Với những phương tiện trong nghi lễ Phật giáo, cái
đẹp chân thiện được biểu hiện để đem Tịnh độ vào thế gian, đem Niết bàn
vào thực tại. Và người Phật tử tham dự trong các đạo tràng thanh tịnh đó
có thể trải nghiệm được một phần nào tính chất thanh tịnh của Niết bàn,
cảm nhận được giá trị của hạnh phúc chân thật, để có thể sống một đời
sống thanh tịnh, an vui, lợi mình, lợi người.
Nói về y phục Phật giáo, ở Việt Nam, ngoài chiếc áo
cà sa sẽ trình bày ở phần sau, hình ảnh những chiếc áo màu nâu, màu vàng
hoại sắc, những chiếc áo màu lam dịu gợi lên trong chúng ta hình ảnh
một đời sống đơn giản, khiêm cung, hòa ái, an lạc và thanh thoát. Những
màu sắc đó cũng rất gần gũi với chúng ta. Đó là màu của đất, của khói
hương, của lá, cây, củ, rễ, những thứ rất gần với đời sống của người
Việt trong mấy ngàn năm. Và đặc biệt trong thế giới chạy đua với thời
gian ngày nay, những màu sắc đó nhắc chúng ta rằng, vẫn còn có những nơi
chốn mà thời gian không chạm đến, sự mâu thuẫn và tranh đua không len
vào, nơi mà đất trời có thể được cảm nhận thật gần, hiện diện ngay trong
đời sống này, là những chỗ chúng ta có thể dừng lại, trong chốc lát hay
dài lâu, để tìm thấy sự nghỉ ngơi và tìm lại chính mình.
Do đó, hình thức không phải là cái gì dư thừa trong
Phật giáo, nhất là Phật giáo Đại thừa, một tông phái Phật giáo không
tách rời với đời sống xã hội.
Thế giới của các kinh điển Đại thừa, cũng như nghệ
thuật Phật giáo, từ tranh tượng cho đến các lễ nghi, là một thế giới đầy
màu sắc và âm thanh. Đời sống của chúng ta gắn liền mật thiết với sắc
tướng và âm thanh. Với Phật giáo, dùng sắc tướng để mở cánh cửa vô
tướng, dùng âm thanh để mở cánh cửa vô thanh. Đó là con đường phát hiện
tánh thấy hay tánh nghe. Dừng lại trong tánh thấy hay tánh nghe đó là
nắm được nền tảng của đời sống, là đặt được chân vào ngưỡng cửa của giáo
pháp, là thấy tánh, là khởi sự cho niềm vui.
Tôn giáo, nhất là những tôn giáo có sự giao tiếp
nhiều với xã hội như Phật giáo, vì vậy có những nguyên tắc ứng xử có
tính cách xã hội qua những phương tiện sắc tướng, âm thanh. Trong lịch
sử truyền bá và phát triển, Phật giáo đã triển khai nguyên tắc khế lý
khế cơ để tạo nên một nền văn hóa Phật giáo phong phú. Và từ đó, nghệ
thuật Phật giáo, một nền nghệ thuật có thể nói là phong phú nhất trên
thế giới, phát sinh.
Trang phục Phật giáo nói riêng và nghệ thuật Phật
giáo nói chung có thể nói là những phương tiện để thể hiện đời sống giác
ngộ. Vì là phương tiện nên trong quá trình truyền bá và phát triển,
cũng giống như những phương tiện khác, y phục Phật giáo cũng tùy theo
thời đại, địa phương mà thay đổi.
Nhưng dù bao nhiêu thay đổi, có một cái không bao giờ
thay đổi. Đó là hình ảnh "đầu tròn áo vuông," cái mà dù đi đến đâu, ở
bất cứ phương trời nào, những người tu sĩ Phật giáo vẫn nhận ra nhau khi
gặp nhau. Áo vuông là chiếc áo cà sa đắp ngoài của các tu sĩ Phật giáo.
Theo kinh sách, chiếc y hay cà sa có lịch sử như sau:
Khi Đức Phật rời bỏ hoàng cung để tìm đạo, theo
truyền thống, Ngài đổi bộ đồ sang quý của Ngài để nhận lấy bộ đồ của
người khất sĩ. Theo kinh điển thì y phục của người khất sĩ thời bấy giờ
được may bằng những mảnh vải vụn bị vứt bỏ, có thể là do lửa cháy, bị
quào rách, hoặc là vải quấn thây người chết,… Những mảnh vải vụn đó được
may lại thành một tấm hình vuông hay chữ nhật đủ để quấn thân, rồi được
nhuộm bằng màu từ các loại thảo mộc, tạo nên một loại màu tạp, nhìn
không được sạch sẽ. Đó là chiếc áo mà Đức Phật đã mặc trải qua nhiều năm
tìm đạo trước khi Ngài chứng quả Phật.
Sau khi đức Phật thành đạo, tăng đoàn bắt đầu được
thành lập, dù Đức Phật không còn chủ trương khổ hạnh mà đi theo con
đường trung đạo, Ngài và các đệ tử của Ngài vẫn giữ lối ăn mặc của các
khất sĩ đương thời, không có quy cách riêng về y phục cho Tăng đoàn.
Điều này làm cho vua Tần Bà Sa La gặp khó khăn khi ông muốn cúng dường
các vị tu sĩ Phật giáo. Do đó, ông đã thỉnh cầu Phật cho tu sĩ Phật giáo
có được pháp phục riêng biệt. Lúc đó, Phật và ngài A Nan đang trên
đường du hành phương Nam để thuyết pháp, nhìn những thửa ruộng ngăn nắp
trên cánh đồng bên đường, Đức Phật bảo ngài A Nan theo hình ảnh đó làm
mẫu pháp phục cho chư Tăng, Ni. Vì vậy chúng ta thường gọi cà sa là áo
ruộng phước (phước điền). Ruộng phước ở đây không có ý chỉ sự giàu có
vật chất, nhiều lúa gạo, của cải. Phước ở đây là phước của đời sống đức
hạnh, khiêm cung, đạm bạc, giải thoát, phước cho những người biết tôn
kính những bậc có đời sống đức hạnh, khiêm cung, đạm bạc, giải thoát.
Và chúng ta có thể hình dung sau đó là bóng dáng
những đoàn người hay chỉ một người đơn độc, mình mặc cà sa, đầu cạo sạch
ung dung bước đi trên những con đường phố, những con đường làng, ngồi
tham thiền dưới những bóng cây của núi rừng, trong các hang động. Rồi
đến một lúc, khi nhìn thấy một đoàn người mặc cà sa, người ta liên tưởng
đến sự an nhiên vắng lặng của một người, nhìn thấy một người mặc cà sa,
người ta liên tưởng đến một tăng đoàn vắng lặng và trang nghiêm. Hình
ảnh một chiếc cà sa trở thành hình ảnh của tất cả cà sa, và tất cả cà sa
ở trong hình ảnh một chiếc áo cà sa. Và người ta cảm nhận về một bản
thể Tăng già. Màu cà sa giờ đây là màu của thanh tịnh và giải thoát, hòa
hợp và kết nối, màu của Thánh chúng, suối nguồn của hạnh phúc.
Cà sa là chiếc áo đạm bạc, màu sắc đạm bạc, nói lên
một đời sống khiêm tốn nhất, đơn sơ nhất. Và sự khiêm tốn, đơn sơ đến độ
"không còn dùi để cắm" đó cũng chính là một đời sống cao quý và giá trị
nhất.
Sau hơn 2.500 năm Phật giáo truyền bá trên khắp thế
giới, do bối cảnh văn hóa và địa dư khác biệt đã tạo ra những sự khác
biệt trong hình thức, nhưng như đã nói, hinh ảnh "đầu tròn áo vuông" là
một hình ảnh bất biến và bao trùm.
Và hình ảnh "đầu tròn áo vuông" trong một mức độ nào
đó còn nói lên tính chính thống của Tăng đoàn và giáo pháp. Hình ảnh đó
rất cần thiết trong những thời kỳ mà sự mạo danh và lạm dụng phổ biến
như ngày nay.
Hơn bất cứ một biểu tượng nào của Phật giáo, hình ảnh
chiếc cà sa được đặc biệt tán dương.
Theo truyền thống Trung Hoa, chiếc áo cà sa có mười
hai tên gọi. Mười hai tên gọi đó cũng nói lên mười hai tính chất của cà
sa và cũng là tính chất của người mặc cà sa. Đó là: 1. Cà sa: Áo có màu
chết, màu đạm bạc, nói lên đức khiêm cung, đơn giản. 2. Đạo phục: Áo của
người đi theo con đường chân chính, hợp lẽ. 3. Thế phục: Áo của người
cắt đứt mọi ràng buộc thế gian, từ bỏ tham luyến. 4. Pháp y: Áo Chánh
pháp, áo của người đi trên con đường chân chánh, hướng đến sự nghiệp
giải thoát chân thật. 5. Ly trần tục: Áo xa lánh những bụi bặm, phiền
não của thế gian, của người dấn bước trên con đường tịnh hóa thân tâm.
6. Tiêu sấu phục: Áo tiêu trừ phiền não, áo của người đi trên hành trình
diệt trừ phiền não cho mình và cho người. 7. Liên hoa phục: Áo chứa
đựng mọi tính chất của Phật giáo: trong sạch, không nhiễm, lan tỏa, kết
nối,… 8. Gián sắc phục: Áo gồm các màu sắc lẫn lộn, màu không màu, nói
lên tính chất rỗng không của các pháp, không có chỗ để nương. 9. Từ bi
phục: Áo từ bi. 10. Phúc điền phục: Áo ruộng phước. 11. Ngọa cụ: Áo có
thể dùng để lót nằm. 12. Phu cụ: Áo có thể dùng để làm chăn đắp. Hai tên
sau cùng nói lên một đời sống lang thang, không cố định, không bám giữ.
Theo kinh điển Pali, y của Phật được truyền lại cho
ngài Ma ha Ca Diếp trước khi Đức Phật nhập Niết bàn. Và chính ngài Ca
Diếp là vị đã tổ chức kỳ kết tập lần đầu tiên để có sự nhứt quán về
giáo pháp của đức Phật. Chúng ta có thể nghĩ rằng, việc trao y bát này
là một hình thức trao thẩm quyền gìn giữ và lưu truyền giáo pháp. Và
cũng theo kinh điển Nam Tông, khi sắp nhập diệt, ngài Ma ha Ca Diếp lên
hang Tượng Đầu trên núi Kỳ Xà Quật, khoác lên người chiếc y của Phật,
nguyện thân xác không hoại cho đến khi Đức Di Lặc ra đời.
Trong kinh Pháp Hoa, một trong ba hình ảnh
tượng trưng cho những đức hạnh của vị Pháp sư Pháp Hoa là "mặc áo Như
Lai." Mặc áo Như Lai theo kinh giải thích là sống trong hạnh nhu hòa,
nhẫn nhục. Cà sa là biểu tượng của hạnh khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục.
Đức khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục trong Phật giáo liên hệ mật thiết với
tinh thần bình đẳng, tin chắc rằng mọi chúng sanh đều có Phật tánh và
khả năng thành Phật. Đó là tâm từ, là hạnh thành Phật. Hình ảnh ngài
Thường Bất Khinh trong kinh Pháp Hoa nói lên hạnh nhu hòa, nhẫn
nhục đó.
Ngài Thường Bất Khinh là một vị Tăng sống trong thời
kỳ Tượng pháp của Đức Phật Oai Âm Vương. Ngài không tụng đọc kinh sách,
chỉ suốt đời thực hành một hạnh: khởi tâm bình đẳng và cung kính đến tất
cả mọi người, tin rằng mọi người đều có tánh Phật. Mỗi khi gặp một vị
Tăng, Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ nào, Ngài đều cúi lạy, tán dương: "Tôi
rất quý kính ngài, chẳng dám khinh mạn. Vì sao? Vì quý ngài đều tu hành
đạo Bồ tát, sẽ đặng làm Phật". Dù bị ngược đãi, ngài Thường Bất
Khinh không thối tâm trong việc thực hành hạnh Thường Bất Khinh đó. Và
khi sắp lâm chung, ngài lãnh hội được toàn bộ giáo pháp Nhất thừa từ Đức
Phật Oai Âm Vương.
Như vậy, cà sa là áo Phật, áo Như Lai, hạnh cà sa là
hạnh Phật. Cà sa tượng trưng cho sự nhu hòa, nhẫn nhục, bình đẳng, khiêm
cung. Đó cũng là những đức hạnh để phát triển tâm Từ.
Kinh Bi Hoa (Từ Bi Liên Hoa), đã mô tả năm
công đức thánh thiện của áo cà sa. Năm công đức đó là kết quả của năm
lời nguyện của Đức Phật khi Ngài tu hành đạo Bồ tát. Đức Phật nguyện khi
Ngài chứng quả Chánh giác, cà sa của Ngài sẽ có năm đức như sau: 1.
Người thế tục biết kính trọng cà sa sẽ được Tam thừa. 2. Trời, rồng,
người, quỷ, thần biết kính trọng cà sa cũng sẽ được Tam Thừa. 3. Chúng
sanh và quỷ thần chỉ cần bốn tấc cà sa sẽ được no đủ. 4. Chúng sanh
thường nghĩ nhớ đến cà sa sẽ tăng trưởng lòng từ bi. 5. Người trong trận
mạc nếu có một mảnh cà sa và kính trọng mảnh cà sa đó thì sẽ được vinh
quang.
Kinh Đại thừa bổn sanh tâm địa quán đề cập đến
mười lợi ích của việc mặc cà sa như sau:
"Một là, che thân mình, xa lìa được sự xấu hổ,
đầy đủ đức biết hổ thẹn để tu hành thiện pháp. Hai là, xa lìa sự lạnh,
nóng, ruồi, muỗi, thú dữ, trùng độc, để an ổn tu đạo. Ba là, hiện ra
tướng mạo Sa môn xuất gia, người ta trông thấy sinh tâm vui vẻ, xa lìa
được tâm tà vạy. Bốn là, cà sa tức là bóng dáng lá cờ báu của nhân,
thiên, chúng sinh tôn trọng kính lễ được sinh Phạm thiên. Năm là, khi
mặc cà sa tưởng tượng là lá cờ báu, diệt được mọi tội, sinh mọi phúc
đức. Sáu là, bản chế cà sa nhuộm thành hoại sắc là để muốn xa lìa năm
dục tưởng, không sinh tâm tham ái. Bảy là, cà sa là áo thanh tịnh của
Phật, dứt hẳn được phiền não, tạo ra ruộng phúc tốt lành. Tám là, thân
mặc cà sa, tội nghiệp tiêu trừ, phát sinh mười thiện nghiệp đạo, niệm
niệm tăng trưởng. Chín là, cà sa cũng như ruộng tốt hay làm tăng trưởng
Bồ tát đạo. Mười là, cà sa cũng như áo giáp, mũ trụ, tên độc phiền não
không hại được." (Kinh Đại thừa bản sinh tâm địa quán, HT.Thích
Tâm Châu dịch).
Luận Thập trụ bà sa đề cập đến 26 loại y và
mười lợi ích của y. Kinh Hải Long Vương đề cập đến việc Long
Vương thoát khỏi móng vuốt của đại bàng nhờ sự che chở của cà sa của
Phật.
Như vậy, theo kinh điển, công đức của cà sa là vô
lượng.
Với Thiền Tông, chiếc áo cà sa cũng mang một ý nghĩa
đặc biệt và rất được tôn quý. Chiếc cà sa được chư Tổ truyền nhau, là
chiếc áo Chánh pháp và sự trao truyền đó mang ý nghĩa là trao truyền
Chánh pháp. Chiếc áo đó đi theo dòng giác ngộ của Thiền, tức đi theo tâm
ấn của Phật. Đối với Thiền, đó là chiếc áo tượng trưng hay chứa đựng
toàn bộ kho tàng giác ngộ của chư Phật, chư Tổ và của tất cả chúng sanh.
Không những chiếc y truyền thừa theo dòng Tổ có giá
trị siêu việt mà cà sa bình thường của các Thiền tăng cũng có một ý
nghĩa và giá trị siêu việt. Trong tiểu luận The Merits of the Kasaya,
ngài Uku viết:
"Cà sa là một vật rất quan trọng đối với người theo
Phật. Nó không chỉ là pháp phục của Tăng, Ni, mà còn đại diện trọng tâm
của thiền; mặc cà sa là mặc áo Phật và mặc áo Phật là toàn tâm toàn ý
thực hành thiền. Cà sa là thân và tâm của Phật".
Trong Chánh pháp nhãn tạng, ngài Dogen (Đạo
Nguyên) viết:
"Nên nhớ rằng cà sa là đối tượng tôn kính và thành
tâm hướng về Đức Phật. Nó là thân của Phật và tâm của Phật. Chúng ta gọi
nó là áo giải thoát, áo ruộng phước, áo vô tướng, áo tối thượng, áo
nhẫn nhục, áo Như Lai, áo Đại từ, áo Đại bi, áo vinh quang, áo tam miệu
tam bồ đề. Chúng ta nên nhận nó và duy trì nó như vậy, khiêm cung đội
trên đầu. Vì nó là như vậy, chúng ta không bao giờ thay đổi nó theo ý
chúng ta".
Chỗ khác Ngài viết:
"Khi chứng quả Phật, tất cả các Đức Phật đều mặc cà
sa, điều đó cho thấy rõ mặc cà sa được coi như có công đức đáng kính và
cao cả nhất." (Chánh pháp nhãn tạng).
Tóm lại, theo ngài Dogen, công đức của chiếc áo cà sa
không thể suy lường. Đó là suối nguồn bất tận của thành tựu và phúc
lạc. Nó vượt ngoài không gian và thời gian. Nó hiện diện ngay nơi đây
bây giờ, mà cũng đang hiện diện khắp pháp giới trong mọi thời gian. Cà
sa chính là Pháp thân của chư Phật.
"Chiếc áo cà sa không phải là một sáng tạo của
con người, cũng không phải không là một sáng tạo của con người. Nó
không dừng lại một nơi nào, nhưng không có chỗ nào nó không dừng lại. Và
ý nghĩa chân thật của chiếc áo cà sa chỉ có chư Phật mới hiểu được.
Những người đi trên con đường đạo, những lợi ích của chiếc áo cà sa mang
đến cho họ thật là vô cùng tận". (Chánh pháp nhãn tạng).
Trở về với chúng ta, chúng ta đang hiện diện nơi đây
đồng thời chúng ta cũng đang hiện diện trong pháp giới của chư Phật.
Pháp giới đó từ ngàn xưa cho đến ngàn sau không hề thay đổi, và chúng ta
vẫn thường hằng ở trong đó. Nhưng chúng ta đã u mê không nhìn thấy cho
đến khi hình bóng chiếc cà sa xuất hiện để kết nối chúng ta với pháp, mở
mắt cho chúng ta để chúng ta thấy được rằng, chúng ta vẫn đang ở trong
pháp giới của chư Phật, có cùng pháp thân với chư Phật. Và từ đó đời
sống của chúng bắt đầu thênh thang và có ý nghĩa.
Đời sống đó chẳng những đem đến sự an vui, hạnh phúc
và ý nghĩa cho cá nhân, mà còn là tố chất làm thăng hoa tập thể, chất
keo kết nối cộng đồng. Và như chúng ta thấy, khi những bóng cà sa từ
những chiếc thuyền buôn ghé vào đất nước chúng ta trong hoàn cảnh khổ
nhục của người dân mất nước, những chiếc cà sa đó đã xoa dịu niềm đau và
làm thăng hoa, kết nối chúng ta, để khi hội đủ nhân duyên, những chiếc
cà sa đó lại vạch đường cho một tương lai tươi đẹp của đất nước.
Đó là ý nghĩa của chiếc áo cà sa riêng đối với chúng ta, cũng như đối
với lịch sử của chúng ta.
Thị Giới ( Nguyệt San Giác Ngộ
171)