Tại
sao lại có các nghi thức lễ bái trong Phật Giáo? Người Phật Tử, hay ít 
ra là  đối với một Phật Tử Tây Phương thì có nên tránh các việc lễ bái 
hay không ?
Lời giới thiệu của người dịch: Trong một quyển sách nhỏ với tựa đề là « Phật Giáo Nhập Môn » (ABC du Bouddhisme,
nhà xuất bản Grancher, 2008) tác giả Fabrice Midal đã  tóm lược một 
cách ngắn gọn các vấn đề chủ yếu nhất trong Phật Giáo giúp mang lại  cho
người đọc một cái nhìn thật bao quát về một trong những tín ngưỡng lâu 
đời  nhất của nhân loại. Riêng đối với chúng ta thì những bài viết này 
còn đáng để  quan tâm hơn nữa vì đấy là một cái nhìn « từ xa » của một 
học giả Phật Giáo Tây  Phương hướng vào một tín ngưỡng « thật gần» với 
chúng ta.
Ngày nay Phật Giáo đang bành trướng nhanh chóng tại Tây Phương, thế  
nhưng việc thờ phụng và lễ bái thì lại là những gì thật hết sức xa lạ 
đối với họ.  Vậy người Tây Phương nghĩ gì và quan niệm như thế nào về 
các nghi thức lễ bái  trong Phật Giáo ? Chương 7 của quyển sách trên đây
được dành riêng cho đề tài  này, và dưới đây là phần chuyển ngữ.
Thiết nghĩ cũng xin ghi chú thêm là tác giả Fabrice Midal đến với  
Phật Giáo khi còn là một sinh viên và sau khi cạo đầu quy y thì ngay sau
đó ông  đã lập một bàn thờ Phật thật trang nghiêm theo đúng truyền 
thống Tây Tạng tại  nhà ông.


« Phật Giáo Nhập Môn » (ABC du Bouddhisme, nhà xuất bản  Grancher, 2008) tác giả Fabrice Midal 
Ý nghĩa và vai trò của lễ bái trong Phật Giáo
Tại sao lại có các nghi thức lễ bái trong Phật Giáo? Người Phật Tử, 
hay ít ra là  đối với một Phật Tử Tây Phương thì có nên tránh các việc 
lễ bái hay không ?
Sự suy tư và chiêm nghiệm trong Phật Giáo là nhằm vào chủ đích giúp 
khơi động  lòng từ bi, sự kính trọng và lòng biết ơn, đấy cũng là những 
gì thật thiết yếu  trong phép thiền định mà nhiều người  (Tây Phương)
đều biết và thường xuyên mang ra luyện tập. Thế nhưng phần đông lại 
chẳng có một  chút kiến thức nào về vai trò của lễ bái trong Phật Giáo  
(tác giả muốn nói là hầu hết các người Tây Phương theo  Phật Giáo đều 
chú tâm vào việc luyện tập thiền định và không chú ý tìm hiểu vai  trò 
của lễ bái).
Càng coi thường việc lễ bái bao nhiêu thì chúng ta lại càng mù tịt 
bấy nhiêu về  giá trị của nó. Những ai từng đã tham dự các buổi lễ lạc 
thì dường như thường  hay có cảm giác rằng đấy là những thứ giả tạo. Thế rồi chúng ta  cứ ước mong sao cho Phật giáo bỏ bớt đi những hình thức trừu tượng ấy.
Do đó chúng ta cũng nên tìm hiểu sâu xa hơn về cái cảm tính e ngại  trên đây hầu có thể hiểu được nó một cách tường tận hơn.
Tại các quốc gia Tây Phương ngày nay thì mối tương quan thiêng liêng  đó (giữa lễ bái và tôn giáo) dần dần đã  mất đi cái ý nghĩa của nó (tại Pháp hiện chỉ còn  4.50% dân chúng đến nhà thờ).
Tuy thế cũng không có nghĩa là trong  thế giới Tây Phương mối dây 
thiêng liêng ấy đã hoàn toàn bị cắt đứt. Các tác  phẩm nghệ thuật cũng 
như các cảnh vật thiên nhiên vẫn còn gây được nhiều tác  động trong lòng
một số người và điều ấy đã chứng tỏ một cách hùng hồn là mối dây  
thiêng liêng trên đây không hề mất hẳn. Thật vậy chúng ta đều cảm thấy 
là đôi  khi mình cũng phải cần đến một vài phút giây thư giãn, tự do và 
cởi mở nào đó  trước thực tại – chẳng hạn như những lúc ngắm nhìn một 
tác phẩm hội họa hay tản  bộ trên bãi biển. Trong những giây phút ấy một
cảm giác thanh thản dâng tràn  trong lòng mình.
Thế nhưng mối dây thiêng liêng đó không còn phải là một thứ độc  
quyền của các tôn giáo nữa, và đối với phần đông chúng ta thì đúng ra 
đấy chỉ là  một cách mà các tôn giáo lợi dụng để tạo ảnh hưởng và củng 
cố quyền lực, hơn là  giúp cho con người tìm thấy cội nguồn của sự sống.
Do đó đối với chúng ta  (người Tây Phương)
các nghi thức lễ lạc đã  trở thành những thứ xiềng xích còn sót lại từ 
những thời đại xa xưa, mà ngày nay  đã hoàn toàn lỗi thời. Đấy là những 
gì được xem như mê tín dị đoan hay là những  thứ dụng cụ dùng để thống 
trị và cần phải được loại bỏ.
Thật ra thì xu hướng trên đây còn có một lý do khác nữa.
Thời đại của chúng ta ngày nay không còn tin vào các thứ nghi thức  
lễ bái, huyền thoại, các loại biểu tượng hay các thứ biểu hiệu, mà chỉ 
nhìn vào  tính cách minh bạch của sự thuần lý – dù không hề ý thức được 
các khía cạnh cứng  nhắc của sự minh bạch đó. Trong thời buổi này chúng 
ta chỉ muốn gỡ bỏ các tấm  màn u mê của huyền thoại và nhất mực cho rằng
nghi lễ chẳng có ích lợi gì cả.  Đối với thế hệ chúng ta thì cái thế 
giới chỉ biết tôn thờ sự hiệu quả này chỉ có  thể trở nên toàn vẹn khi 
nào những ray rứt về ý nghĩa của sự hiện hữu đã hoàn  toàn bị loại bỏ, 
và tất cả mọi sinh hoạt đều nhất loạt phải được đặt dưới sự chi  phối 
của các tiêu chuẩn thiết lập bởi các nguyên tắc hiệu quả.
Thế nhưng mục đích của các nghi thức lễ bái lại là để mang con người 
trở về với cội nguồn của họ, nhằm cắt đứt mối dây trần thế và xóa bỏ 
các thói  tục thường tình – tức có nghĩa là những gì vô-hiệu-quả. Nếu 
nhìn dưới khía cạnh  đó thì bất cứ một hình thức lễ bái nào cũng đều giữ
được một chút thi vị trong  từng khoảnh khắc thời gian nhằm giúp chúng 
ta tìm thấy một chút ý nghĩa nào đó  trong cuộc sống của mình và để mang
lại cho sự sống ấy một khía cạnh sâu sắc hơn.
Chính vì mục đích đó mà nhiều người theo Phật Giáo đã tạo được cho  
mình một cuộc sống luôn hòa nhịp một cách thật hài hòa với các nghi thức
lễ bái,  đôi khi các nghi thức ấy cũng chỉ là những gì thật đơn giản    (chẳng hạn như thắp một nén hương lên bàn thờ Phật, hay  đánh một tiếng chuông vào buổi sáng).
Trước hết đấy là cách giúp họ  biết chú tâm hơn vào cái đẹp trong con 
người họ và của thế giới này và để nối  kết họ với cội nguồn của họ.
Thế nhưng nếu muốn tìm thấy cái ý nghĩa sâu xa ấy của nghi lễ thì  
quả thật khá khó cho những người Tây Phương chúng ta. Bởi vì không phải 
chỉ biết  thực thi các nghi thức lễ bái là đủ mà còn phải ý thức được ý 
nghĩa của chúng  trong nếp sống thường nhật và hình dung ra được cái ý 
nghĩa ấy trong từng giây  phút một.
Ý nghĩa của lễ bái trong Phật Giáo 
Lễ bái là một tổng hợp gồm một số hành động biểu trưng cho một sự  
hài hòa giữa các hành vi, ngôn từ và sự chú tâm của chúng ta. Trong sự 
hài hòa  ấy mỗi cử chỉ đều phát lộ được sự thiết tha, một thể dạng thật ý
thức và trọn  vẹn, và mỗi ngôn từ thì đều giữ được sự tinh khiết. Chúng
ta không thể bảo đấy  là một thứ gì độc đáo, duy nhất hay biểu trưng 
cho một sự thông minh nào cả – mà  thật ra đấy chỉ đơn giản là những gì 
hiện hữu đúng như thế.
Nếu muốn cho nghi thức lễ bái đạt được ý nghĩa ấy thì nó phải đi đôi 
với một phép tu tập thật chính xác và trang nghiêm. Thiền học Zen khai 
triển các  phép nghi lễ đẹp một cách phi thường, thí dụ như trà đạo 
chẳng hạn. Trà được đưa  vào Nhật vào thế kỷ thứ XII và chỉ được xem như
là một dược thảo. Mãi bốn thế kỷ  sau thì việc uống trà mới được một vị
thiền sư là Thiên Lợi Hưu (Rikyu) biến  thành một nghệ thuật và một 
phép tu tập hẳn hoi, bằng cách đưa ra một số nghi  thức chính xác, và 
nhất là làm phát lộ được thi tính trong các nghi thức ấy.
Đối với bất cứ một nghi thức lễ bái nào, thân xác phải hòa nhập với  
từng ngôn từ khi thốt lên – có nghĩa là mỗi cử chỉ phải phù hợp với từng
lời nói.  Tất cả đều hòa nhập với nhau để trở thành một nếp sinh hoạt 
đồng nhất.
Sự suy tư và lý luận mang tính cách phân tích sẽ tuyệt nhiên không  
còn cần đến nữa. Điều quan trọng hơn hết chính là sự chính xác và nghiêm
túc  trong từng cử chỉ. Không cần phải tìm cách để sáng tạo ra thêm một
thứ gì nữa cả  mà chỉ cần đơn giản thực thi những gì cần nên làm.
Do đó vai trò của nghi thức trước hết là giúp chúng ta hòa nhập với  
một thứ quy củ  nào đó nhằm giúp chúng ta biết đặt chân trên mặt đất này
và đồng  thời kết nối với cái bao la của toàn thể vũ trụ, và giúp cho 
tất cả mọi người  chung quanh cũng được hưởng lây cái bầu không khí đó.
Đối với thế giới Tây Phương thì nghi lễ không nhất thiết phải mang  
tính cách tôn giáo. Thí dụ như đi nghe một buổi hòa nhạc cũng có thể 
giúp chúng  ta nhận thấy được ý nghĩa sâu xa và đích thật của nghi lễ là
gì. Chúng ta bước  vào nhà hát và ngồi xuống. Các nhạc công bước vào 
sau và bắt đầu chơi nhạc.  Tiếng nhạc mang lại cho chúng ta một sự thích
thú nào đó. Chúng ta có cảm giác  như trút bỏ được những gì luôn đè 
nặng trong cuộc sống của mình. Chúng ta vỗ tay  thật nồng nhiệt để khen 
thưởng và cám ơn họ.
Lễ bái cũng có một chủ đích tương tự như thế. Đấy là những gì thật  
đơn giản, không hề bắt chúng ta phải suy nghĩ rắc rối, thế nhưng lại có 
thể giúp  chúng ta tìm thấy được sự tự do luôn bị che lấp và bị đè nặng 
bởi mọi thứ hiểm  nguy và lo lắng, bởi sự mất mát và những nỗi kinh 
hoàng trong cuộc sống.
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp  
chúng ta đến gần hơn với Đức Phật, cái bầu không gian ấy rộng mở và ấm 
áp biết  bao, đấy chính là sự thật trong từng khoảnh khắc mà chúng ta 
không mấy khi nhận  thấy được. Phật Giáo là một tín ngưỡng vô thần vì 
thế nên việc lễ bái dù cho có  tạo ra được một sự cảm ứng trực tiếp và 
thật sự nào với Đức Phật hay không thì  cũng chẳng quan hệ gì cho lắm. 
Vì thế mỗi khi suy tư về Đức Phật, về Chúa Giê-Xu  hay chỉ là một cọng 
cỏ – thì điều quan trọng hơn hết lại chính là tâm hồn mình,  sự mở rộng 
của con tim và nhịp thở của chính mình.
Vào thời kỳ khởi nguyên của Phật Giáo tại Ấn Độ, các nghi thức  lễ 
bái chủ yếu nhất chỉ liên quan đến các kiến trúc biểu trưng cho tâm linh
của  Đức Phật gọi là stupa (tức là các bảo tháp).
Bảo tháp được xây dựng khắp mọi nơi tại Á Châu. Nghi thức lễ bái thì 
đơn giản  chỉ là cách đi quanh các kiến trúc đó theo chiều kim đồng hồ. 
Bên trong các kiến  trúc ấy thường thì cũng chẳng có phòng ốc gì cả. 
Cách đi quanh các bảo tháp thì  gọi là diễn hành (circumambulation – diễn hành chung  quanh một biểu tượng mang tính cách tôn giáo).
Cách bước đi thật  trang nghiêm và sự chú tâm vào từng động tác của cơ 
thể giúp mình hoà nhập với  sự hiện diện của Đức Phật. Việc đi chung 
quanh một kiến trúc – chẳng hạn như một  bảo tháp trong trường hợp trên 
đây và trục của bảo tháp là biểu tượng của sự nối  kết giữa trời và đất –
 chỉ là một hình thức tượng trưng mang tính cách rất phổ  quát, thí dụ 
như trường hợp các vị giáo sĩ  (druide /  druid) trong các bộ tộc bán khai  (của Âu  Châu vào thời cổ đại) đi quanh các gốc cây hay các con suối.
Theo dòng lịch sử các nghi thức lễ bái ngày càng trở nên phức tạp 
hơn, và các  nghi thức đó thì được dựa vào các thói tục sẵn có của người
Ấn khi hầu tiếp một  vị thượng khách. Lời mời được chuyển đến vị thượng
khách nhằm tỏ bày niềm hân  hoan của mình nếu được người này viếng 
thăm, sau đó là cách hầu tiếp người này,  việc tặng quà hoặc thông 
thường hơn thì mời một bữa cơm, sau hết là đưa tiễn  người này với tất 
cả sự tôn kính tương xứng với cấp bậc của người ấy. Cũng thế  thay vì 
tiếp rước một nhân vật nào đó thì chúng ta mở rộng tâm hồn mình để đón  
nhận Đức Phật – xem Đức Phật như một vị khách quý. Chúng ta lập bàn thờ,
đặt lên  một bát nước ướp hoa thơm và một ít lễ vật. Sau đó thì chúng 
ta cũng có thể  xướng lên những lời tán tụng Đức Phật. Đấy là cách tạo 
ra một bầu không gian mở  rộng và mang lại những phút giây biểu dương 
cho một sự sinh động nào đó.
Thật hết sức đáng tiếc là chúng ta thường quên rằng lễ lạc và các 
nghi thức lễ  bái cũng có thể giúp giải thoát được tâm thức mình, mà 
nghĩ rằng chỉ có phép  thiền định và sự học hỏi  (Đạo Pháp)
mới  có thể thực hiện được việc ấy. Dù sao thì nếu chỉ biết thực thi 
nghi lễ như một  thói quen mà không ý thức được ý nghĩa là gì thì cũng 
chỉ hoài công mà thôi. Khi  nào hội nhập được với nghi lễ và hiểu được 
đấy là gì thì khi đó nghi lễ mới có  thể trở thành một sự trợ lực lớn 
lao được.
Mỗi khi đứng ra thuyết giảng thì không mấy khi tôi quan tâm đến việc thực thi  các nghi thức lễ bái đúng theo truyền thống (tức
các  nghi thức tụng niệm trước khi thuyết giảng, và cũng xin mạn phép 
ghi chú thêm là  tác giả tu tập theo Phật Giáo Tây Tạng và rất tích cực 
trong việc hoằng Pháp, và  ông cũng là chủ tịch và sáng lập viên của một
hiệp hội Phật Giáo) mà  chỉ nhất thiết chú trọng và đề cập 
đến việc thực hành thiền định. Đấy là cách  đơn giản ngồi xuống và không
cần đến một hình thức màu mè nào khác. Không để cho  bất cứ một thứ gì 
trở nên dư thừa. Chỉ cần hội nhập trực tiếp với cái thể dạng  trần trụi 
nhất nơi con người của chính mình – và cả với những gì đang kềm kẹp nó  
và giam hãm nó. Có nghĩa là chỉ cần đón nhận cái đẹp hiển hiện ra trong 
hiện tại.
Thế nhưng ngoài những lúc phải giảng dạy ra thì lúc nào tôi cũng để 
cho các nghi  thức lễ bái chi phối nếp sống của tôi qua từng hành động 
của tôi. Thiết nghĩ đôi  khi chúng ta cũng nên thực thi lễ bái, thế 
nhưng phải luôn chú tâm làm phát lộ  được ý nghĩa của nó và để sống với 
nó một cách hoàn toàn ý thức.
Tại sao nên lập bàn thờ Phật ?
Một trong các lý do chính yếu khiến chúng ta không thích việc lễ bái 
và không lập bàn thờ Phật là ý nghĩ cho rằng vật chất không liên hệ gì 
với tâm  linh.
Phật Giáo không hề chủ trương phân biệt giữa vật chất và tinh thần,  
giữa thân xác và tâm thức mà chỉ khuyên chúng ta phải loại bỏ mọi sự bám
víu và  các thứ gò bó khác, và luôn phải mở rộng con tim của mình. Nào 
có gì khác lại có  thể tỏ ra thiết thực hơn thế được ! Tuy nhiên điều ấy
chỉ có thể thực hiện qua  những kinh nghiệm cảm nhận trong cuộc sống 
thường nhật mà thôi    (có nghĩa là cần đến sự chi phối của các nghi thức lễ  bái trong cuộc sống của mình).
Tất cả chúng ta đều cất giữ trong nhà một vài tấm ảnh của cha mẹ hay 
con cái mình, một vài cái lọ con con kỷ niệm các chuyến du lịch trước 
đây của  mình. Thật thế tâm trí chúng ta nào có đủ sức để ghi nhớ hết 
được hình ảnh của  những người thân yêu và các kỷ niệm của những chuyến 
du ngoạn trước đây. Phải  chăng vì thế mà chúng ta thường hay trang trí 
nhà cửa với các vật gợi lại cho  mình các kỷ niệm xưa ?
Các vật ấy giữ một vai trò rất lớn trong cuộc sống của mỗi người  
trong chúng ta. Lắm khi chúng ta đã phải dồn hết tâm trí mình vào việc 
chọn lựa  các vật thân thiết nhất với mình.
Thế thì tại sao chúng ta lại không biết ghép thêm vào cuộc sống của  
mình một chút gì đó mang tính cách thiêng liêng hơn như thế ? Chẳng hạn 
như một  vài vật có thể nhắc nhở chúng ta tưởng nhớ đến Đức Phật ?    (tác giả muốn ám chỉ nên lập một bàn thờ Phật hay bày  một pho tượng Phật trong nhà).
Cúng dường cũng là một cách để bày tỏ sự quý mến của mình đối với  
Đấng Giác Ngộ, nói lên mối quan tâm của mình luôn phải nhớ đến Đức Phật.
Tuy nhiên vẫn có thể xảy ra một mối hiểm nguy nào đó mà Phật Giáo  
không phải là đương nhiên có thể tránh khỏi được : đấy là cách làm biến 
dạng cái  khía cạnh thi vị trên đây khiến nó trở  thành một mớ quy tắc 
cứng nhắc, và nếu lỡ mà vi phạm vào đấy thì phải gánh chịu  những điều 
« bất hạnh ». Đấy chỉ là một thứ đạo đức dựa vào các tiêu chuẩn mang  
tính cách bổn phận và mê tín. Cúng dường Đức Phật không phải là cách 
giúp mình  tránh khỏi những gì bất hạnh, hay là để chứng tỏ mình là một 
Phật Tử gương mẫu,  mà đúng hơn đấy là hành động giúp mình mở rộng con 
tim và tâm thức của chính  mình.
Chẳng hạn như khi ta tặng một món quà cho một người bạn thì đấy cũng 
có nghĩa là lòng thiện cảm của mình đối với bạn phải quan trọng hơn là 
giá trị  của món quà. Chúng ta tìm thấy một sự vui thích nào đó qua cử 
chỉ hiến dâng.  Cũng thế, hành động cúng dường mang nhiều ý nghĩa nội 
tâm hơn là giá trị của vật  hiến dâng – cái ý nghĩa nội tâm ấy biểu 
trưng cho lòng biết ơn, sự tự tin và  lòng kính mến của mình.
Tai sao chúng ta nên cúng dường các ảnh tượng biểu thị Đức Phật ?
Câu trả lời thật hết sức đơn giản, đấy là vì chúng ta thường hay  
quên bẵng đi sự hiện diện của Đức Phật, của tình thương yêu và sự trìu 
mến.  Chính vì thế mà chúng ta cần phải phát lộ một hành động thiết thực
nào đó giúp  chúng ta hội nhập với cái bầu không gian rộng mở ấy.
Tuy nhiên sau đây là cách giải thích thông thường hơn. Nhiều học  
phái chủ trương nếu muốn đạt được Giác Ngộ thì một mặt phải khai mở tâm 
thức  mình  (trí tuệ) và con tim mình    (từ bi) và một mặt thì phải tạo ra các cảnh  huống thuận lợi  (đạo đức). Đấy là sự kết  hợp giữa trí tuệ và đạo đức. Thiền định và học hỏi  (Đạo  Pháp) giúp chúng ta đạt được khía cạnh thứ nhất   (trí tuệ). Hành động sẽ mang lại khía cạnh  thứ hai  (đạo đức).
Cử chỉ dâng lên Đức  Phật một cánh hoa dù chỉ mang tính cách tượng 
trưng đi nữa thế nhưng đấy chính  là cách tốt nhất để gợi lên sự hiện 
diện của Đức Phật.
Khía cạnh thứ nhất  (trí tuệ) mang tính cách tối thượng, khía cạnh thứ hai  (đạo  đức) mang tính cách tương đối. Phật Giáo chủ trương hai khía cạnh ấy  luôn phải đi đôi với nhau.
Tất cả các nghi lễ đó có phải là những hình thức tôn thờ hình tượng hay không ?
Các tôn giáo dựa vào Kinh Thánh đánh giá Phật Giáo như là một tôn  giáo tôn thờ hình tượng.
Thế nhưng tôn thờ hình tượng là gì ? Đấy là cách làm cho sự tuyệt  
đối ngưng đọng lại trong các hình tượng giúp chúng ta chế ngự được nó và
tiếp  cận được nó, và đồng thời cảm nhận được một tình thương yêu buộc 
mình vào các  hình tượng ấy. Đối với các tôn giáo dựa vào Kinh Thánh thì
đấy là cách giúp đạt  được sự hiện thực của Trời vượt lên trên tất cả 
các hình thức biểu thị của con  người.
Tuy nhiên Phật giáo cũng nhất thiết đối nghịch lại một cách triệt để 
đối với bất cứ một hình thức tôn thờ hình tượng nào. Thật thế, cũng 
giống như  các tôn giáo khác dựa vào Kinh Thánh, Phật Giáo cũng bác bỏ 
cách làm cho sự  tuyệt đối phải bị khô cứng, thế nhưng Phật Giáo lại sử 
dụng một phương cách khác  hơn. Chẳng những Phật Giáo bác bỏ bất cứ một 
hình thức xác  định nào về một sự  tuyệt đối bất động sau khi đã thu nhỏ
để biến nó trở thành những hình tượng biểu  thị, mà hơn nữa Phật Giáo 
còn xem đấy là những gì sai lầm và ảo giác. Đối với  Phật Giáo, khái 
niệm về một vị Trời mang hình tướng con người là một cách thu  hẹp sự 
tuyệt đối, một hình thức tôn thờ hình tượng. Và dù cho Phật Giáo có chủ 
trương tôn vinh  hình tượng đi nữa, thì Phật Giáo cũng ý thức được rằng
đấy chỉ  là cách giúp tiếp nhận được một cách cụ thể kinh nghiệm cảm 
nhận của chính mình  đối với Đức Phật, tức là những gì không thể mô tả 
được bằng ngôn từ.
Chủ trương một tín ngưỡng Phật Giáo tinh khiết, hoàn toàn duy lý và  
phi-lễ-bái chỉ là một chuyện giả tưởng của thế giới Tây Phương. Nếu nghĩ
rằng  cần phải thanh lọc để loại bỏ ra khỏi cuộc đời của Đức Phật tất 
cả những gì mang  tính cách huyền thoại để viết lại một tiểu sử duy lý 
hơn, thì đấy sẽ là cách  loại bỏ ra khỏi Phật Giáo tính cách phức tạp 
của các kinh sách giáo lý, và đấy  cũng chính là cách không nhìn thấy 
được tầm quan trọng của các nghi thức lễ bái  trong việc tu tập. Đấy là 
cách làm khô cạn dòng máu của Phật Giáo.
Tại sao lễ bái lại rất giống với thi phú ?
Tại Trung Quốc dưới thời nhà Đường  (518-907),
người ta thấy phát sinh một khuynh hướng xem cảm hứng  trong thi phú và
trực giác phát sinh từ kinh nghiệm cảm nhận của một người hành  thiền 
rất gần với nhau. Thi hào Li Tche-yi trong một bức thư viết cho bạn có 
một  câu như sau : « Không có sự khác biệt nào giữa con đường của Đức 
Phật và thi phú ;  sự giác ngộ nơi đầu ngọn bút lông cũng chẳng khác gì 
với sự Giác Ngộ của Đức  Phật ».
Bước sang thời đại nhà Tống  (960-1279),  chủ trương nêu cao tầm quan trọng của mối  tương quan trên đây    (giữa thi phú và những cảm nhận khi hành thiền)
đã đạt được một cấp bậc thật cao, và chủ trương này cũng đã được truyền
sang  Nhật Bản vào thế kỷ XII. Thiền học Zen dựa vào một số phương pháp
thật uyên bác  đã nâng những gì mà chúng ta gọi là « thi phú » lên một 
vị thế thật quan trọng.  Theo chủ trương đó thi phú không những chỉ 
là một sự «thực hiện » hay một sự « sáng  tạo » mà còn là con đường giúp
bước vào sự tĩnh lặng. Hầu hết các hành động của  con người đều có thể 
hướng vào con đường mang lại sự hoàn thiện, hay là một phép  tu tập giúp
cho tâm thức bừng tỉnh dậy trong ta nhằm giúp nó trực thoại với  chính 
nó, tương tự như vô-hình cất lên tiếng hát với vô-hình.
Thiền học Zen sáng tạo ra một con đường, hay đúng hơn là một thứ  
nghi lễ nhằm hướng dẫn hầu hết các hành động của con người : chẳng hạn 
như cắm  một cành hoa vào bình hay rót một tách trà. Thật thế, trà đạo 
là một phương tiện  đơn giản thế nhưng đã nêu lên được thế nào là đạo 
đức Phật Giáo. Sự chú tâm vào  cách sử dụng các dụng cụ (pha trà)
và vào  từng cử chỉ sẽ làm phát lộ được mối tương quan với toàn thế 
giới, và đồng thời  thì toàn thể thế giới cũng tiếp tay để ca ngợi sự 
tương quan ấy  (ý thức được sự tương quan với toàn thể thế giới là một  phương tiện giúp phát lộ lòng từ bi).
Người hầu trà chú tâm vào việc pha trà thế nhưng cùng lúc cũng hoà  
đồng nhịp thở và các động tác của mình với nhịp thở và động tác của các 
vị khách  đang ngồi trước mặt. Nguời hầu trà dùng một chiếc khăn lụa để 
lau chiếc lọ sứ  đựng trà và cái thìa múc trà bằng tre. Chính xác trong 
từng cử động một. Sau đó  thì dùng một cái gáo nhỏ bằng tre để múc nước 
sôi trong ấm và rót vào một cái  bát. Nước trong bát được dùng để rửa 
một túm chổi tre và sau khi rửa xong thì  túm chổi tre cũng được kiểm 
tra lại cẩn thận. Nước trong bát được đổ đi và bát  thì được lau sạch 
bằng một chiếc khăn ẩm bằng chỉ gai.
Tiếng nước sủi tăm trong ấm reo lên khe khẽ. Người hầu trà cho bột  trà vào bát  (trà đạo sử dụng trà đã xay nhuyễn thành  bột),
rót nước nóng vào, dùng túm chổi tre để khuấy cho tan đều, sau  đó lại 
thêm vào một ít nước nữa, lại tiếp tục khuấy đều và sau khi khuấy xong  
thì mời người khách thứ nhất.
Thoạt nhìn thì nghi lễ ấy có vẻ thật đơn giản và tự nhiên, thế nhưng 
thật ra thì lại vô cùng tinh tế và phải mất nhiều năm để học hỏi và 
thực tập.  Mỗi giai đoạn của phép trà đạo đều được quy định một cách 
thật tỉ mỉ : bắt đầu  là việc chuẩn bị và mời khách, tiếp theo thì người
hầu trà pha trà với các động  tác thật chính xác, sau cùng là các vị 
khách lần lượt thay nhau thưởng thức.  Không để cho bất cứ một sơ hở nhỏ
nhoi nào có thể xảy ra một cách bất ngờ. Sự  chuyển động của toàn thân 
và cả các cử động của từng ngón tay tất cả đều nhịp  nhàng như một vũ 
điệu! Đồng thời tỏa ra một bầu không khí làm hiển lộ một sự tự  nhiên 
thật nghiêm khắc và trang trọng.
Cái bầu không khí đó sẽ khiến cho người khách thưởng thức trà có cảm 
tưởng là mình đang trải qua một khoảnh khắc nào đó vượt ra khỏi mọi 
kích thước  của thời gian, hay nói đúng hơn thì đấy cũng là một cách hội
nhập với cái thời  gian thật tinh khiết mà nơi đó những gì sâu xa nhất 
của sự sống đang ngự trị.  Thật thế nghi thức trà đạo giúp mình hòa nhập
với người khác và với cả thiên  nhiên.
Đấy cũng là nơi ngự trị của những gì quan trọng và mầu nhiệm nhất  
của lòng từ bi Phật Giáo. Cái lòng từ bi đó ẩn nấp phía sau những động 
tác thật  kín đáo, đấy là sự quan tâm đến từng chi tiết thật nhỏ bé nhằm
tạo ra một bối  cảnh thuận lợi giúp biến cải con tim mình ăn nhịp với 
từng động tác. Và đấy cũng  chính là ý nghĩa đích thật của các nghi thức
lễ bái.
Chúng ta có nên bày ra thêm các nghi thức mới hay không ?
Các nghi thức lễ bái dù là do các vị thầy Tây Tạng hay các vị thiền  
sư Zen thực thi thì cũng đều là các nghi thức lễ bái đích thật của Phật 
Giáo,  thế nhưng đồng thời thì các nghi thức ấy cũng chịu ảnh hưởng nặng
nề từ các nền  văn hóa và các thần linh địa phương. Tuy rằng các thói 
tục lễ bái ấy là những gì  hoàn toàn xa lạ đối với người Tây Phương thế 
nhưng họ vẫn cứ mang ra để thực thi.  Tất nhiên là việc thực thi ấy 
không mang lại nhiều lợi ích cho họ, lý do cũng dễ  hiểu vì đấy không 
phải là những gì đã từng ăn sâu vào ngôn ngữ, phong cách cũng  như lịch 
sử của họ  (người dịch cũng xin mạn 
phép góp  thêm một chút thiển ý. Quả đúng là người Phật Giáo Tây Phương 
tùy theo học phái  của mình có thể tụng niệm bằng tiếng Nhật, tiếng Tây 
Tạng, tiếng Pa-li... và ăn  mặc theo các nhà sư Nhật Bản, Tây Tạng hay 
Theravada... Tuy rằng các nghi thức  ấy dù không phản ảnh ngôn ngữ, 
phong cách và lịch sử của họ, thế nhưng  cũng  giúp họ hội nhập được với
nguồn gốc và lịch sử nói chung của Phật Giáo. Xin đơn  cử một bằng 
chứng khá cụ thể là trước đây hội Thiền Học Zen của Pháp dịch bài  Tâm 
Kinh ra tiếng Pháp để trì tụng, thế  nhưng sau đó không lâu thì lại 
quyết  định quay lại tụng niệm bài kinh này bằng tiếng Nhật, bởi vì cách
trì tụng bằng  tiếng Pháp hình như không mang lại hiệu quả như mong 
muốn).
Theo tôi thì phải bày ra các nghi lễ khác hơn, ăn sâu hơn vào nền  
văn hóa sẵn có của người Tây Phương và phù hợp hơn với bối cảnh sinh 
sống của họ  (ý kiến nay cũng khá đúng
vì các vị tu hành theo  thiền học Zen, Phật Giáo Tây Tạng, Tích Lan, 
Trung Quốc... tụng niệm bằng các  ngôn ngữ khác nhau, cách ăn mặc và các
nghi thức lễ bái cũng có phần khác nhau,  thế nhưng cũng có nhiều nét 
rất gần nhau. Do đó nếu người Tây phương thật sự  muốn tìm cho mình các 
nghi thức lễ bái phù hợp với văn hóa và lịch sử của mình  thì nhất thiết
là một việc nên làm, thế nhưng cũng không phải là một việc dễ.  Người 
ta thường thấy tác giả Fabrice Midal mặc áo sơ-mi và áo vét màu đen, đeo
cà-vạt hình lá cờ Phật Giáo, trên ngực áo thì cái một cái trâm hình 
chiếc lá bồ-đề,  đầu thì cạo nhẵn thín. Có phải chăng đấy là cách mà ông
muốn nêu lên hình ảnh  tiêu biểu của một nhà sư Tây Phương ? – ghi chú 
thêm của người dịch).  Cũng xin mạn phép được nhắc lại rằng 
chủ đích sâu xa của nghi lễ là giúp tạo ra  một sự hòa nhập giữa thân 
xác, các kinh nghiệm cảm nhận cũng như các xúc cảm của  mình với sự hiện
diện của Đức Phật, nhằm giúp mình vượt lên trên các mối tương  quan 
mang tính cách hoàn toàn « trí óc » đối với thế giới này. Tóm lại là quả
thật hết sức khó cho chúng ta  (tức người Tây Phương) phải học theo các nghi thức lễ bái thực thi ở Trung Quốc hay Campuchea từ những  thời đại xa xưa.
Tất nhiên không phải là quá khó cho người Tây Phương học hỏi và thực 
hành các nghi thức trà đạo hay các nghi lễ thụ giới tan-tra của người 
Tây Tạng.  Tất cả các nghi thức ấy đều thật hết sức tuyệt vời, tuy nhiên
chỉ có một số ít  người Tây Phương có thể theo kịp. Chính vì thế sẽ rất
khó để có thể giúp cho  Phật Giáo trở nên sinh động và khởi sắc trong 
lòng mọi người ở khắp nơi.
Phải chăng đã có nhiều buổi lễ long trọng từng đưọc tổ chức 
nhằm đánh dấu các  biến cố trọng đại trong cuộc đời của mỗi người hay 
chăng ?
Dân tộc nào cũng có những nghi thức lễ lạc cầu kỳ mang ít nhiều ý  
nghĩa liên quan đến cuộc sống. Các nghi thức lễ lạc ấy là nhằm đánh dấu 
các biến  cố trọng đại trong mỗi kiếp người : chẳng hạn như lúc sinh, sự
chuyển tiếp từ  giai đoạn trẻ thơ sang tuổi thiếu thời  (người
Do  Thái tổ chức các nghi lễ để đánh dấu sự chuyển tiếp hay « trưởng 
thành » này,  tức là lúc đứa trẻ được 13 tuổi đối với con trai và 12 
tuổi đối với con gái),  ngày thành hôn hay khi chết.
Chúng ta sẽ không sống một cách thật sự nếu như các biến cố xảy ra  
trong cuộc đời mình chẳng còn mang một ý nghĩa nào nữa. Có rất nhiều 
người lúc  bình thường thì thờ ơ với tôn giáo thế nhưng vẫn quay về với 
tôn giáo mỗi khi  xảy ra các biến cố trọng đại trong đời mình. Kể cả đối
với những người vô thần  cực đoan nhất thì đôi khi người ta vẫn thấy họ
tổ chức hôn lễ tại nhà thờ hoặc  xin làm thánh lễ vào các dịp ma chay  (tác
giả nói  đến những gì xảy ra trong các xã hội Tây Phương, thế nhưng 
thực trạng đó thật  phổ quát và có thể xảy ra trong bất cứ một xã hội 
nào hay một quốc gia nào).
Chúng ta luôn cần đến các hành động, các ngôn từ và cử chỉ giúp  
chúng ta hòa nhập với một mớ biểu tượng hầu giúp chúng ta tìm thấy một 
sự trợ  lực nào đó. Phật Giáo luôn khuyên chúng ta nên chọn cho mình 
những biểu tượng  nào thích nghi nhất trong từng cảnh huống. Chính vì 
thế nên lúc nào tôi cũng sẵn  sàng và luôn tìm thấy một niềm hân hoan 
khi đứng ra làm chủ lễ các cuộc hôn phối  và tôi luôn xem đấy như là một
dịp để làm hiển lộ những gì đích thật trong tình  yêu thương.
Ngày nay người ta thường xem cái chết như là một biến cố mang tính  
cách hung bạo, một sự thất bại trong cuộc sống. Thế nhưng các nghi lễ 
đánh dấu  sự xa lìa giữa chúng ta và người quá vãng hình như không còn 
giữ được như trước  nữa. Nhiều nhà xã hội học và tâm lý học rất quan tâm
đến các vấn đề khó khăn  sinh ra từ sự thờ ơ đó. Việc loại bỏ các nghi 
lễ là một cách chối bỏ tầm quan  trọng của sự xa lìa do cái chết gây ra 
và cả nhu cầu ước mong tìm thấy cho mình  một sự an ủi tâm linh luôn 
hiện hữu trong lòng mỗi con người. Phật Giáo là một  tín ngưỡng có thể 
giúp chúng ta giải quyết được những khó khăn này.
Phật Giáo là một tín ngưỡng phi giáo điều do đó có thể giúp cho  
nhiều quốc gia khác nhau sáng tạo ra thêm các nghi thức lễ bái mới.
Phật Giáo đồng thời cũng mang các khía cạnh phi-tôn-giáo và do đó có 
thể giúp chúng ta nhìn thấy được những gì thiết thực dễ dàng hơn : đấy 
là cách  gợi lên các động tác và biểu tượng  (tức có nghĩa các  nghi thức lễ bái)
nói lên được một cách cụ thể ý nghĩa của thực tại  và niềm hân hoan 
trong sự hiện hữu của mình vào những giây phút hiện tại đang  xảy ra.
Phật giáo cũng nhất thiết chủ trương vô thần, và chính vì thế mà mỗi 
khoảnh khắc cũng sẽ đúng thật là như thế, không cần phải ghép thêm cho 
nó một ý  nghĩa ngoại lai nào khác  (hiện thực là như thế không  cần đến bàn tay của một đấng Tối Cao nào cả). Nghi thức lễ bái chỉ  nhằm làm hiển lộ sự thật trong từng bối cảnh khác nhau.
Vài lời ghi chú của người dịch
Phật Giáo Đại thừa đưa ra nhiều nghi thức lễ bái đôi khi khá cầu kỳ  
và Phật Giáo Nguyên Thủy cũng có nhiều nghi lễ dù bề ngoài có vẻ đơn 
giản thế  nhưng thực ra cũng không kém phần trang trọng và nghiêm túc. 
Trong khi đó thì  một số người Phật Giáo Tây Phương lại có khuynh hướng 
muốn biến Phật Giáo trở  thành một « tín ngưỡng » hoàn toàn khoa học, 
thực dụng và duy lý. Đại diện cho  khuynh hướng này là một vị thiền sư 
và học giả Phật Giáo lỗi lạc là Stephan  Batchelor, và khuynh hướng này 
của ông cũng hiện đang gây ra nhiều tranh cãi tại  Tây Phương.
Sở dĩ nêu lên sự kiện trên đây là vì một vài học giả Phương Tây  
thường hay ghép chung một cách sai lầm khuynh hướng trên đây của Stephan
Batchelor với chủ trương tu tập của một vị đại sư và tư tưởng gia Phật
Giáo  thuộc tầm cỡ lớn của Thái Lan là Buddhadasa Bhikkhu (1906-1993). 
Stephan  Batchelor chủ trương biến cải Phật Giáo để thích nghi với  
khuynh hướng duy lý  trong các xã hội Phương Tây, trong khi đó thì 
Buddhadasa Bhikkhu một mặt vẫn tôn  trọng phần giáo lý tinh khiết của 
Phật Giáo và một mặt thì chỉ nêu lên và triển  khai những khía cạnh nào 
thật thiết thực giúp người tu tập hướng thẳng vào giác  ngộ. Chủ trương 
này có thể nhận thấy khá rõ nét qua một tác phẩm rất nổi tiếng  của ông 
mang tựa đề là « Quyển Sách cho Nhân Loại ».
Dù sao thì các nghi thức lễ bái hiểu theo nghĩa rộng, cũng thật hết  
sức cần thiết cho bất cứ một tín ngưỡng nào, đấy là nguồn sinh lực của 
tôn giáo  nói chung. Đối với trường hợp của Phật Giáo thì dù đấy là Đại 
Thừa hay Nguyên  Thủy thì cũng đều có những nghi thức lễ lạc mang các ý 
nghĩa thật gần nhau. Thật  vậy, nếu một người Phật Tử Đại Thừa viếng 
thăm một nước Phật Giáo Nguyên Thủy  chẳng hạn như Miến Điện, Thái Lan 
hay Tích Lan thì cũng rất có thể là sẽ không  cảm thấy một chút xa lạ 
nào cả.
Riêng tại Việt Nam thì lại thường xảy ra một sự « pha lẫn » thật lạ  
lùng và đầy thú vị, rất nhiều Phật Tử Đại Thừa đến chiêm bái các ngôi 
chùa  Nguyên Thủy, họ thắp hương và lễ bái cũng chẳng khác gì như khi họ
đến với một  ngôi chùa Đại Thừa, và nguợc lại thì các Phật tử Nguyên 
Thủy cũng thường xuyên  tham gia vào các dịp lễ lạc của Đại Thừa.
Nếu người Phật tử Nguyên Thủy chú tâm vào việc thực thi các nghi  
thức lễ bái thật tinh khiết giúp mang lại cho mình một nội tâm trong 
suốt thì  người Phật tử Đại Thừa lại chăm lo và quan tâm đến từng chi 
tiết thật nhỏ phản  ảnh qua từng động tác và ngôn từ của mình nhằm giúp 
cho các xúc cảm từ bi và một  sức mạnh nội tâm thật phi thường trỗi dậy 
và tràn ngập con tim của mình.
Thiết nghĩ cũng nên nêu lên một vài nhận xét về thiền học Zen mà trên
đây tác  giả cũng đã trình bày một vài nét về ý nghĩa của trà đạo. Thật
thế, thiền học  Zen dù bề ngoài chủ trương sự đơn sơ và tinh khiết thế 
nhưng thật ra thì đã sáng  tạo ra vô số những quy tắc và nghi thức lễ 
bái thật chính xác, quy củ và vô cùng  tinh tế.
Thí dụ sau đây nêu lên sự diễn tiến của một buổi hành thiền cũng sẽ 
có thể nói  lên được sự tinh tế đó. Trườc khi bước vào thiền đường thì 
người hành thiền phải  cởi dép và xếp thật ngay ngắn và thứ tự nơi bậc 
thềm ở cửa thiền đường, mũi của  đôi dép hướng ra phía ngoài. Khi ôm tọa
cụ để bước vào bên trong thì phải bước  bằng chân trái, và ngay sau đó 
thì hướng nhìn lên bàn thờ Phật và vái lạy trước  khi tìm một chỗ để 
ngồi xuống. Khi đã bước vào bên trong thì phải giữ yên lặng  và không 
còn được phép nói một lời nào nữa. Không được đi tréo ngang phòng thiền,
hoặc đi ngang trước bàn thờ Phật mà phải giữ hướng đi thẳng, nếu muốn 
đổi hướng  thì phải xoay mình theo một góc 90 độ và lại tiếp tục đi 
thẳng, nếu cần thì lại  đổi hướng cho đến khi nào tìm được chỗ ngồi. Đến
nơi ngồi thì đặt tọa cụ xuống,  chiếc quai bằng vải của tọa cụ phải 
hướng ra phía trước. Trước khi ngồi thì xoay  người và hướng vào bàn thờ
Phật vái lạy, sau đó thì vái lạy chỗ mình sắp ngồi và  vén áo cà-sa 
thật gọn và ngồi lên tọa cụ. Phải chú ý so thật thẳng với các người  
ngồi cùng một hàng với mình, và giữ một khoảng cách đối với bức tường 
trước mặt  đúng như những người khác. Nếu phải ngồi vào hàng thứ hai thì
không được ngồi  sau lưng người ngồi ở hàng phía trước mà phải ngồi 
đúng vào khoảng cách giữa hai  người trước mặt...
Trong khi hành thiền thì nơi bốn góc thiền đường có bốn vị thiền sư 
ngồi đối mặt  với các người hành thiền để « canh chừng », tay thì cầm 
một cái chuông nhỏ. Nếu  có vị nào tâm không yên hoặc bị xao lãng thì 
thể dạng dao động ấy sẽ phản ảnh  ngay trên tư thế ngồi, chẳng hạn như 
ngồi không yên, thường xuyên sửa tư thế,  lưng không được thẳng hoặc hai
vai bỗng nhiên xệ xuống,.., và các dấu hiệu đó  không sao tránh khỏi sự
quan sát của vị thiền sư phụ trách việc canh chừng, và  vị này liền 
đánh một tiếng chuông thật khẽ để cảnh giác và để kéo người hành  thiền 
trở về với thể dạng chú tâm. Vị thiền sư chủ trì thì ngồi trên một cái 
bục  thấp, hướng vào bàn thờ Phật trong tư thế nhập định. Vị này thỉnh 
thoảng cũng có  thể cất lời để nêu lên một công án hay giảng một vài câu
kinh ngắn với một giọng  nói thật thấp, chậm rãi và thật êm ả.
Tóm lại nếu người hành thiền không nắm vững được ý nghĩa của các nghi
thức trên  đây thì rất có thể sẽ nghĩ rằng đấy là những quy tắc quá đỗi
nghiêm túc, khắt  khe và câu nệ. Thế nhưng khi đã ý thức được chủ đích 
sâu xa của các nghi thức ấy  thì người hành thiền cũng sẽ hiểu rằng sự 
trang trọng và nghiêm túc đó lại chính  là một phương tiện giúp mình 
quên đi cái ngã của chính mình và để hòa nhập với  cái bầu không gian 
vắng lặng, trang nghiêm và ấm áp đang tỏa rộng chung quanh,  một bầu 
không gian thật sâu xa và tinh khiết, vượt ra khỏi không gian và thời  
gian, cắt đứt các mối dây trói buộc mình với thế giới trần tục.
Sau khoảng một giờ (hay một tuần nhang) thì buổi hành thiền tạm thời 
dừng lại, mọi người đứng lên nối đuôi nhau hành thiền.Việc hành 
thiền cũng được  quy định bởi nhiều quy tắc thật nghiêm nhặt không kém 
gì so với những điều quy  định cho tư thế ngồi.
Sau khi phần hành thiền chấm dứt thì mỗi người lại lần lượt quay về  
vị trí của mình để tiếp tục thiền định và lần này thì cũng kéo dài 
khoảng một  giờ. Buổi hành thiền chấm dứt bằng ba tiếng chuông của vị sư
chủ trì, và tiếp  theo đó là chín hồi trống thật mạnh kéo người hành 
thiền trở về với hiện thực  chung quanh. Mọi người xoay lưng lại, hướng 
vào nhau và đọc kinh theo nhịp mõ.  Sau đó thì tất cả đứng lên hướng vào
nhau vái lại và quỳ mọp xuống để lạy nhau  ba lần. Sau cùng thì mỗi 
người ôm tọa cụ của mình nối đuôi nhau chậm rãi bước ra  khỏi thiền 
đường. Khi gần đến cửa thì xoay người lại hướng vào bàn thờ Phật để  vái
lạy một lần chót. Trước khi bước ra thì lại có một vị thiền sư đứng sẵn
bên  cạnh cửa, tay cầm một cái chuông nhỏ vừa đánh nhẹ một tiếng vừa 
vái lạy mình và  mình cũng phải vái lạy lại để trả lễ. Khi bước ra khỏi 
cửa thì phải bước bằng  chân phải...
Trên đây là tóm luợc diễn tiến tiêu biểu của một buổi hành thiền  
theo học phái Zen, một vài chi tiết có thể thay đổi tùy theo các chi 
phái hay  các vị chủ trì. Tóm lại chỉ cần nhìn vào khía cạnh « duy lý » 
và « thực dụng »  của các nghi thức trên đây thì chúng ta cũng có thể 
nhận thấy được đấy là một  cách biểu dương sức sống của một tín nguỡng, 
sức mạnh của lòng quyết tâm nơi mỗi  cá thể, và tất cả đều liên hệ mật 
thiết đến sự tồn vong của một tôn giáo. Thật  thế nếu một tôn giáo không
còn đủ sức bảo tồn và duy trì các nghi thức lễ bái  của mình thì cũng 
sẽ mai một mà thôi. Nếu ý thức được một cách sâu xa hơn như  thế thì 
cũng có thể hiểu được các nghi thức lễ bái chính là một trong các 
« phương  tiện thiện xảo » (upaya) giúp chúng ta bước theo Con 
Đường một cách vững  chắc hơn. Nói cách khác thì đấy là hiện thân của 
giáo lý hoặc cũng có thể khẳng  định đấy chính là hóa thân (nirmanakaya) của Đấng Như Lai.
Bures-Sur-Yvette, 10.03.12
Hoang Phong chuyển ngữ