Các
vị Tổ khi xưa tu đắc đạo nhưng thân còn tại thế. Vì muốn hóa độ dễ dàng
hơn, các Ngài thường vẽ ra hình tượng các vị Bồ Tát, để diễn tả các 
pháp tu, để  khuyên dạy và giáo hóa chúng sanh. Người thế gian nếu chấp 
những hình tượng Bồ  Tát đều là linh tượng, thánh tượng theo thần quyền,
có thể ban phước giáng họa,  cầu nguyện van xin, thì không lợi ích gì 
cho con đường tu tập bản thân. Chẳng  những vậy, điều cố chấp này còn 
làm cho con người yếu hèn, sanh tâm ỷ lại, thêm  tâm ích kỷ, ham muốn 
lợi riêng cho bản thân mình, gia đình mình. Rồi từ đó, con  người sống 
cuộc đời với tâm tranh chấp hơn thua, đấu tranh và đau khổ triền miên.
Khi vô thường đến cướp mất người thân yêu, hay là chính bản thân đứng
trước  cửa tử, lúc bấy giờ tâm con người bất an, đau đớn, hoảng loạn, 
kêu cứu, giờ phút  đó không biết rơi vào cảnh giới xấu tốt nào, địa ngục
hay thiên đàng, Phật ở đâu,  Bồ Tát ở đâu, sao không thấy? Làm sao giữ 
được bình tĩnh để ra đi an lành trong  giờ phút đó? Câu hỏi này chúng ta
cần phải tìm cho được giải đáp ngay bây giờ,  trong lúc thần thức còn 
sáng suốt, tâm trí còn ổn định. Sanh tử sự đại. Đó mới  là sự cần thiết 
quan trọng bậc nhất.
Trong các chùa chiền, tự viện, tu viện, tôn tượng trang nghiêm được 
an trí  bên cạnh Đức Phật Bổn Sư Thích Ca, vị Bồ Tát thân đắp cà sa, 
hình tướng một vị  tăng xuất thế, tay phải cầm tích trượng, tay trái 
nâng viên ngọc minh châu tỏa  sáng. Đó là hình ảnh tôn tượng đại bi, đại
nguyện, đại thánh, đại từ, bổn tôn  Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ngài phát 
đại nguyện: Địa ngục vị không, thệ bất thành  Phật. Tâm nguyện Bồ Tát không muốn an hưởng Niết Bàn khi thấy chúng sanh còn  quá nhiều đau khổ.
Địa: sâu dầy, chắc cứng, kiên cố, sâu kín, tối tăm.
Tạng: chứa đầy đủ, không hạn định, không đo lường.
Trong đạo Phật, Địa Tạng hàm ý đại địa bao la, tượng trưng cho tạng 
thức và  căn tánh con người có thể dung chứa tất cả thiện ác, tốt xấu, 
có chân thật, có  giả dối. Tâm con người có địa ngục và tâm con người 
cũng có niết bàn.
Hình tướng trang nghiêm vị tăng xuất thế (Tự tánh Tăng bảo - thanh tịnh)
Tinh thần mạnh mẽ vô úy, lý tưởng vị tha của một vị hình tướng xuất 
gia, luôn  dấn thân để cứu độ chúng sanh đang chịu khổ cảnh địa ngục 
kinh hoàng bởi vô  minh. Hình ảnh thân đắp cà sa, gương mặt đôn hậu từ 
ái, lòng đại từ đại bi cao  cả, là tấm gương sáng cho tất cả chúng sanh,
tượng trưng cho “Tăng Bảo”, một  trong ba ngôi tam bảo quí hiếm. Tăng 
bảo là người tu xuất gia, là kho chứa châu  báu diệu pháp, mồi ngọn đuốc
từ bi trí tuệ nơi Đức Thế Tôn, đem lợi lạc cho  chúng sinh, mở sáng trí
tuệ cho người tu học Phật.
Mặc dù sống trong nhà phiền não, nhưng người xuất thế tục gia được 
người đời  tin tưởng, là bậc thầy chỉ đường vượt qua rừng u minh tăm 
tối. Tâm từ bi độ  lượng bao dung của người tu, như thửa ruộng hạnh 
phúc  an vui cho cuộc đời.  Những lời thuyết pháp của Tăng bảo có sức 
mãnh liệt phá tan những vọng tâm, vọng  tưởng sâu kín tận trong tâm thức
của những người đang mê ngủ với thú vui tạm bợ,  làm cho họ thức tỉnh.
Thân đắp cà sa có ý nghĩa kham nhẫn, sống đời phạm hạnh thanh tịnh và
còn là  sức mạnh của giới pháp, ngăn ngừa những tội lỗi của ác pháp. 
Chiếc áo cà sa che  chở cho người tu trong cuộc sống xã hội đầy tham 
vọng, sân hận và si mê. Người  xuất thế tục gia có nghị lực mạnh mẽ phát
triển các thiện pháp, tự giải thoát  cho bản thân, phát tâm hạnh Bồ Tát
vì người, không phải chuyện dễ dàng ai cũng  làm được.
Trong 37 phẩm trợ đạo, đức Phật dạy người tu cần phải có sức mạnh của Ngũ Căn  (Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ), gọi là “Ngũ Lực” gồm có:
1. Tín Lực: Sức mạnh của sự tin tưởng vào chánh phápkhông thối chuyển.
2. Tấn Lực: Sức mạnh của sự tinh tấn, quyết tâm thành tựu phạm hạnh  trên đường tu.
3. Niệm Lực: Sức mạnh của tâm niệm, luôn ghi nhớ xa rời điều ác, giữ  giới trong sạch.
4. Định Lực: Sức mạnh của sự quán sát tâm và tập trung vào thiền định,  an nhiên tự tại.
5. Tuệ Lực: Sức mạnh của sự sáng suốt, trí tuệ mạnh mẽ đi đến bờ giác  ngộ.
Tu là ở nơi nội tâm có chánh tín sáng suốt và tư duy thanh tịnh, 
không phải ở  hình tướng bên ngoài. Con người dù thân còn tại gia nhưng 
tâm xuất gia đều có  thể thực hành “Ngũ Lực” mạnh mẽ và phát hạnh nguyện
Bồ Tát như người xuất gia  đắp y giải thoát vậy.
Tu là noi theo hạnh nguyện Bồ Tát Địa Tạng, thấy được trong tâm địa 
con người  có nghiệp lành, có nghiệp dữ, có tốt có xấu, có địa ngục, có 
niết bàn và có tự  tâm tự tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh. Từ đó có thể tự 
tu, tự giác ngộ giải thoát  cho chính bản thân và mọi người hữu duyên, 
như hạnh nguyện của người xuất gia  đắp y giải thoát vậy.
Người biết cách tu, phải tự lực, tự giác ngộ, tự chuyển đổi tâm địa 
của chính  bản thân, đến khi hoàn toàn không một tạp niệm nào sinh khởi 
nữa, tức là địa  ngục đã trống không, lúc đó được giải thoát.
Đó chính là Tự Tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh, mà ai ai cũng có.

Bất chấp trận động đất lịch sử với 
cường độ mạnh 9.0 độ richter và sóng  thần  cao hơn 10 mét xảy ra ở miền
Đông-Bắc Nhật Bản chiều ngày 11-3 đã  cuốn trôi tất  cả nhà cửa, tàu 
thuyền, xe cộ v.v trên đường mà nó đi  qua, pho tượng ngài U Minh  Giáo 
Chủ Ðịa Tạng Vương Bồ-tát vẫn sừng sững  đứng vững không lay động giữa 
đống  đổ nát điêu tàn. Thật là kỳ diệu  thay! mầu nhiệm thay!
Tích trượng phá cửa địa ngục: Chánh pháp (Tự tánh Pháp bảo - chân chánh) 
Địa ngục không nhất  thiết khi con người chết đi mới thấy, địa ngục ở
ngay cõi  đời ngũ trược ác thế. Địa ngục sanh ly tử biệt, địa ngục tù 
giam cấm cố tra tấn,  địa ngục bịnh hoạn, đau đớn, rên xiết. Thật là quá
nhiều địa ngục ngay trước mắt,  con người phải chịu đền trả quả báo gây
tạo ra nhiều đời nhiều kiếp trong lục  đạo luân hồi.
Bồ Tát Địa Tạng tay cầm Tích Trượng biểu dương sức mạnh của Chánh Pháp.
Năng lực của Tích Trượng hay Thiền Trượng là tâm đại từ đại bi của Bồ 
Tát, dùng  chánh pháp chuyển hóa tâm địa con người đầy tham lam, hận 
thù, đố kỵ, si mê mù  quáng có thể thức tỉnh kịp thời. Như những cánh 
hoa sen nở thơm tho thanh khiết,  kết tụ của sự giác ngộ giải thoát, hoa
sen đều từ gốc bùn tanh. Mục đích của  người tu là phải có chánh pháp, 
hiểu tận tường thấu đáo, thực hành đúng theo lời  Phật dạy. Chánh pháp 
chính là hiệu quả của “Tích Trượng phá cửa địa ngục”, là gậy vàng đập tan gông cùm xiềng xích trói buộc của địa ngục phiền não đau khổ.
Xuất gia hay tại gia đều có thể tự tu theo pháp “lục độ ba la mật”, 
trang  nghiêm thân tướng với bố thí, trì giới, kham nhẫn, tinh tấn, 
thiền định và trí  tuệ, để đạt tự tánh “Pháp Bảo” chân chánh. Từ đó phát
sanh trí tuệ, phá vỡ cửa  địa ngục vô minh nhiều kiếp luân hồi, tâm 
luôn hướng về Bồ Tát hạnh để cứu khổ  chúng sinh. Người tu theo con 
đường chân chính của Đức Phật chỉ dạy, sống trong  chánh pháp được an 
lạc hạnh phúc. Dù chưa thành Phật, chưa an hưởng niết bàn,  nhưng ở mọi 
cảnh giới đều có thể tự độ và độ tha như hạnh nguyện Bồ Tát Địa Tạng.  
Còn sống trên đời, còn khỏe mạnh, con người nên dành nhiều thì giờ vào 
việc tu  học, tự quán sát, tự soi vào tâm địa chính bản thân, bởi vì 
Phật dạy thân người  khó được và được thân người là dễ tu nhất.
Trên đường tu học đạo, con người thường phải trải qua nhiều chông gai
thử  thách. Nào trùng độc, rắn dữ, cám dỗ của ngũ dục (tài, sắc, danh, 
thực, thùy),  tiền của, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ, ngày tháng
rong chơi, ai nói gì  cũng tin, ai bảo làm gì cũng nghe theo. Những thứ
tà pháp đó dẫn dắt con người  lạc vào con đường tà đạo đầy bóng tối tội
lỗi. Chánh pháp là cứu cánh tận diệt  tội lỗi, dứt trừ thói quen tạo 
nghiệp đua đòi và nhiều tật xấu tiềm ẩn trong kho  tàng tâm thức con 
người. Khi hiểu tận tường giáo pháp trong kinh điển, thực hành  và suy 
ngẫm thấu đáo lời Phật dạy, chuyển hóa tâm địa si mê sâu nặng trong tàng
thức và tâm ích kỷ mù quáng, con người thức tỉnh kịp thời, đó là giải 
thoát.
Đức Phật dạy: "Phải luôn luôn quán chiếu nội tâm, thúc liễm 
vọng tâm vọng  thức để tự giác ngộ. Tâm làm chủ mọi hành động, mọi 
nghiệp lực. Tâm là địa ngục,  tâm cũng là niết bàn. Con người phải hứng 
chịu mọi quả báo an lạc hay đau khổ do  chính mình tạo ra. Chính tự thân
mới có đủ năng lực đưa mình ra khỏi địa ngục  đau khổ mà thôi".
Địa Tạng là tâm địa sâu kín chân thật của con người, khi thức tỉnh 
biết tàm  quí, sám hối tội lỗi, chấm dứt nghiệp dữ. Chuyển hóa, sửa đổi 
tâm niệm xấu ác  thành thiện lành chính là con đường giải thoát ra khỏi 
luân hồi, tam đồ ác đạo:  địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Hiểu được đạo lý 
như vậy thì rất có lợi lạc cho  việc tu nhân, tích phước, kiệm đức, cứu 
người giúp đời. Người đời có thể che  giấu được tâm tốt hay xấu với 
người xung quanh, nhưng không gạt được tâm địa của  chính mình.
Nhận ra được chân lý sống, con người biết dùng chánh pháp làm phương 
tiện  thanh lọc những tư tưởng ô nhiễm bám vào tâm thức nhiều đời nhiều 
kiếp. Thực  hành lời Phật dạy, suy tư và tinh tấn phát huy định lực tự 
thân, vững bước tu  tập cho đến khi đạt được Tự Tánh “Pháp Bảo” chân chánh, thân tâm được tự  tại giải thoát khỏi cảnh giới địa ngục.
Viên ngọc minh châu - trí tuệ (Tự tánh Phật bảo - sáng suốt) 
Bồ  Tát Địa Tạng tay nâng viên ngọc Minh Châu, tượng trưng cho vật 
thể vô cùng quí  giá, ánh sáng của ngọc Minh Châu có thể soi sáng trong 
bóng tối vô minh. Hình  tượng Phật và Bồ Tát thường được diễn tả những 
tia hào quang, chiếu sáng xung  quanh đầu hay toàn thân, chính là nghĩa 
đó.
Theo kinh sách, ánh sáng mang ý nghĩa là trí tuệ cao tột và sự sáng 
suốt  thanh tịnh của những bậc giác ngộ siêu phàm, các vị chứng chánh 
đẳng chánh giác  mới có được. Chư Phật, Chư Bồ Tát và Chư Tổ đắc đạo 
được người đời tin tưởng, là  bậc thầy chỉ đường, cứu giúp con người 
vượt qua rừng u minh tăm tối. Con người  nhờ được chỉ  dẫn, cố gắng tìm 
cho ra viên ngọc Minh Châu tượng trưng cho trí  tuệ sáng ngời của tự 
tâm.
Viên ngọc Minh Châu tiêu biểu cho Phật tánh sáng suốt bất sanh bất 
diệt của  con người mà ai cũng có. Trí tuệ cũng do từ bản tâm tự lực con
người thanh tịnh  mà được. Muôn pháp đều ở tại tâm, tùy tâm biến hiện.
Viên ngọc Minh Châu là ý nghĩa sự tỉnh thức giác ngộ của Phật tánh có
công  năng chiếu rọi vào sâu tận tâm địa của con người, vượt lên trên 
tất cả sự thấy  biết của phàm phu. Nhưng con người vì sống trong sáu cõi
luân hồi nhiều đời  nhiều kiếp mê mờ nên không thấy được cái quí giá 
của tự thân, cứ lo mãi tìm Phật,  cầu Bồ Tát bên ngoài.
Người có được ý chí mạnh mẽ, phát huy tinh thần tự giác, sống không 
chọn ăn  ngon mặc sang, không hơn thua tranh chấp, biết sợ nhân quả, 
hiểu rõ vô thường,  thân này trăm năm rồi cũng tan rã. Nếu tất cả những 
đòi hỏi của con người biết  tùy theo khả năng và chỉ là phương tiện cần 
thiết, biết đủ cho cuộc sống, thì  đạt được sự tự do và giải thoát khỏi 
sự trói buộc ngục tù của lòng tham sân si.
“Phật Bảo” là một trong ba ngôi báu của Tự Tánh Tam Bảo sáng suốt nhất, là  kho chứa đựng châu báu rạng ngời và cao cả nhất. Tinh
thần của đạo Phật không  chấp nhận sự dựa dẫm, ỷ lại vào các hiện tượng
linh thiêng huyền bí hay cầu  nguyện vì lòng tham lam và ích kỷ.
Người tu theo Phật phải có ý chí cương  quyết phá tan mọi cám dỗ của 
danh lợi, không bị sáu trần (sắc, thanh, hương, vị,  xúc, pháp) trói 
buộc, tìm cho được tự tánh “Phật Bảo” sáng suốt của tự tâm.  Tâm mê là chúng sanh, tâm giác là Phật. Tâm mê ở địa ngục, tâm giác ở niết bàn.
Trong Kinh Kim Cang, Lục Tổ Huệ Năng ngộ được Tự Tâm Tự Tánh Tam Bảo sẵn có  nơi tự thân mỗi người:
Bất ưng trụ sắc sanh tâm
Bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm,
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Nghĩa là: Con người không chấp giữ bất  cứ việc gì cho riêng mình, 
đừng thấy sắc sanh phân biệt thương ghét, đừng vì cao  lương mỹ vị mất 
cảnh giác, đừng vì lợi dưỡng sung sướng sanh tâm tham đắm. Không  có chỗ
dính mắc thì không có địa ngục khổ đau phiền não, tâm được nhẹ nhàng an
lành giải thoát. Tâm “vô sở trụ” là tâm bồ đề, là ngọc Minh Châu sáng 
ngời trí  tuệ. Đó chính là Tự Tánh “Phật Bảo” sáng suốt, dù sống ở cảnh giới nào  cũng được an vui tự tại.
Tóm lại, Bồ Tát Địa Tạng một tay nắm vững tích trượng (Từ Bi), một tay  nắm chắc viên ngọc (Trí Tuệ),
không phải là vị thần linh, và không có khả  năng phá cửa địa ngục cứu 
chúng sanh theo nghĩa đen, bởi vì như vậy trái với  luật nhân quả và 
hiểu như vậy kinh Bát Nhã gọi là vọng tưởng điên đảo.
Bồ Tát Địa Tạng biểu trưng Chánh Tín đủ hai yếu tố: Từ Bi và Trí  Tuệ.
Người tu theo lời Phật dạy cần có chánh tín. Không có chánh tín, con  
người sẽ dựa vào thần quyền, dựa vào tha lực, nghĩ rằng tiền của, tài 
sản có thể  mua chuộc được thần linh, và cầu nguyện Bồ Tát Địa Tạng cứu 
vớt sau khi chết.  Cho nên người mê tín không quan tâm đến chánh pháp, 
suốt đời chỉ lo hơn thua  tranh đấu, tạo nghiệp, chứ không sớm biết tu 
tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và  chuyển nghiệp. Từ đó, con người sẽ rơi 
vào trầm luân đau khổ của sanh tử không  thoát ra được.
Người sáng suốt biết quan tâm đến chánh pháp, sớm thức tỉnh, rốt ráo 
thanh  lọc thân tâm, vun bồi công đức, dụng công tu tập càng nhiều thì 
minh tâm kiến  tánh càng sớm đạt thành. Thấy được Phật Pháp Tăng tự tâm tức là hằng sống  trong “Tự Tánh Tam Bảo”.
Tự tánh Phật bảo:
Viên ngọc Minh Châu quí hiếm, là trí tuệ viên mãn, là Phật tánh sáng 
suốt, có  công năng phá trừ vô minh và đạt chánh đẳng chánh giác.
Tự tánh Pháp bảo:
Tích trượng Chánh Pháp nặng ngàn cân, là sức mạnh từ bi chân chánh vô
úy của  các pháp, có công năng tự giải thoát khỏi địa ngục đau khổ của 
thân tâm.
Tự tánh Tăng bảo:
Tướng xuất gia và Tâm thanh tịnh. Tuy sống tại thế gian, nhưng Tâm 
xuất gia,  hành Bồ Tát đạo, tự độ độ tha, chính là các vị chân tu thật 
học, một lòng không  thối chuyển.
Khi mê mờ: Chúng con khổ - nguyện xin cứu khổ.
Khi giác ngộ: Chúng con khổ - nguyện xin tự độ. []
Nam mô u minh giáo chủ bản tôn Địa Tạng Vương Bồ-tát.
11.11.11
TKN Thích Nữ Chân Liễu