Đức Phật đã nhiều lần lưu ý chúng ta đến mối nguy hại
của việc 'bám víu và chấp chặt vào các quy tắc đạo đức và nghi lễ”
(Pali sìlabbata-paràmàs hay giới cấm thủ).
Theo Ngài, niềm tin cho rằng con
người chỉ có thể giác ngộ và giải thoát bằng cách tuân thủ những
quy luật đạo đức và thực hành các nghi lễ là một trong bốn chấp
thủ (upàdànaû), và điều nầy sẽ tạo thêm khó khăn cho quá trình
giải thoát con ngườí[1]. Ngài cũng xem “việc chấp chặt vào những
quy tắc đạo đức và nghi lễ” này là một trong mười trói buộc (Pali
samyojana, kiết sử)[2] khiến người đời thường (puthujjana) trôi lăn mãi
trong luân hồi sinh tử (Samsàra, Thế giới ta bà). Thật ra, để
nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của “thái độ phá chấp đối với các
quy luật và nghi lễ”, Ngài nói rằng chỉ khi nào tháo gỡ được sự
trói buộc này cùng với việc từ bỏ quan điểm sai lầm về một cái
ngã hay linh hồn thường hằng, bất biến (Pali sakkàya ditthii) và
sự nghi hoặc về Phật pháp (Pali vicikicchà), hành giả mới có thể
thành đạt “quả Dự lưu” (Pali sotàpatti)[3], để từ đó bất kỳ
người đời thường nào (tăng, ni, upàsaka, ưu bà tắt hay nam cư sĩ
) đều có thể trở thành “thánh đệ tử” (ariya-puggala).
Tuy nhiên, lời dạy này của Đức
Phật không có nghĩa rằng tự bản chất, đạo đức và tất cả loại lễ
nghi là những chướng ngại trên đường giải thoát; mà để chỉ ra
rằng đạo đức và lễ nghi đó chỉ trở thành toàn thiện khi chúng
được gắn liền với sự giác ngộ hoàn toàn về bản chất thực tại của
con người và được sử dụng với ý thức rằng đây chỉ là một phương tiện
đưa con người đến bờ giác ngộ. Nhưng nếu có người chấp vào các
quy tắc đạo đức và nghi lể và cho rằng đây là con đường chắc chắn
sẽ dẩn đến giải thoát, vị ấy sẽ trở thành tùy thuộc vào chúng và
cái ngã của vị ấy sẽ được thổi phồng lên. Điều này càng ngăn
chặn con đường giải thoát của vị ấy. Quy luật nầy cũng được áp
dụng cho trường hợp của những người bám víu vào các quy tắc và lễ
nghi đạo đức chỉ vì đó là những thói quen, truyền thống, nếp
sinh hoạt hằng ngày, hay ngay cả chỉ để thoả mãn những ước vọng
thẩm mỹ của riêng vị ấy.
Nếu muốn hiểu đúng đắn vấn đề
“không chấp chặt vào các quy tắc đạo đức và nghi lễ” hay “không
chấp vào giới cấm thủ”, chúng ta không nên chú ý đến “các giới
cấm” (Pali sìlabbata) mà nên để tâm đến vấn đề “bám víu”
(paràmàsa) hay “chấp thủ” (upàdàna). Những nghi lễ thờ cúng là
một phần của nếp sống cộng đồng Phật giáo từ những ngày đầu tiên
của lịch sử đạo Phật. Chẳng hạn, ngay từ đầu nghi thức quy y
Phật, Pháp, Tăng là rất quan trọng, quan trọng đến nổi mỗi Phật
tử đều hành lễ này, và nghi lễ nầy vẫn được duy trì này đến ngày
hôm nay.
Trong Tăng đoàn cũng thế, lễ nghi
luôn được xem là quan trọng. Bởi thế, lễ upasampadà hay lễ thọ Cụ túc
giới, mà qua đó người Sa di (Pali sàmanera) được nâng lên thành
một bhikkhu hay tỷ-kheo (người được thọ giới đầy đủ và chính
thức), được tiến hành rất kín đáo trong nhiều thế kỷ, và vị tăng
nào mà chưa thọ Cụ túc giới thì không được phép dự các buổi lễ
này. Nghi lễ này thường được tổ chức ở một nơi tôn kính đặc biệt
cách ly với công chúng.
Những lễ nghi khác cũng được đánh
giá cao từ thời xa xưa nhất của đạo Phật, và có những lễ nghi
đặc biệt như lễ cúng dường (pùja) và lễ hộ trì thân và tâm
(paritta). Cũng tương tự như thế, chúng ta nghe nhắc đến rất sớm
lễ đi nhiễu quanh các chùa tháp (Skt. pradakwina) cùng với sự thờ kính
những biểu tượng của Đức Phật với đèn cầy và hương hoa cũng như
việc đảnh lễ trước các biểu tượng của Đức Phật và nghi lễ tụng
kinh Phật. Đây là những điều rất quen thuộc đối với mọi Phật tử.
Việc thực hiện những lễ nghi với
tấm lòng chân thành và hoàn thiện luôn là biểu hiện của tinh thần
sống đúng theo giới luật và là một hành động thiện trên con
đường cao cả theo vết chân Đức Phật. Nhưng Đức Phật ý thức rất rỏ
sự yếu đuối của bản chất con người và những bẩy lưới do chính
con người tự tạo đang tiếp tục trói buộc con người. Vì thế, Ngài
đã nói rõ là ngay cả những gì được xem là “thiện” nhưng khi bị sử
dụng sai lầm đều có thể tác dụng ngược lại, để rồi những gì mà
bình thường được xem như một phương tiện giải thoát có thể trở
thành một sự ràng buộc tuy vi tế nhưng khó phá vở vô cùng Vì lẻ chúng
ta có thể nghĩ rằng qua việc tuân thủ nghiêm nhặt những giới luật
hay thực hiện một số lễ nghi nào đo, chúng ta đã tạo được một số
công đức đặc biệt, và do đó chúng ta sẽ trở nên hoàn thiện hơn,
hay thậm chí trở thành những bậc thánh, hoặc là chúng ta có năng
lực thần thông để tác động một cách kỳ diệu vào các quy luật vận
động của thế gian nầy. Những suy nghĩ và hành động như thế sẽ
biến những gì thánh thiện thành sự độc hại: Người suy nghĩ và
hành động như thế đã nâng cái ngã của mình thậm chí cao hơn và
củng cố vị trí của nó đối với cuộc đời nầy thay vì làm suy yếu
cái ngã và biến nó thành trong suốt.
Lời cảnh báo của Đức Phật nhắc
chúng ta không nên chấp vào giới luật và nghi lễ được tuân thủ rỏ
rệt nhất trong Thiền tông Trung Quốc (cơ sở bắt nguồn của Thiền
tông Nhật Bản), và trong phong trào các du tăng (siddha) Kim cang
thừa mà về sau nầy đã ảnh hưởng xu hướng vô chấp thủ giới trong
Kim cang thừa. Những tiểu sử còn lưu lại của các vị du tăng (siddha) và
những cao tăng tên tuổi Kim cang thừa như Tilopa, Naropa, và Milarepa
cũng như của các thiền sư Trung Quốc và Nhật Bản là những tấm
gương sáng về việc vô chấp thủ giới này.
Nhưng trong Thiền tông và Kim
cang thừa, luật lệ và lễ nghi vẫn đóng một vai trò lớn và người
ta nhấn mạnh đến việc tuân thủ những luật lệ và lễ nghi nầy. Do
vậy, vị thiền sinh, sau một khóa học, được huấn thị phải để qua
một bên tất cả những kinh sách và những điều đã học được từ kinh
sách để không bị ảnh hưởng của định kiến và có thể phát triển đời
sống tâm linh một cách tự nhiên và trung thực. Và để thực hiện
điều nầy, các thiền sư thường cường điệu cách diễn đạt tư tưởng
của mình hoặc dùng những nghịch lý để tạo những cú “sốc” trong
tâm các thiền sinh. Nhưng trên mặt khác, thời biểu hằng ngày của
thiền sinh phải theo những luật lệ và nghi thức hết sức chi tiết và
không ngừng nghỉ từ lúc thức dậy sáng sớm cho đến lúc tối trước
khi ngủ như nghi thức ăn uống, rửa bát ăn cơm, bước vào thiền đường,
ngồi xuống, tọa thiền, tụng kinh, tụng đọc những lời thệ nguyện,
qùy lạy trước những hình ảnh của Đức phật và của ngài Văn Thù
cũng như nghi thức tôn kính vị thầy và những hình thức chào hỏi
khi gặp nhau. Tóm lại, ngay cả tông phái được xem là ít đặt nặng
vấn đề lễ nghi nhất thực ra đã đòi hỏi những hình thức lễ nghi
tôn giáo nghiêm nhặt nhất và yêu cầu tín đồ của mình phải có một
cuộc sống dựa trên luật lệ và lễ nghi hết sức nghiêm túc. Những
người phương Tây ngưỡng mộ và tuân thủ những nghi thức có vẽ “phá
lệ” của Thiền tông Nhật bản nên sống một thời gian ngắn trong
một thiền viện Nhật để xóa đi những hiểu lầm nầy.
Các nghi lễ tôn giáo mà Thiền
tông Nhật Bản phát triển gần như tuyệt mỹ đã được Kim Cương thừa
phát triển thậm chí còn nhiều hơn nữa, mặc dầu Kim cang thừa
thiên về các biểu tượng tôn giáo hơn và biến nghi lễ thành sinh
hoạt hằng ngày của người Phật tử. Với những thực tế này lắm lúc
chúng ta phải tự hỏi những hình thức lễ nghi như vậy có tương hợp
với lối sống Phật giáo như Thế Tôn đã chỉ dạy hay không, và có
nên chăng, những người phương Tây như chúng ta, nếu muốn bắt đầu xây
dựng và truyền bá đạo Phật ở đây, tiếp tục giữ lại những hình thức
lễ nghi tôn giáo nầy?
Cũng như những chúng sinh khác,
con người là sản phẩm của lịch sử và các quan hệ xã hội, nếu
không thì con người sẽ không phải là con người như hiện tại. Và
từ trong bối cảnh phát triển lịch sử và xã hội nầy mà người ta đã
liên tục chứng minh rằng những quy luật đạo đức và lễ nghi có
thể tạo ra những năng lực hiền lành và thánh thiện nhằm giúp loài
người phát triển về văn hóa nói chung và từng cá nhân con người
có thể phát triển đời sống tâm linh của mình nói riêng. Vì thế, mỗi
ngày chúng ta sẽ luôn có cảm nhận mới mẻ về sự hòa hợp mà việc
hành trì Năm giới mang đến cho cuộc sống chúng ta, cả bên trong lẫn bên
ngoài, miễn là chúng ta làm điều một cách ý thức và dựa trên mức
độ trưởng thành về tâm linh và trí tuệ của chúng ta. Nhưng điều
cần nhớ rõ là chúng ta không nên bao giờ hạ thấp Năm giới này
thành “Năm giới cấm” mà chúng ta phải tuân thủ bất chấp mọi tình
huống. Nếu không, chúng ta sẽ làm giống như một vị tăng, vì phải
nghiêm nhặc tuân theo điều luật không được đụng chạm với nữ giới,
cứ đứng yên bất động để mẹ mình chết đuối khi bà bị té rơi xuống
giếng.
Chỉ khi nào chúng ta hiểu lý do
tại sao người ta đặt ra điều luật này và điều luật nọ và chỉ khi
nào chúng ta hoàn toàn đồng ý với lý do đó, chúng ta mới chấp
nhận những điều luật và tùy thuận hành động. Đức phật không bao
giờ mong đợi đệ tử của mình đi theo Ngài một cách mù quáng. Ngài
là vị giáo chủ duy nhất không những cho phép mà còn khuyến khích
sự phê phán trong hàng đệ tử của mình. Ngài chỉ muốn mọi người
theo Ngài khi họ làm điều này dựa trên cỡ sở của sự tu chứng và
lòng tin của riêng họ.
Và vì vậy, Ngài nói với Ànanda,
đệ tử thân tín của mình, rằng “Nếu ngươi theo Chánh pháp do chỉ
vì thương ta hay kính ta, thì ta sẽ không thừa nhận ngươi là đệ
tử. Nhưng nếu ngươi theo Chánh pháp vì bản thân ngươi đã thể
nghiệm sự thật của nó, vì ngươi hiểu và hành động phù hợp theo
nó— chỉ trong những điều kiện như vậy ngươi mới có quyền xem mình
là đệ tử của Thế Tôn.”
Vì lẻ đó, theo quan điểm Phật
giáo, luật lệ đạo đức và lễ nghi chỉ hiền thiện khi chúng được
thực hiện trong tinh thần đúng đắn, nghĩa là, với sự hiểu biết
đầy đủ, với tuệ quán chín muồi và ý thức rõ ràng. Vì lẽ, nếu lễ
nghi được thực hiện như một thói quen mà chúng ta cần làm mỗi
ngày hay vì truyền thống và quy ước trong đạo bảo chúng ta phải
làm như thế (chủ yếu vì nó không còn ý nghĩa thật sự nữa), lúc đó,
việc thực hành nghi lễ sẽ trở thành một hành động vô nghĩa và do đó
trở thành một chướng ngại trên con đường tiến bộ thực sự. Nhưng,
nếu lễ nghi được thực hiện một cách ý thức với sự hiểu biết trọn
vẹn về ý nghĩa của nó thì nó sẽ trở thành một công phu thiền
định được tiến hành và hướng ra bên ngoài, thay vì vào bên
trong, và trở thành một quá trình hành động nhằm tập trung toàn
bộ các hoạt động thuộc giác quan của hành giả.
Trong một nghi lễ, khi chúng ta
cúng dường một ngọn đèn cho Đức Phật chúng ta không nên nghĩ hay
cho rằng mình đang làm một ân huệ cho Đức Phật. Mà trái lại,
chúng ta nên ý thức một cách trọn vẹn rằng chúng ta phải nâng cao
nguồn sáng trí tuệ mà chúng ta đã tiếp nhận từ Ngài, nguồn ánh
sáng xua đuổi bóng đêm trong tâm thức chúng ta, hướng dẫn chúng ta
và tất cả chúng sinh tìm thấy con đường đi đến giác ngộ. Theo cách
này, đối với người thực hiện nghi lễ, ngọn đèn cầy cúng dường cho
Đức phật là một phương tiện để hồi tưởng và quán niệm (smfti)
về cái ánh sáng giác ngộ đã và đang chiếu sáng trong mỗi người chúng
ta từ thời vô thỉ, mặc dù nó luôn bị che khuất trong bóng tối của
những bức tường tự ngã mà chúng ta luôn cần phải phá đổ.
Nguyên tắc này cũng được áp dụng
cho việc dâng trầm hương và những đồ cúng dường khác, với những
chi tiết gia giảm khác nhau, đêû qua đó chúng ta nói lên lòng
biết ơn, sự tận tụy, và tinh thần sẵn sàng quên mình để theo
gương Bậc giác ngộ, hầu đánh thức và làm nẩy mầm những chủng tử
Phật pháp trong tâm chúng ta. Và, khi nhìn hình ảnh Đức phật, chúng ta
nên xem nó như là điều nhắc nhở chúng ta về cái Phật tính tiềm
tàng trong chúng ta, về lý tưởng vĩ đại mà Đức phật lịch sử
Thích-ca mâu ni đã thực hiện trong chính cuộc đời của Ngài, và
đây cũng là lý tưởng kêu gọi chúng ta hãy thực hiện nó trong
chính cuộc đời của mình. Bởi vì mục tiêu giác ngộ là trong tầm
tay của tất cả chúng sinh có ý thức. Nhưng nếu chúng ta cho rằng
chúng ta có thể phục vụ Đức Phật bằng cách tôn kính hình ảnh của
Ngài thì đây quả là một điều khờ dại. Đúng lẽ ra, qua việc tôn
kính hình ảnh của Đức Phật, chúng ta có thể càng giữ vững mục
tiêu của mình trên con đường đạo và trong việc thực hiện Đạo
Pháp. Đạo Pháp ở đây không chỉ có nghĩa là lời dạy của Thế Tôn mà
còn là những qui luật phổ biến đang vận hành trong cái vũ trụ
bao la mà ta thường gọi là thế giới vĩ mô và cái thế giới nhỏ hẹp
hay thế giới vi mô đang hiển lộ dưới mắt chúng ta, những con người bình
thường sống trong cuộc đới nầy.
Pháp Phật dựa trên tri kiến về “sự
vô ngã” của mọi sự vật hiện tượng. Ngày nào chúng ta còn xem vật chất
và tinh thần là những cực đối lập không thể hoà giải được thì
ngày đó chúng ta vẫn còn chia chẻ thế giới ra làm hai và đánh mất
điểm tựa của mình. Do đó, những hình thức được chế đặt ra là để
con người thể nghiệm và hiểu biết. Nghi lễ chỉ là một trong những
hình thức được chế đặt để qua đó chúng ta thể hiện những tư
tưởng và tình cảm sâu xa nhất trong tâm thức của mình, và vì vậy
nó phải là sản phẩm của những tư tưởng rõ ràng và trong sáng hay
những tình cảm chân thật và hồn nhiên. Nếu không, nghi lễ sẽ trở
thành những hình thức ước lệ kèm theo những lời lẽ rỗng tuếch
được lập đi lập lại một cách vô nghĩa trong khi tâm của người
hành lễ thì lại để ở đâu đâu. Nếu tiến hành như thế, thì toàn bộ
lễ nghi sẽ trở thành chướng ngại của con đường giác ngộ.
Chỉ khi nào mà chúng ta có thể
thấy mỗi từ, mỗi điệu bộ, mỗi cách thức, và mỗi đồ vật cúng dường
là một biểu tượng đưa chúng ta càng đến gần cái nhìn tuệ quán
sâu sắc vào bản chất nội tại của chúng ta, giúp chúng ta trưởng
thành hơn về tâm linh và qua đó chuyển hoá nội tâm chúng ta, chỉ
có như thế, nghi lễ mới trở thành một phương tiện có giá trị trên
lộ trình tu tập của chúng ta. Nó củng cố định lực của chúng ta,
giúp chúng ta có cái nhìn trực giác, và bằng những hình tượng, nó
đưa chúng ta vượt lên trên mọi hình tượng. Đây là điều mà Kim
Cang thừa gọi một cách biểu tượng là “đại ấn” (mahamudra). Theo
cách này, những lời chú nguyện (mantras), cách thức bắt ấn (mudràs)
và mạn đà la (manđala) trở thành những phương tiện (upàya) có ý
nghĩa giống như vòng quay cầu nguyện (mani-khorlo), chuỗi tràng
hạt, hoặc bàn thờ trên đó ta làm lễ cúng dường (puja), hoặc các
bảo tháp có cấu trúc mang tính tâm lý vũ trụ mà ta đi nhiễu quanh theo
hướng mặt trời.
Khi những phương tiện và biểu
tượng này được đưa vào các nghi lễ của một truyền thống tôn giáo
đương thời và được hành trì với đầy đủ ý thức, nó sẽ rất hữu ích
cho người hành trì. Nhưng chỉ khi nào người hành trì thực hiện
các nghi lể với tấm lòng chân thành, nghi lễ mới giúp vị ấy có
được những sự hiểu biết dựa trên trực giác “tại đây và ngay bây
giờ”. Những hiểu biết trực giác nầy sẽ chuyển hóa thân và tâm của
vị ấy, và qua đó, giúp vị ấy phát triển đến trình độ tâm linh mà
ngôn ngữ tự nó không thể nào diễn tả được.
Trong cùng một thời điểm, nghi lễ
cúng đường (puja) trong đạo Phật mang nhiều ý nghĩa khác nhau.
Trước hết, nó diễn tả tấm lòng kính trọng và biết ơn của chúng ta
đối với các bậc giác ngộ vĩ đại đã khai mở con đường tâm linh,
chư Phật và Bồ tát và tất cả những ai chọn đi trên đường đạo vì
sự an lạc của tất cả chúng sinh. Từ sự kính trọng và biết ơn nầy
sẽ khởi lên niềm mong ước là tự mình cũng sẽ đi trên đường đạo và
sẽ đạt được quả vị giác ngộ. Rồi bước thứ hai là sự hiến dâng
con người của mình, lời thệ nguyện hiến dâng cuộc đời mình phục
vụ các bậc giác ngộ, thực hiện những lời giảng dạy của các vị ấy
và các chư hiền thánh tăng. Để thực hiện mục tiêu lý tưởng nầy,
chúng ta không có cách nào khác ngoài công phu thiền định. Và ở đây
chúng ta sẽ làm quen với khía cạnh thứ ba và quan trọng nhất của nghi
lễ cúng dường. Đó là khả năng thể nghiệm nghi lễ qua hình thức
trình bày mà chúng ta có thể thấy bằng mắt được. Đây là
quá trình "kịch tính hóa" của kinh nghiệm thiền định, trong đó
hành động thờ phượng trở thành một phương tiện tập trung tâm ý.
Đây cũng là một cách để tiến xa hơn nữa trên con đường phát triển
tâm linh.
Với những hoạt động tiến hành
cùng một lúc của thân thể, tâm lý, và tâm linh thể hiện qua lời
nói, điệu bộ, tư tưởng và cảm xúc, chúng ta sẽ thống nhất được
tâm ý. Sự nhất tâm nầy sẽ ảnh hưởng không những phần bên ngoài
của tâm thức (phần nầy gồm tri thức, kiến thức và phần ý thức đến
từ các giác quan) mà còn ở những cấp độ tâm lý sâu thẳm trong
tâm thức chúng ta. Qua tiến trình thực hành đều đặn nghi lễ như
thế, toàn bộ con người chúng ta sẽ từ từ chuyển hoá một cách vững
vàng, và dễ tiếp thu những năng lực của ánh sáng giác ngộ
(bodhicitta hay bồ đề tâm). Và như vậy, puja hay sự cúng dường
(mà tất cả hệ phái Phật giáo đồng ý) là một khả năng giúp chúng
ta đi vào thiền định. Và vì nó thu hút toàn bộ con người chúng ta
và hướng chúng ta về mục tiêu giải thoát nên nó là suối nguồn vô tận
giúp chúng ta nhớ lại và nhận biết những gì Đức phật đã chỉ cho
chúng ta với tấm gương của ngài. Nó cũng không phải chỉ để nhắc
chúng ta nhớ lại lời thệ nguyện quyết tâm đi suốt con đường đạo
với tất cả năng lực của mình; Nó còn là một bước tiến trên con
đường thực hiện sự thuần nhất và thống nhất trong nội tâm con
người.
Để lợi lạc của việc cúng dường
được viên mãn, chúng ta phải không ngừng tiếp tục xem xét lại và
thể nghiệm lại các nghi thức cúng dường. Trong tiến trình này, sự
đa dạng và nhất là ý nghĩa vô tận của các biểu tượng nghi lễ cần
phải được thể nghiệm rất nhiều lần để chúng ta có thể cảm nhận
tất cả các mặt khác nhau của nó, và qua cách hành trì nầy, nghi
lễ sẽ trở thành suối nguồn của những trực cảm mới mẻ. Nhưng nghi
lễ cúng dường Đức Phật (puja) chỉ làm được vai trò nầy nếu chúng
ta luôn thực hiện nó với “cái tâm của người mới bước vào đạo”,
không bị kẹt hay chấp vào những cái thấy biết mà ta đã được một lần
thễ nghiệm, hoặc không mong đợi là chúng ta sẽ được thể nghiệm lại
những kinh nghiệm đã trải qua từ trước. Vì làm như thế, chúng ta sẽ
chận đóng lại dòng chảy tự do của kinh nghiệm sáng tạo mà tự nó
là suối nguồn sáng tạo nội tâm vô tận, và chỉ khi nào được tự do
tuôn chảy, nó mới có thể nuôi dưỡng tiến trình thay đổi, thống
nhất, tỏa sáng và trong suốt liên tục trong tâm thức chúng ta mà
thôi.
Trong khi hành lễ cúng dường Đức
Phật (puja), người Phật tử biết rõ là mình không đang “làm phù
phép”. Vị ấy biết rất rỏõ là trạng thái tâm của người hành lễ sẽ
quyết định sự hiệu quả của những câu thần chú, cách thức bắt ấn,
và những hành động mang tính biểu tượng như thắp đèn cầy, biến
nước thường thành nước bất tử (amfta), hay việc chưng bày hương
hoa lễ vật cúng dường. Qua sự kết hợp hoà điệu và nhuần nhuyễn
của hình thức nghi lễ (gồm âm thanh và nhịp điệu), cảm xúc (đến
từ lời kêu gọi và tình cảm hiến dâng cho đạo pháp) và tâm thức
(những tâm sở dựa trên tri thức và kinh nghiệm), những năng lực
tâm ly ù sâu xa và tiềm ẩn (những năng lực ít bị sự chi phối nhất
của tầng ý thức bên ngoài) sẽ được đánh thức, củng cố và chuyển
hoá.
Hình thức (Sắc) ở đây rất thiết
yếu vì nó là cái chứa đựng chất lượng của nghi lễ. Cảm xúc
(Thoï) là thiết yếu vì nó tạo sự thống nhất, có tác dụng
giống như sức nóng của lửa làm nóng chảy nhiều kim loại khác nhau
và kết hợp chúng lại thành một thể thống nhất mới. Mặt khác, tâm thức
(Idea) là “chất liệu”, hay là cơ sở vật chất cơ bản
(prima materia) mang lại sức sống cho tất cả nhân tố tạo nên tâm
thức con người và đánh thức những năng lực đang còn ngủ yên trong
tâm thức đó. Chúng ta không nên hiểu từ "tâm thức" dùng ở đây
là tư duy trừu tượng, mà nên hiểu theo ngữ gốc Hy lạp của nó,
eidos, nghĩa là một hình ảnh sáng tạo, hay là một loại kinh
nghiệm sống thật trong đó thực tại được phản ánh và không ngừng
được tái tạo và sáng tạo một cách mới mẻ.
Trong khi hình thức của các nghi
lễ cúng dường được biết bao thế hệ kết tinh lại và không ngừng
được thay đổi sau hàng ngàn năm, cái tâm thức (idea) đứng phía
sau những hình thức nghi lễ cũng luôn được thay đổi và tiếp tục
tạo nguồn cảm hứng cho những sự thay đổi về nghi thức mới mẻ
trong tương lai. Cái tâm thức nầy chính là quà tặng mà Đức Phật
dành cho đệ tử của ngài. Nhưng ngọn lửa bắt nguồn từ những khối
óc và trái tim sáng tạo dựa trên cơ sở của sức mạnh sáng tạo đến
từ quà tặng của Đức Phật có thể thắp sáng và đốt cháy hay không
phải tuỳ thuộc vào phần đóng góp của người đệ tử Phật. Chỉ khi
nào niềm tin của người đêï tử Phật được khởi lên từ một nội tâm
vững chắc, và niềm tin của vị ấy đối với giáo pháp là thuần tịnh
thì vị ấy mới có được sự thống nhất nội tâm. Nhưng nếu không tu
tập thì vị ấy vẫn không thể tiếp nhận và phát triển được tâm
thức. Nếu tinh thần vị ấy bị mê mờ và chậm chạp thì những năng
lực nội tâm sẽ không thể đáp ứng được lời kêu gọi của Đức Phật.
Và nếu thiếu sự tập trung thì vị ấy sẽ không thể kết hợp được tâm
và ý của mình cùng với những hình thức nghi lễ một cách hoà điệu
và nhuần nhuyễn được.
Như vậy, nghi lễ Phật giáo trong
tất cả khía cạnh của nó không phải là một phương pháp để tránh né
những phiền nảo của cuộc đời hay để trốn tránh những nghiệp quả
do chúng ta gây nên, mà là một phương tiện hổ trợ chúng ta trên
con đường đạo. Nó đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực và đấu tranh kiên
trì. Chỉ khi nào người hành trì ý thức rõ ràng cái tinh chất cốt
lõi của nó thì toàn bộ nghi lễ hoặc những bộ phận của nó như
ấn, chú, mạn đà la, và tất cả những biểu tượng và hành động liên
hệ đến nghi lễ mới trở thành hữu ích. Bất kỳ ai dùng nghi lễ cúng
dường hay bất cứ bộ phận nào của nghi lễ để phục vụ những mục
tiêu ích kỷ của họ sẽ tạo nên những năng lực tiêu cực và những
năng lực nầy sẽ có tác dụng ngược lại trên người ấy. Như vậy,
chúng ta không thể niệm thần chú hay sử dụng bất cứ nghi lễ tôn
giáo nào hay dùng sức mạnh thần thông để hóa giãi nghiệp báo và
hậu quả tiêu cực của những hành động mà chúng ta đã làm. Chỉ bằng
cách làm trong sạch tâm và bằng nỗ lực tâm linh chân thật mà con
đường giải thoát giác ngộ mới có thể được viên mãn. Milarepa đã
nhắc nhỡ chúng ta rằng:
- Nghi lễ
tôn giáo có lợi ích gì
- nếu
thân, khẩu, ý không đi đúng Chánh pháp?
-
Nghi lễ tôn giáo có lợi ích gì
-
nếu sân hận không được nhiếp phục?
-
Lời kêu gọi “Xin hãy Từ bi!” có lợi
ích gì
- nếu chúng ta không
thể yêu người khác hơn chính mình?
Ngày nay ở các nước phương Đông
và phương Tây, có những đạo sư truyền dạy thần chú cho
đệ tử mà không khai tâm cho đệ tử theo chiều hướng và ý nghĩa của
những thần chú ấy. Sự lập lại một cách vô nghĩa của một âm thanh
mang tính biểu tượng may mắn lắm thì cũng chỉ dẫn đến sự thư
giãn của một trạng thái thôi miên. Thần chú, ấn quyết, và mạn đà
la là những phương tiện trợ giúp cho thiền định. Nếu chúng trở
thành những đối tượng của một niềm tin mù quáng hay trở thành những
phương tiện để đạt được lợi lộc ở đời thì chúng sẽ mất đi thật
nghĩa của chúng. Đức Phật đã đặt con người ở vị trí trung tâm trong
hệ thống thế giới của ngài--đó là con người có thể tự giải thoát
bằng nỗ lực của chính mình mà không nhờ vào sự can thiệp của thần
thánh hay yêu thuật. Nếu nghi lễ hay bất kỳ một bộ phận nào của nó
bị lạm dụng theo cách này thì nó mất đi ý nghĩa và tinh thần của
lời dạy của Đức Phật và trở thành một sự trói buộc thay vì là một
phương tiện khả dĩ đưa đến giải thoát.
Nhưng chính vì chỉ trích tính
"yêu thuật" của các nghi lễ tôn giáo mà những nhà nghiên cứu Ấõn
độ học và Tây tạng học ở phương Tây đã lên tiếng phê phán những nghi
thức tôn giáo của Kim cang thừa ở Tây Tạng và Nhật Bản. Chúng
được diễn giải như là những buổi lễ cầu thần thánh hay ma quỷ và
một phần của lễ cúng dường được so sánh giống như lễ nhập thánh
thể (transubstantiation) trong Cơ đốc giáo.
Đúng là kinh tạng Mật tông thật
sự có nói đến những Devas, nghĩa là các chư thiên hay các vị thần
thánh như là những hình tượng được quán niệm trong thiền định.
Nhưng chữ Deva trong Mật Tông không liên hệ gì đến khái niệm
Thượng Đế của những tôn giáo nhất thần ở Cận Đông. Đối với những
người thuộc văn hóa Ấn Độ, Devas là những vị giống như tất cả
chúng sinh khác vẫn còn bị trói buộc trong luân hồi sinh tử. Theo
Mật Tông, Devas hay chư thiên sẽ xuống cõi trần khi
chúng ta kêu gọi họ, cho họ một hình dángï trong ý thức của ta, và
tôn kính họ, cho dù họ chưa bao giờ có mặt trước đó, và họ sẽ ra
đi khi không còn được mời gọi nữa, cho dù họ đã sống cả hàng ngàn
năm trong ý thức của con người. Vì họ là những phương tiện giúp con
người phát triển năng lực thấy biết của mình, nên việc
kêu gọi và tôn kính họ là những hành động sáng tạo về tâm linh
dựa trên sự tập trung vào một ý tưởng, một hình ảnh, một biểu
tượng, hay ngay cả một cảm xúc.
Năng lực chuyển hoá của sức quán
tưởng các chư thiên (Devas) sẽ có hiệu quả cao nhất khi tất cả
những yếu tố này (sự tập trung vào một ý tưởng, một hình ảnh, một
biểu tượng, và một cảm xúc) được kết hợp hài hòa với nhau, và nó
sẽ không phát huy tác dụng nếu việc kêu gọi chỉ là một hành động
thuần túy máy móc hay một màn kịch trí thức. Nhưng nghi lễ được
tiến hành trong tinh thần thiền định đúng đắn là một cách để
thống nhất, kết hợp, và mang lại sức sống sáng tạo cho những ý
tưởng, hình ảnh, biểu tượng, và tình cảm của người hành trì. Vì
vậy nghi lễ có thể trở thành cái chìa khóa mang đến cho chúng ta
sức mạnh và năng lực tiềm ẩn của các chư thiên được quán tưởng
trong quá trình thiền định. Và đây là lý do tại sao trong những
thế kỷ trước đây, những người có hiểu biết về các tiến trình tâm
linh trong nghi lễ thường giữ bí mật các nghi lễ nhằm bảo vệ những người
chưa đi vào đạo (chưa được khai tâm), và chỉ truyền những nghi
lễ ấy cho những đệ tử có phẩm chất cao.
Người ta không "chế đặt" ra các
nghi lễ--Nghi lễ bắt nguồn từ những kinh nghiệm tự nhiên và có
thật của một số hành giả có trình độ tâm thức rất cao. Với thời
gian, những vị nầy tích lũy kinh nghiệm và cách thức hành trì
của biết bao thế hệ, và tiếp tục phát huy thêm. Nhưng nhìn chung,
những gì họ đúc kết đều dựa vào cái cốt lõi đơn giản của một
biểu tượng hay của một hành động mang tính biểu tượng đơn giản,
xuất phát từ một cảm xúc tâm linh sâu sắc hay một nhận thức có
năng lực chuyển hoá. Trong thời mạt pháp, cái cốt lõi này thường
bị vùi lấp dưới những mớ nghi lễ vụn vặt không cần thiết, và khi
điều nầy xảy ra, chúng ta có thể nói là nghi lễ đã "chết" hay đã
mất hết ý nghĩa thật sự của nó.
Trong Mật giáo, nghi lễ quan
trọng nhất là nghi lễ quán tưởng về một hình ảnh của một vị thánh
trong tâm thức của hành giả. Những nghi lễ nầy có sức sáng tạo
vì chúng tác động đến những năng lực trong ý thức và tiềm thức
của con người. Đây là những tác động không những trên cá nhân mà
cả tập thể, không những trên chủ thể mà cả khách thể. Nói đến
đây, chúng ta hảy trở lại vấn đề “thực tại” thật ra là cái gì?
Những người theo Mật giáo cơ bản quan niệm rằng các vị thần thánh có
hiện hữu ở ngoài chúng ta hay trong tâm thức chúng ta hay không, đây
không phải là điều quan trọng. Ngay cả việc chúng ta có
thể dùng lý luận để chứng minh sự hiện hữu của các vị thầân thánh
cũng không quan trọng. Vì ở đây, trong lãnh vực tâm linh, chỉ có
những gì "có thật" hay "đang thật sự xảy ra" mới có khả năng
tác động như một sức mạnh sáng tạo. Từ quan điểm này, một hình
ảnh, một biểu tượng, hay một nghi lễ có thể tác động trên tâm
thức của hàng ngàn con người và có khả năng chuyển đổi con người
phải được xem như là “thực tại sống động và chủ động.”
Qua lời khấn nguyện, những sức
mạnh thiêng liêng sẽ xuất hiện trong tâm thức của người hành trì
nghi lễ dưới dạng những hình tượng. Sức mạnh thiêng liêng nầy là những
năng lực đã bắt rể sâu thẳm trong tâm thức chung của loài người
sau hàng mấy nghìn năm sinh hoạt thờ phụng và tôn kính của nhân
loại. Chúng chỉ chờ những lời khấn nguyện và kêu gọi của người
hành trì nghi lễ để được đánh thức dậy, để có thể phát huy tác
dụng chuyển hóa đã có sẳn của chúng. Vì thế, lời khấn nguyện trong đạo
Phật có chức năng tương tự như lời cầu kinh trong các tôn giáo
hữu thần. Và nếu trong các tôn giáo hữu thần lời nguyện cầu là để
giao lưu và "chuyện trò" với Thượng đế thì lời khấn nguyện trong
đạo Phật là để kêu gọi và đánh thức những năng lực bên trong tâm
thức của người hành trì nhằm đáp ứng ước mong đạt đến một trạng
thái tâm viên mãn hay sự toàn giác của con người. Sức mạnh của
lời khấn nguyện xuất phát từ mong ước mãnh liệt của người hành
trì nhầm xóa đi khoảng cách giữa một bên là ý thức về sự thiếu
sót và không hoàn thiện của mình và một bên là mục tiêu lý tưởng
về sự toàn thiện và viên mãn tâm linh của vị ấy. Vì thế, khấn
nguyện là phương pháp đầu tiên nhằm triển khai kho tàng kinh
nghiệm vô tận ẩn chứa trong tầng ý thức chung, phổ biến, và sâu
thẩm nhất của nhân loại.
Nhưng nghi lễ không chỉ chuyển
hoá người hành trì qua sức mạnh của lời nói. Nó tác động trên
toàn bộ tâm thức của của người hành trì , và nó phải làm như thế
nếu nó muốn phát huy toàn bộ sức mạnh của nó. Qua sự phối
hợp của điệu bộ, lời nói, và tư tưởng, và qua sự phối hợp của
thân, khẩu, ý cũng như qua sự kết hợp nhuần nhuyễn của cảm xúc, những
lời phát biểu, và sự tưởng tượng sáng tạo trong quá trình quán
tưởng hình tượng của chư Phật, Bồ Tát, và chư thiên, chúng ta có
thể phối hợp và thống nhất được tất cả chức năng có thể có trong
đời sống tâm thức của mình. Trong quá trình nầy, không chỉ nhân
cách bề ngoài của chúng ta mà cả những tầng lớp ý thức sâu xa hơn
của chúng ta cũng bị tác độâng, để rồi qua việc hành trì đều đặn
các nghi lễ mà toàn bộ con người của chúng ta sẽ dần dần chuyển
hoá đưa chúng ta từng bước đến những mức thiền định sâu hơn, để
rồi cuối cùng đến mức thiền định mà ngay cả cái hình ảnh quán
tưỡng cũng không còn nữa. Đó chính là quả vị giác ngộ tối
thượng.
Từ những thời xa xưa nhất, khai
tâm (còn có tên là truyền tâm, khai đạo, điểm đạo) là buổi lễ
chiếm vị trí then chốt nhất trong các nghi lễ. Từ những ngày đầu
của nhân loại, lễ khai tâm có sức mạnh thôi thúc và chuyển hóa
giúp con người học hỏi và thể nghiệm thực tại ở những cấp độ cao
hơn. Nó nâng thành viên thanh thiếu niên trong một bộ lạc hay
một bộ tộc lên địa vị bình đẳng với các thành viên trưởng thành
khác và được mọi người thừa nhận. Nó hướng dẩn các vị giáo chủ, tù
trưởng, hay các nhà vua tương lai về uy tín và năng lực thu hút
(mana) của người lãnh đạo, bảo vệ và tăng cường sức mạnh cho
những vị nầy trong thế giới tâm linh huyền bí mới của họ để họ
có thể đương đầu tất cả những nguy hiểm trên con đường phát triển
nội tâm của mình.
Trong đạo Phật cũng thế. Lễ khai
tâm rõ ràng có vai trò ngay từ lúc đầu. Vì thế, trong Trường Bộ
Kinh (Dìgha Nikàya 16.5.30) có viết về một du sĩ nói với Aïnanda
như sau “Thật là một lợi lạc lớn cho tất cả các vị, rất có lợi
cho tất cả các vị vì các vị được tôn phong đệ tử trước mặt của
bậc Đạo sư”. Chẳng hạn như trong thời Vệ đa,ø “Lễ khai đạo” hay
"Lễ ban nước thánh" (Skt. abhiseka) được tiến hành trong lễ đăng quang
của một vị vua. Trong buổi lễ nầy, nước thánh được rảy ướt trên
đầu tóc của nhà vua để giúp mang lại cho ông quyền lực
và sức mạnh thu hút của hoàng tộc.
Và từ rất sớm, Đức Phật nói về
các đệ tử của mình như là những người con trai và con gái trong
cùng một gia đình cao quý (arya-kula) của những người hướng về
quả vị tâm linh cao thượng. Những ai được “sinh từ miệng của
Ngài” sẽ thừa hưởng gia tài người cha tinh thần của họ để lại. Và
vì vậy, trong tiến trình phát triển của đạo Phật ở Ấn độ, qua lễ
khai tâm (abhiseka), những đệ tử trở thành Phật tử hay tín đồ
của Đức Phật, và qua đó, tiếp thu được sức mạnh để thực hiện sứ
mệnh tương lai của họ: đó la ø tu tập để trở thành một Đức Phật
vì lợi ích của thế gian, một vị vương trên thế gian
(cakra-vartin) trong thế giới tâm linh của con người.
Đặc biệt là qua sự phát triển của
Kim cang thừa, lễ khai đạo hay khai tâm (abhiseka) trở thành
nguồn sức mạnh đột phá và khai mở quá trình rèn luyện tâm linh
lâu dài của người đệ tử. Qua đó những kinh nghiệm thiết yếu và
kiến thức được đúc kết và tập trung lại qua biết bao thế hệ đạo
sư trở thành nguồn động lực thôi thúc, đặc biệt là hình thức truyền
tâm của vị đạo sư mà bản thân ông đã phát triển và tiếp nhận từ
chính vị đạo sư của mình, và bây giờ ông trao truyền laị cho đệ tử
của mình qua nghi lễã “truyền tâm” (tiếng Tây Tạng là dBang-nskur);
vị đệ tử tiếp nhận đạo lực này, và triển khai nó cho đến lúc tâm
thức của vị ấy có thể cởi mở, tiếp thu, và kế thừa nó. Đạo lực
được tiếp nhận sẽ chỉ ra phương hướng tu tập và tạo nguồn cảm hứng
cần thiết để vị đệ tử tiếp tục tinh tấn chuyên chú trên con đường
tiến đến mục đích tối thượng.
Trong lễ truyền tâm, người đệ tử
tiếp nhận hương vị đầu tiên của cứu cánh giải thoát khi được
chia sẻ tâm thức và trình độ giác ngộ của vị đạo sư. Chính kinh
nghiệm này giúp cho người đệ tử mới bước vào đạo tin tưởng rằng
mình sẽ đạt được mục tiêu tối thượng và nên tập trung mọi nỗ lực
cho mục tiêu nầy. Từ đây trở đi, vị ấy không còn là một người
tầm đạo mù mờ nữa mà là một người biết rỏ mình đang đi về đâu. Vị
ấy tràn ngập với niềm tin (Phạn ngữ là zràddhaø) bất thối
chuyển, để rồi việc tu tập (sàdhana) chỉ đem lại niềm hạnh phúc
và hỷ lạc sâu sắc trong nội tâm vị ấy. Và bây giờ, quá trình tu
tập không còn là việc phải cực lòng chấp hành những bổn phận cuả một
người đệ tử và cũng không còn là việc thực hành những thời khóa
tôn giáo hay những buổi lễ tụng kinh mang tính thường xuyên và ước
lệ.
Vì lẽ đó việc truyền tâm của một
vị đạo sư chân thật vượt lên trên tất cả những khác biệt về
trường phái, hệ phái, và những lý luận kinh viện. Đó là việc đánh
thức cái thế giới nội tâm của mỗi người chúng ta, cho dù chúng
ta chỉ thoáng cảm nhận điều này thôi, nó cũng sẽ định hướng con
đường phát triển tâm linh và toàn bộ cách sống của chúng ta, mà
không cần sự cưỡng bách của bất cứ quy luật nào từ bên ngoài. Vì
thế lễ truyền tâm là quà tặng lớn nhất của một vị đạo sư dành
cho người đệ tử của mình. Quà tặng nầy quý hơn cả lễ thụ phong
chính thức để gia nhập tăng đoàn hay bất kỳ một tổ chức tôn giáo
nào. Lễ thụ phong có thể luôn được tiến hành mà không cần đòi hỏi
những phẩm chất tâm linh hay đạo lực của người thụ phong hay người dự
tuyển thụ phong, miễn là người dự tuyển thụ phong sẵn lòng tuân
thủ những luật lệ được quy định và không bị những khuyết tật về
thể chất, đạo đức hay tinh thần.
Mặt khác, lễ truyền tâm
(abhiseka) là một nghi thức mà nhờ đó tâm thức của người được
khai tâm mở ra một phương hướng mới. Và cùng với những lời hướng dẫn
cũng như những chú nguyện, phương hướng mới này sẽ khởi động và
làm thúc đẩy quá trình chuyển hóa nội tâm của hành giả. Trong mối
liên hệ này, lời chú nguyện (mantras), (ngoài tính chất đặc biệt
của chúng là những biểu tượng nguyên gốc của một thái độ tâm lý
cá biệt) là những tinh chất được đúc kết từ kinh nghiệm hàng trăm
năm tu tập và thiền định. Thêm vào đó, lời chú nguyện
còn mang dấu ấn tình cảm và cá nhân đặc biệt gắn liền vị đạo sư
và người đệ tử với nhau. Những lời chú nguyện này cùng với kinh
nghiệm thiền định nhắc nhở người đệ tử nhớ lại giờ phút khai tâm
của mình, và làm trào dâng lên trong tâm vị ấy sức mạnh để tiếp
tục trên con đường đạo mà vị ấy đã bắt đầu.
Cái “sức mạnh” được truyền trao
trong lễ khai tâm chỉ có hiệu lực trong lĩnh vực tâm linh, và
chúng ta không được lợi dụng nó cho những mục đích tư riêng. Nó
là năng lực khởi động quá trình chuyển hoá nội tâm của một con
người khi người ấy mở rộng tâm mình để tiếp thu tác động chuyển
hóa đó; để rồi người ấy trở thành người thị hiện sự chứng ngộ
vượt lên trên phạm vi cá nhân và có thể tác động lại trên người
khác. Vì lý do nầy, vị đạo sư chỉ có thể tiến hành lễ khai tâm
và truyền trao đạo lực của mình khi nào chính bản thân ông đã
phát huy những đạo lực nầy sau nhiều năm tu tập nghiêm chỉnh. Và
người đệ tử chỉ có thể trưởng thành và trở thành một vị đạo sư
khi vị ấy không ngần ngại mở rộng tâm của mình tiếp nhận sự hướng
dẫn tâm linh đặc biệt của thầy mình. Và từ sự gắn bó về tâm linh giữa
vị đạo sư và người “thiện nam tử” hay “thiện nữ tử” được chọn
lựa ấy, người đệ tử sẽ gia nhập vào đội ngũ những người thưà
kế sự nghiệp tâm linh của thầy mình.
[1]
Bốn sự chấp thủ đó là: chấp ái dục, chấp kiến, chấp giới, chấp
ngã
[2]
Mười trói buộc là 1. Ngã kiến, thấy có cái ta. Về
ngã kiến có hai loại: a. Tin vào cái ngã thường hằng và bất
biến (sassata-ditthi) b. Tin vào cái ngã sẽ bị hủy diệt
(ucche-dapditthi) nghĩa là tin vào cái ngã tùy thuộc vào 5 uẩn
(khandhas), khi năm uẩn tan rã, cái ngã cũng mất theo. 2. Nghi ngờ. 3.
Giới cấm thủ hay chấp chặt vàonhững giới điều đạo đức. 4. Tình
dục. 5. Não hại (những mong ước xấu và có hại) cho chúng sinh
và bản thân mình. 6. Tham đối với cuộc sống ở cõi sắc giới
(ruparaga). 7. Tham đối với cuộc sống ở cõi vô sắc giới
(aruparaga). 8. Kiêu mạn. 9. Trạo cử (lăng xăng, không yên).
10. Vô minh.
[3]
Quả dự lưu (sotapanna) là "người đang trên đường
vượt qua ba trói buộc đầu tiên, và do đó đã đi vào dòng đạo,
hay người đã vượt qua ba trói buộc đầu tiên--Người đó được gọi là
Tu đà hoàn" (Kinh Puggala Pannatti 1.47)