng ta bỏ quên, chạy theo hình thức rườm rà bên ngoài, làm mất đi sự tươi mát của chính mình.

Trên thế gian này những gì có tướng đều sẽ mất đi, cái mà chúng ta giữ được là trí tuệ của mình. Đó là biết đủ, nhìn cuộc đời đúng như thật, muôn pháp duyên hợp, lòng bình an trước mọi thành bại, được mất. Chỉ cần giữ bao nhiêu đó là đủ. Người muốn có công danh, đạt được rồi phải giữ nó. Nhưng giữ mấy vẫn không được bởi vì nó vô thường. Thành bại được mất luôn cặp kè sát bên nhau, lẫn trong nhau, không có ranh giới để ta phân định, chọn lựa. Tại sao chúng ta lại lao theo cái không giữ được và từ chối cái luôn ở sát bên mình? Cho nên chúng ta phải hạ quyết tâm nhắc nhở mình biết vừa đủ. Không được điều mình mong muốn thì đừng buồn, thấy đủ là xong ngay. Thật ra người thấy đủ là người giàu, chứ không phải người có tiền nhiều là người giàu.
Điều này không phải nói là được mà phải thực tập. Chúng ta luôn quán chiếu và quán chiếu thật thấu đáo các pháp duyên sinh, mới có thể bình thản trước mọi được mất hơn thua. Nếu chỉ hiểu thôi, thì được mất hơn thua vẫn làm khổ chúng ta như thường. Cho nên Phật nói năm dục là năm miếng mồi. Lúc mê tuy biết khổ mà chúng ta vẫn cứ lao vô. Đến chừng khổ quá, chịu không nổi, muốn dừng lại, dừng không được. Phải biết dừng lại trước khi lún quá sâu vào năm miếng mồi ấy. Muốn dừng được phải có ý chí mãnh liệt, lội trong đó mà thực tập, chớ không phải nói khơi khơi mà được.
Có một nhà bác học kiến thức rất rộng. Ông đang đi trên một con tàu và hỏi thuyền trưởng:
- Anh lái thuyền ngoài khơi như thế này, anh có rành về thiên văn học không?
Thuyền trưởng đáp:
- Tôi không hề biết một chút gì về thiên văn học cả.
Nhà bác học nói:
- Tiếc cho một phần tư cuộc đời của anh.
Và lại hỏi tiếp:
- Nếu không biết về thiên văn học, vậy anh có biết về thủy văn học không?
- Tôi cũng không biết gì về thủy văn học luôn.
- Tiếc cho phân nửa cuộc đời của anh.

Lát sau, chợt có một trận cuồng phong dữ dội, sóng nổi lên cao ngút, nhà bác học hoảng sợ. Thuyền trưởng hỏi:
- Thưa ông, ông có biết về bơi lội học không? Nhà bác học đáp:
- Tôi là nhà bác học chứ không phải nhà bơi lội học, làm sao biết bơi lội.

Thuyền trưởng nói:
- Vậy là tiếc cho cả cuộc đời của ông.
Nói xong, sóng đập vỡ thuyền. Tất cả đều chìm xuống lòng đại dương, chỉ trừ người thuyền trưởng không biết thiên văn học, thủy văn học mà chỉ biết bơi lội là vào được bờ.
Quá no về kiến thức, quá no về kiến giải mà thiếu thực tế, thiếu thực hành sẽ giống như nhà bác học kia. Học nhiều, hiểu nhiều mà không thực hành thì không cứu được đời mình. Hòa thượng Ân sư luôn nhắc nhở chúng tôi: Tăng Ni phải tu, đừng nói nữa. Bây giờ không phải là lúc nói mà là lúc thực hành. Nổi sân lên thì đừng nổi sân nữa, nổi tham lên thì đừng nổi tham nữa. Vừa khởi một niệm gì là đừng cho khởi tiếp tục. Vậy mới tu. Chứ vừa khởi lên chúng ta chạy theo nó thì bao giờ mới an ổn. Biểu buông đi, nói buông không được. Buông không được thì đành phải ôm lấy thôi. Ai mà buông thế cho!
“Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch”, đạo không có khó nhưng mình rắc rối quá, lựa chọn quá thành ra khó. Chúng sanh muốn hết khổ, Phật bảo bỏ nhân khổ, không chịu bỏ rồi cứ than khổ. Bảo đừng chạy nữa, mình nói không chạy không được. Không được thì cứ chạy. Chạy thì phải mệt, phải khổ. Cho nên tu hành phải có sức mạnh tự thân, hợp với lực gia trì của Phật, Bồ-tát, thiện hữu tri thức mới chuyển hóa được. Phải là mình tự chuyển hóa trước rồi ngoại duyên mới hỗ trợ thêm. Nếu chúng ta không chịu chuyển hoá, làm sao thầy bạn chuyển giúp được.
Tóm lại, từ sự mê muội chúng sanh tạo nghiệp nên chịu khổ. Bây giờ quyết định ngay không chần chừ nữa, chuyển nghiệp. Thật ra chuyển nghiệp không khó, nhưng vì không quen nên chúng ta làm không được, chớ không phải nó khó. Ví dụ chúng ta hay buồn, khi vừa khởi buồn liền biết đây là nghiệp xấu, tự nhắc “không thèm buồn nữa”. Tâm trạng buồn sẽ vơi đi một chút. Sau đó nó tái lập, chúng ta lại tiếp tục thực hành như thế. Nhờ những khoảng cách được trí tuệ soi sáng, cơn buồn yếu dần và từ từ hết luôn. Đó là một trong những cách chuyển nghiệp.
Câu chuyện về bơi lội ở trên cho chúng ta thấy giá trị của sự thực hành, không thể đem kiến giải thay thế được. Học Phật không phải hiểu rồi bỏ đó. Chúng ta muốn hết khổ phải chuyển từng chút, từng chút. Hễ thói quen xấu vừa dấy lên liền bỏ, ráng nhắc mình bỏ. Khi bỏ được một thói quen xấu, trong lòng chúng ta vui lắm. Ví dụ mình hay sân, mỗi lần muốn la liền nhớ nghiệp này sẽ làm mình khổ, phải xả. Không thèm sân. Bấy giờ mức độ sân sẽ hạ xuống. Gia công thêm ý chí chuyển hoá, từ từ cơn sân nguội hẳn. Luôn luôn nhắc nhở thực tập, mới có thể lội qua cơn hiểm nguy giữa đại dương sanh tử.
Chúng ta quyết định không thèm chạy theo những miếng mồi nguy hiểm. Không muốn nhào vô thì tránh ra. Tất cả phương pháp tu đức Phật đã dạy rất kỹ nhưng Ngài không bắt mình tin, mà phải tự chiêm nghiệm. Chiêm nghiệm rồi thực hành. Đó là con đường duy nhất để đi đến bến bờ an vui miên viễn.

Các tin đã đăng: