Kính thưa đại
chúng,
Khi nghe một
tiếng chuông, chúng ta hãy mời tất cả các tế bào trong cơ thể cùng lắng nghe
với ta. Chúng ta biết rằng cha mẹ và ông bà tổ tiên của chúng ta cũng đang có
mặt trong từng tế bào của cơ thể ta. Vì vậy khi nghe chuông, chúng ta nghe như
thế nào để năng lượng của bình an, của chánh niệm có thể đi vào trong từng tế
bào của cơ thể. Đó là sự thực tập lắng nghe sâu. Nếu chúng ta đã quen với sự
thực tập thì khi nghe chuông, chúng ta có thể dễ dàng dừng lại những nghĩ suy,
nói năng của mình và để hết sự chú tâm vào hơi thở. Chúng ta thưởng thức hơi
thở vào và tự nhủ: “lắng lòng nghe, lắng lòng nghe”, ý thức rằng mọi tế bào trong
cơ thể đang lắng nghe tiếng chuông cùng với ta. Và ta để cho tiếng chuông cùng
với năng lượng bình an thấm vào trong từng tế bào của cơ thể. Khi thở ra, chúng
ta nhủ thầm “Tiếng chuông huyền diệu đưa về quê hương”. Quê hương đích thực của
chúng ta là bây giờ và ở đây. Chỉ trong giây phút hiện tại này, sự sống mới có
mặt. Và khi 1000 người cùng thở như vậy thì năng lượng bình an và chánh niệm sẽ
hùng hậu vô cùng. Năng lượng đó rất nuôi dưỡng và trị liệu. Nếu có các em nhỏ
ngồi cùng với ta thì các em sẽ cảm nhận ngay được năng lượng đó.
Điều lợi lạc nhất mà chúng ta được hưởng từ một khóa tu chính
là năng lượng chánh niệm tập thể này. Nguồn năng lượng chánh niệm, bình an và
thương yêu đó có công năng trị liệu cho chúng ta. Khi chúng ta đi thiền hành
cũng vậy. Nếu tất cả mọi người cùng chú tâm vào hơi thở và từng bước chân trong
khi đi thiền hành thì chúng ta cũng sẽ chế tác được năng lượng tập thể rất hùng
hậu, đó là năng lượng của bình an, chánh niệm và niềm vui.
Khi nói đến một nền đạo đức toàn cầu, chúng ta nói đến một sự
thực tập tâm linh mà bất kỳ ai cũng có thể thực tập, không phân biệt tôn giáo,
chủng tộc, quốc gia, văn hóa. Chúng ta không cần phải là một Phật tử mới có thể
thực tập hơi thở chánh niệm. Hay nói cách khác, chỉ cần ta thở có chánh
niệm thì lập tức ta có được niềm vui, hạnh phúc và trị liệu. Trong đạo Bụt,
chúng ta biết rằng đạo Bụt được làm từ những yếu tố không phải là đạo Bụt. Cũng
giống như một bông hoa. Khi nhìn vào một bông hoa, ta thấy bông hoa được làm từ
những yếu tố không phải là hoa. Nhìn vào bông hoa, ta có thể thấy được ánh nắng
mặt trời. Ánh nắng mặt trời không phải là bông hoa nhưng nếu không có ánh mặt
trời thì bông hoa không thể nào có mặt. Trong bông hoa đó, ta còn có thể thấy
mây, thấy mưa. Mây và mưa không phải là hoa, nhưng nếu không có những yếu tố
không phải là hoa này thì bông hoa không thể nào biểu hiện được.
Thiền có nghĩa là nhìn sâu, và khi nhìn sâu vào một đối tượng
nào đó, chẳng hạn như một bông hoa, ta sẽ có được một cái thấy (insight) là
bông hoa đó được làm bằng những yếu tố không phải là hoa, và nếu ta lấy những
yếu tố không phải là hoa đó ra khỏi bông hoa thì bông hoa không thể nào tiếp
tục tồn tại. Đạo Bụt cũng tương tự như vậy. Đạo Bụt được làm từ những yếu tố
không phải là đạo Bụt. Và nếu ta có được tuệ giác đó thì sẽ không còn bất kỳ
một chủ nghĩa nào, một học thuyết nào hay một tôn giáo nào có thể tạo ra sự
chia rẽ, sợ hãi và hận thù được nữa. Vì vậy, có thể nói rằng một người không
phải là Phật tử vẫn hoàn toàn có thể thực tập chánh niệm.
Sự thực tập chánh niệm – sự thực tập của một nền đạo đức toàn
cầu (global ethics) – đem lại cho chúng ra rất nhiều lợi lạc, thể hiện ở nhiều
khía cạnh:
Sự thực tập chánh niệm có thể giúp ta buông bỏ những căng thẳng
trong thân
Điều này không chỉ người lớn mới có thể làm được mà trẻ con
cũng có thể làm được. Ở Làng Mai, chúng tôi đã tổ chức nhiều khóa tu cho trẻ
em, và chúng tôi thấy rằng các em thực tập rất giỏi. Trẻ em có khả năng an trú
trong hiện tại còn giỏi hơn cả người lớn. Trong thân của chúng ta có rất nhiều căng
thẳng và chúng ta đã để cho những căng thẳng này tích tụ trong một thời gian
dài, đây chính là yếu tố căn bản làm phát sinh các loại bệnh tật. Vì vậy, sự
thực tập hơi thở chánh niệm có khả năng giúp chúng ta buông bỏ những căng thẳng
trong thân, và chúng ta có thể thực tập khi đang ngồi trên xe bus hay trong lớp
học hoặc ở sân bay. Thực tập hơi thở chánh niệm có thể giúp ta buông bỏ căng
thẳng và khi căng thẳng không còn thì những đau nhức trong cơ thể chúng ta cũng
giảm bớt rất nhiều. Sở dĩ chúng ta hay đau nhức là vì có sự căng thẳng trong
thân, vì vậy nếu buông bỏ được căng thẳng thì ta cũng đồng thời làm giảm những
đau nhức trong thân. Dù trong bất kỳ tư thế nào, khi đứng, khi ngồi, khi nằm
hay khi đi, ta vẫn có thể thực tập buông thư cơ thể. Khi ngồi thiền, ta có thể
thực tập buông hết những căng thẳng trên khuôn mặt, trên hai bờ vai và ta chỉ
ngồi yên để thưởng thức hơi thở vào và hơi thở ra. Ta không vật lộn, đè nén
trong khi ngồi thiền, ta để cơ thể hoàn toàn buông thư, buông thả hết
những căng thẳng trong thân. Có khoảng 300 cơ bắp trên khuôn mặt của chúng ta,
vì vậy mà khi ta căng thẳng thì khuôn mặt của ta sẽ không đẹp chút nào. Nhưng
nếu ta biết thở, biết cười thì tất cả những căng thẳng trong 300 cơ bắp trên
mặt sẽ tan biến rất nhanh. Ai trong chúng ta cũng có thể học được cách buông
thư những căng thẳng trong thân dù là khi đang ngồi hay nằm hay đang đi. Chúng
ta có thể thực tập bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu.
Sự thực tập chánh niệm giúp ta chế tác niềm vui, niềm hạnh phúc
Một người thực tập giỏi là người có thể chế tác niềm vui
(hỷ), niềm hạnh phúc (lạc) bất cứ khi nào người đó muốn. Đây là điều tương đối
đơn giản mà ai cũng có thể làm được. Chúng ta biết rằng khi ta thở vào và đặt
sự chú tâm vào hơi thở vào, ta sẽ đưa tâm trở về với thân, và khi thân tâm hợp
nhất, ta mới có thể thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây.
Chỉ trong trạng thái thân tâm nhất như ta mới thực sự sống, thực sự có mặt, và
ta có cơ hội tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống trong ta và xung quanh ta.
Khi đó, ta sẽ nhận ra những điều kiện hạnh phúc đang có sẵn đó cho ta, ta có
biết bao nhiêu điều để hạnh phúc. Chánh niệm cho ta thấy rằng ta đang rất may
mắn, may mắn hơn rất nhiều người. Chẳng hạn như khi ta thở vào và chú tâm vào
đôi mắt: “Thở vào, tôi ý thức về đôi mắt của tôi”, đó gọi là chánh niệm về mắt.
Năng lượng chánh niệm mang lại cho ta một cái thấy ngay lập tức: “Ồ, hai mắt
mình vẫn còn sáng”, và vì hai mắt ta vẫn còn sáng nên ta có thể tận hưởng một
thiên đường của hình ảnh và màu sắc. Ta chỉ cần mở mắt ra thôi là có cả một
thiên đường. Trong khi đó, đối với những người bị mất thị giác thì thiên đường
đó không còn dành cho họ, vì vậy mơ ước lớn nhất của họ là có lại được một đôi
mắt sáng như xưa. Vì vậy, khi tiếp xúc với hai mắt còn sáng, ta tiếp xúc được
với một trong những điều kiện hạnh phúc mà chúng ta đang có trong giây phút
hiện tại. Còn có cả hàng ngàn những điều kiện tương tự như vậy trong cơ thể
chúng ta. Khi ta thở vào và tiếp xúc với trái tim, “thở vào, tôi ý thức về trái
tim tôi”, ta khám phá ra trái tim ta vẫn đang hoạt động một cách bình thường.
Thật là hạnh phúc khi có một trái tim hoạt động bình thường, bởi vì có nhiều
người bị đau tim, họ đêm ngày chỉ mong ước cho trái tim của họ hoạt động trở
lại bình thường. Họ mơ ước có một trái tim khỏe mạnh như trái tim của chúng ta.
Vì vậy, có một trái tim hoạt động bình thường là một điều kiện hạnh phúc nữa mà
ta đang có.
Khi thực tập quán niệm thân thể, quán thân trong thân, ta trở
về tiếp xúc với toàn bộ cơ thể, khi đó, ta khám phá ra rằng có quá nhiều những
điều kiện hạnh phúc đang có mặt trong ta và xung quanh ta. Ta có bao nhiêu điều
để mà vui mừng, để mà hạnh phúc liền ngay bây giờ và ở đây. Ta không cần phải
chạy về tương lai để tìm kiếm thêm những điều kiện hạnh phúc, bởi vì ta đã có
quá đủ, nếu không muốn nói là dư thừa, những điều kiện để có thể hạnh phúc
trong giây phút hiện tại. Do đó, với ý thức sáng tỏ đó, một người thực tập giỏi
có thể làm phát khởi một cảm thọ vui mừng (hỷ), một niềm hạnh phúc (lạc)
bất cứ khi nào người đó muốn. Chỉ cần dùng chánh niệm để tiếp xúc với những
điều kiện hạnh phúc đang có sẵn trong mình và xung quanh mình thì mình sẽ có
hỷ, có lạc liền lập tức.
Khi thực tập chánh niệm – nền tảng của đạo đức toàn cầu
(global ethics), chúng ta cần phải học cách buông bỏ những căng thẳng trong
thân thể, làm lắng dịu những đau nhức trong thân và chế tác hỷ, lạc. Người Pháp
có một bài hát khá nổi tiếng, đó là bài “Qu’est qu’on attend pour être
heureux?”, nghĩa là: chúng ta còn cần thêm gì nữa, còn chờ đợi gì nữa mà không
hạnh phúc liền giây phút này?
Sự thực tập chánh niệm còn giúp chúng ta chăm sóc một niềm đau,
nỗi khổ
Khi một cảm thọ đau buồn phát khởi, một người thực tập chánh
niệm sẽ biết phải làm gì để chăm sóc cảm thọ đó. Một người thực tập giỏi là
người có khả năng xử lý, điều phục một cảm xúc mạnh hay một niềm đau khi chúng
phát khởi. Chỉ cần thực tập trong vòng vài phút là người đó cảm thấy nhẹ nhàng
liền. Nếu tiếp tục thực tập sâu hơn nữa, người đó sẽ có khả năng chuyển hóa cảm
thọ đau buồn đó thành một niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì vậy có thể nói, một hành
giả giỏi là người biết xử lý khổ đau, người đó không sợ khổ đau. Với năng lượng
chánh niệm, người đó biết nhận diện, ôm ấp và làm lắng dịu niềm đau, nỗi khổ
trong lòng mình. Người đó còn có thể đi xa hơn nữa, đó là chuyển hóa khổ đau
trở thành hỷ lạc.
Có một mối liên hệ mật thiết giữa khổ đau và hạnh phúc. Nhiều người trong chúng
ta có thói quen trốn chạy khổ đau, chúng ta không hề biết rằng khổ đau cũng có
thể rất hữu ích. Nó cũng tương tự như muốn trồng được sen thì cần phải có bùn
vậy. Hoa sen không thể nào mọc lên từ cẩm thạch được. Không có bùn thì cũng
không có sen. Tương tự như vậy, không có khổ đau thì cũng không có hạnh phúc.
Một hành giả giỏi là người biết cách tận dụng khổ đau để làm nên hạnh phúc.
Chúng ta có thể nói về lợi ích, về sự cần thiết của khổ đau. Nếu chúng ta biết
cách ôm ấp khổ đau với tất cả sự dịu dàng và nhìn sâu vào khổ đau đó, chúng ta
sẽ có khả năng chế tác được năng lượng hiểu biết và từ bi – nền tảng của hạnh
phúc chân thực. Không thể nào có hạnh phúc thực sự nếu không có hiểu biết và
thương yêu. Nếu không có hiểu biết và thương yêu, chúng ta sẽ cô độc, ta không
thể nào liên hệ được với bất kỳ ai. Vì vậy chúng ta cần phải biết rằng nền tảng
của hạnh phúc chân thực chính là hiểu biết và thương yêu.
Cái hiểu trước hết phải là cái hiểu về khổ đau, khổ đau của chính
mình và khổ đau của những người khác. Đối với Thầy, nước Chúa (Kingdom of God) hay cõi
Tịnh Độ không phải là một nơi hoàn toàn không có khổ đau. Nếu không có khổ đau
thì cũng không có hạnh phúc. Trong đạo Bụt, chúng ta hay nói về tính tương tức
của vạn vật. Anh không thể nào có thể tồn tại một cái biệt lập được, anh phải
tương tức với mọi người và mọi loài. Chẳng hạn như tờ giấy này, ta thấy có bên
phải, bên trái. Nhưng bên trái không thể nào có mặt nếu không có bên phải. Bên
trái dựa vào bên phải để biểu hiện. Ta không thể nào lấy bên trái ra khỏi bên
phải được. Điều này cũng tương tự như vậy đối với bên phải. Anh không thể nào
cử một người đến lấy bên phải mang về Boston và một người khác mang bên trái đi
về New York được. Bên phải và bên trái luôn đi đôi với nhau, chúng cần có nhau.
Hạnh phúc và khổ đau cũng tương tự như vậy. Nếu chúng ta gửi con cái của mình
đến một nơi không hề có khổ đau thì chuyện gì sẽ xảy ra? Chắc chắn là chúng sẽ
không có cơ hội để hiểu thế nào là từ bi, là thương yêu. Chỉ khi nào tiếp xúc
với khổ đau và hiểu về khổ đau thì chúng ta mới có thể làm phát khởi tình
thương và lòng từ bi. Chỉ khi nào có bùn thì sen mới có thể mọc được. Vì vậy,
ta cần phải thấy được mối liên hệ mật thiết giữa bên trái và bên phải, hạnh
phúc và khổ đau, bên trong và bên ngoài, thân và tâm. Chúng ta cần phải học
cách buông bỏ cái nhìn nhị nguyên, phân biệt. Một hành giả giỏi là người không
chỉ biết cách xử lý khổ đau mà còn biết cách tận dụng khổ đau đó để chế tác
chất liệu từ bi, hiểu biết và hạnh phúc.
Nhiều người trong chúng ta có thái độ trốn chạy khỏi khổ đau,
đó là một thái độ không khôn ngoan. Sự thật là chúng ta cần phải trở về với
chính mình để nhận diện khổ đau nơi mình, lắng nghe, ôm ấp niềm đau và chúng ta
sẽ học hỏi được rất nhiều từ khổ đau đó. Nhìn sâu vào khổ đau của chính mình sẽ
giúp chúng ta hiểu và thương được chính mình. Chất liệu hiểu biết và thương yêu
đó sẽ giúp cho chúng ta chuyển hóa và giúp cho nhiều người khác cũng được
chuyển hóa. Đó là lý do vì sao chúng ta nói về lợi ích của khổ đau.
Một hành giả giỏi là người biết lắng nghe. Vì biết lắng nghe chính
mình, lắng nghe khổ đau của chính mình nên người đó có khả năng lắng nghe khổ
đau của người khác. Có thể vợ hay chồng, hay con cái của mình có một nỗi khổ,
niềm đau. Nếu mình hiểu được khổ đau của chính mình thì mình sẽ dễ dàng nhận
diện và hiểu được khổ đau nơi những người thương của mình. Ta có thể nhận ra sự
có mặt của khổ đau và thấy rằng người đó đang là nạn nhân của khổ đau trong tự
thân. Và vì từ trước đến giờ, chưa từng có ai chỉ cho người đó phải làm gì với
nỗi khổ, niềm đau trong lòng mình, cho nên người đó tự làm khổ chính mình và
làm khổ luôn cả những người mình thương. Có thể ta là người đầu tiên có khả
năng giúp cho người đó vơi bớt khổ đau. Với cái thấy đó, ta sẽ không còn giận
người đó nữa, trái lại ta muốn làm hoặc nói một điều gì đó để giúp cho người đó
bớt khổ. Vì đã biết lắng nghe và hiểu được khổ đau nơi chính mình nên ta có thể
dễ dàng hiểu và cảm thông được cho người đó . Bây giờ chính là lúc chúng ta
lắng nghe để hiểu khổ đau nơi người đó và giúp cho người đó bớt khổ.
Một hành giả giỏi còn có thể đi xa hơn. Người đó có khả năng lắng
nghe với tâm từ bi và có thể sử dụng ngôn ngữ từ ái để giúp cho người đang có
nhiều khổ đau có thể mở lòng ra để chia sẻ. Khi một người có quá nhiều khổ đau thì trái
tim của họ cũng dường như đóng lại. Vì vậy nếu ta có đủ thương yêu và biết sử
dụng ngôn ngữ từ ái thì ta có thể mở cửa được trái tim của người đó và giúp cho
người đó trút hết nỗi lòng của mình, nhờ vậy mà họ bớt khổ. “Cha ơi, con biết
là cha đã chịu rất nhiều khổ đau trong bao nhiêu năm qua. Con đã không giúp gì
được cho cha, mà nhiều khi còn phản ứng lại và làm cho cha buồn khổ thêm. Con xin
lỗi cha. Chỉ vì con không hiểu được những nỗi khổ, những khó khăn mà cha phải
gánh chịu…Cha hãy giúp con, hãy nói cho con biết về những khó khăn, tuyệt vọng,
những niềm đau trong lòng cha…con muốn hiểu cha hơn để con không lập lại những
cách hành xử trước đây của mình. Nếu cha không giúp con thì còn ai có thể giúp
con?” Khi trong trái tim ta có đủ tình thương thì ta có thể nói bằng ngôn ngữ
như vậy, một loại ngôn ngữ có khả năng mở cửa trái tim của người khác và giúp
cho người đó trút hết nỗi lòng của mình. Và khi người đó đã mở lòng chia sẻ thì
khi đó ta có cơ hội thực tập lắng nghe với tâm từ bi, hay còn gọi là bi thính.
Bi thính là sự thực tập lắng nghe sâu, có khả năng làm cho người khác bớt khổ
liền chỉ trong vòng một giờ lắng nghe hoặc có thể ngắn hơn. Trong mỗi người
chúng ta đều có một vị Bồ tát Lắng nghe, chúng ta phải giúp cho vị Bồ tát đó
sống dậy để chúng ta có thể lắng nghe sâu và làm vơi nhẹ khổ đau trong lòng
người. Chỉ cần lắng nghe với tâm từ bi thôi là ta đã giúp được rất nhiều
rồi.
Lắng nghe với tâm từ bi có nghĩa là ta giữ cho chất liệu từ
bi luôn có mặt trong trái tim ta trong suốt thời gian lắng nghe. Ta duy trì hơi
thở chánh niệm và luôn tự nhắc nhở: mình lắng nghe đây là để cho người kia có
dịp nói ra hết những khổ đau trong lòng, nhờ vậy mà họ bớt khổ. Chỉ cần nhớ như
vậy thôi! Và nếu ta giữ được ý thức đó thì ta sẽ được bảo hộ bởi năng lượng từ
bi, và những gì người kia nói ra sẽ không thể làm cho ta bực bội hay giận hờn
vì ta đã được bảo hộ bởi năng lượng từ bi. Nếu ta không thực tập chánh niệm và
không có từ bi trong trái tim thì chúng ta sẽ không được bảo vệ và những gì
người đó nói ra có thể chứa đầy cay đắng, trách móc và buộc tội, những điều đó
có thể làm phát khởi tâm hành buồn giận và bực bội trong ta, ta sẽ không còn có
thể tiếp tục lắng nghe được nữa. Và đó là lý do vì sao sự thực tập hơi thở ý
thức và duy trì năng lượng từ bi có thể giúp ta trở thành một người thực sự có
khả năng lắng nghe. Và nếu ta có thể lắng nghe với tâm từ bi trong một giờ đồng
hồ thôi, ta cũng đã giúp làm vơi nhẹ rất nhiều khổ đau nơi người khác rồi. Ta
có thể tự nhủ rằng: người đó đang là nạn nhân của những tri giác sai lầm, nhưng
ta sẽ không ngắt lời người đó, không giải thích gì thêm vào lúc này. Nếu làm
như vậy thì ta sẽ biến buổi lắng nghe này thành một cuộc tranh cãi và như vậy
thì sẽ phá hỏng hết mọi chuyện. Vì vậy ta chỉ lắng nghe thôi và để cho người đó
có dịp trút hết nỗi lòng của mình. Khoảng 3-5 ngày sau, ta sẽ tìm cách chia sẻ
với người đó những thông tin có thể giúp người đó điều chỉnh lại những tri giác
sai lầm của mình, nhưng không phải là bây giờ. Đó là chánh niệm về từ bi. Và
nếu ta giữ được sự thực tập chánh niệm về từ bi trong suốt thời gian lắng nghe
thì ta có thể giúp được cho người đó, ta sẽ làm cho người đó bớt khổ liền. Khi
đó ta đóng vai trò của Bồ tát Lắng nghe Quan Thế Âm, ta chính là một vị Bồ tát.
Chỉ cần thực tập trong vòng bốn hoặc năm ngày là đủ để cho ta có thể làm một vị
Bồ tát Lắng nghe.
Phép lạ của sự hòa giải
Trong những năm qua, Tăng thân Làng Mai đã tổ chức rất nhiều
khóa tu chánh niệm ở châu Âu, châu Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới.
Trong các khóa tu này luôn có những phép lạ xảy ra, phép lạ của sự hòa giải.
Trong bốn ngày đầu tiên của khóa tu, chúng ta để cho những hạt giống tốt trong
ta được tưới tẩm, những hạt giống hiểu biết, thương yêu,v.v. Chúng ta học cách
lắng nghe những khổ đau trong lòng mình, học cách chăm sóc những khổ đau đó và
sau bốn ngày thực tập, những khổ đau trong ta đã vơi bớt rất nhiều. Chúng ta
còn được học cách nói lời ái ngữ và lắng nghe sâu với tâm từ bi. Và đến ngày
thứ năm, chúng ta được khuyến khích áp dụng pháp môn lắng nghe sâu và nói lời
ái ngữ để hòa giải với những người thương của mình. Có thể người mà mình muốn
hòa giải cũng đang có mặt trong khóa tu và cũng đã biết về sự thực tập, vì vậy
mà việc hòa giải sẽ dễ dàng hơn. Nhưng nếu người đó đang ở nhà thì ta có thể sử
dụng điện thoại di động để thực tập hòa giải. Điều này thường xảy ra vào ngày
thứ năm của khóa tu. Và rất nhiều người báo cáo lại với chúng tôi rằng họ đã
thực tập thành công vào ngày thứ năm của khóa tu. Chúng tôi thường thông báo
với các bạn thiền sinh rằng: các bạn có thời gian từ bây giờ cho đến hết ngày
hôm nay để thực tập pháp môn lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ để hòa giải và
khôi phục truyền thông với những người thương của mình. Và rất nhiều người đã
sử dụng điện thoại di động để hòa giải với cha, mẹ, con cái của mình bằng sự
thực tập lắng nghe sâu và nói lời ái ngữ. Đó là phép lạ của sự hòa giải luôn
xảy ra trong các khóa tu.
Thầy chắc rằng nếu các bậc phụ huynh và các nhà giáo đều áp
dụng sự thực tập này thì sẽ có thể biến gia đình và trường học trở thành những
nơi rất dễ chịu, nơi nuôi lớn thương yêu và hạnh phúc. Có thể nói một nền đạo
đức toàn cầu cần phải được xây dựng trên nền tảng các thực tập căn bản như: làm
thế nào để lắng dịu những căng thẳng, đau nhức trong thân, giúp ngăn ngừa nhiều
loại bệnh tật do stress gây ra; làm thế nào để chế tác niềm vui và hạnh phúc
cho bản thân và cho những người thân yêu của mình; làm thế nào để xử lý một cảm
xúc mạnh, một niềm đau; phải lắng nghe và nói như thế nào để có thể nối lại
truyền thông và mang lại sự hòa giải. Và tất nhiên là các bạn không cần phải là
một Phật tử mới có thể làm được những điều này. Các bạn hoàn toàn có thể mang
những phương pháp thực tập này vào trường học và làm cho việc dạy và học trở
nên dễ chịu và vui tươi.
Nghệ thuật chế tác hạnh phúc và xử lý khổ đau
Trong kinh Quán niệm hơi thở, Bụt dạy cho chúng ta 16 bài tập
về hơi thở ý thức. Đây là những bài tập rất thực tiễn, không phức tạp mà ai
cũng có thể làm được. Chúng ta có thể nhận thấy ngay được hiệu quả chỉ sau một
hoặc hai giờ thực tập.
- Bài tập thứ nhất hết sức đơn giản, đó là: phát
khởi ý thức về hơi thở vào và hơi thở ra. “Thở vào, tôi ý thức đây là hơi
thở vào; thở ra, tôi ý thức đây là hơi thở ra”. Ta chỉ cần nhận diện hơi
thở vào và hơi thở ra. Bài tập này rất đơn giản và dễ làm, nhưng hiệu quả
thì rất lớn lao. Khi thở vào, ta đặt toàn bộ sự chú tâm vào hơi thở vào.
Hơi thở vào trở thành đối tượng duy nhất của tâm và nếu ta thực sự chú tâm
vào hơi thở vào thì ta có thể buông bỏ tất cả những cái khác. Ta buông bỏ
quá khứ, buông bỏ tương lai, buông bỏ luôn những dự án, những sợ hãi, giận
hờn, bởi vì tâm ta chỉ có một đối tượng duy nhất lúc đó là hơi thở vào.
Những tiếc nuối, đau buồn của quá khứ, những sợ hãi và lo lắng về tương
lai, tất cả những thứ đó ta đều buông bỏ hết chỉ trong một hoặc hai giây,
bởi vì ta đang tập trung toàn bộ tâm ý vào hơi thở vào. Vì vậy, hơi thở ý
thức giải phóng cho ta, giúp cho ta được tự do. Và khi ta phải làm một
quyết định nào đó thì điều quan trọng là ta cần phải có đủ tự do khi làm
việc đó. Ta không bị ảnh hưởng bởi giận hờn, sợ hãi, khi đó ta sẽ có thể
đưa ra một quyết định sáng suốt. Chỉ cần một hơi thở vào thôi là ta được
tự do rồi. Vì vậy có thể nói bài tập này rất đơn giản nhưng hiệu quả thì
thật là lớn lao.
- Bài tập thứ hai là theo dõi hơi thở vào từ đầu
cho đến cuối và theo dõi hơi thở ra từ đầu cho đến cuối. Thở vào, ta theo
sát hơi thở vào trong suốt chiều dài của hơi thở vào, không để bị gián
đoạn dù chỉ là trong một mili giây. Và trong khi theo sát hơi thở vào, ta
chế tác năng lượng định tâm. Ta không chỉ ý thức về hơi thở vào mà còn tập
trung toàn bộ tâm ý vào hơi thở vào. Năng lượng chánh niệm mang theo trong
nó năng lượng của định. Ý thức và tập trung tâm ý vào hơi thở vào có thể
mang lại cho ta cảm giác rất dễ chịu. Ta không phải khổ nhọc gì khi thực
tập, mà sự thực là chỉ cần một hơi thở vào thôi là ta đã cảm thấy dễ chịu
rồi, đặc biệt là khi không khí mát mẽ, trong lành và mũi của ta không có
vấn đề gì. Vì vậy, bài tập thứ hai này là theo dõi hơi thở vào và
hơi thở ra trong suốt chiều dài của nó. Và ta có thể thực tập bài tập 1 và
2 này vào bất kỳ lúc nào và ở bất cứ nơi đâu.
- Bài tập thứ ba là ý thức về cơ thể. Thở vào, ta
ý thức rõ rệt về toàn bộ thân thể ta. Ta đưa tâm trở về với thân, thiết
lập trạng thái thân tâm nhất như. Khi đó ta thực sự có mặt trong giây phút
hiện tại, bây giờ và ở đây. Ta thực sự đang sống và ta có thể sống giây
phút này một cách sâu sắc hơn. Bài tập thứ ba này giúp ta phục hồi được sự
toàn vẹn của thân và tâm. Nhiều khi ta ngồi trước máy tính cả hai tiếng
đồng hồ nhưng ta hoàn toàn quên mất về thân của mình. Ta không thực sự
sống trong giây phút đó. Ta chỉ có thể thực sống sống khi tâm của ta có
mặt với thân. Chỉ khi đó ta mới có thể có mặt trọn vẹn trong giây phút
hiện tại, bây giờ và ở đây, và ta có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm
của sự sống trong ta và xung quanh ta. Ở Làng Mai, các thầy, các sư cô
thường cài chương trình chuông chánh niệm vào máy tính của mình và mỗi 15
phút, các thầy các sư cô sẽ nghe một tiếng chuông từ máy tính, khi đó họ
sẽ dừng lại những công việc đang làm để trở về với hơi thở, thưởng thức
hơi thở vào, hơi thở ra, mỉm cười và buông thư những căng thẳng trong
thân. Và đó là những gì mà Bụt đã dạy cho chúng ta cách đây 2600 năm.
- Bài tập thứ tư: ta đang thở vào và làm cho toàn thân
an tịnh; ta đang thở ra và làm cho toàn thân an tịnh. Với hơi thở vào, ta
trở về tiếp xúc với cơ thể và nhận diện trong thân có những chất liệu của
sự bất an, căng thẳng. Tự nhiên ta muốn làm một điều gì đó để giúp cơ thể
ta lắng dịu và bớt căng thẳng. Và với hơi thở ra, ta buông thư hết những
căng thẳng và bất an trong thân. Đó là bài tập thứ tư về hơi thở ý thức mà
Bụt muốn ta thực tập để chăm sóc cho thân thể của mình.
- Bài tập thứ năm là chế tác niềm vui (hỷ). Với bài tập
thứ 5, ta bước sang lĩnh vực cảm thọ. Ta đang thở vào và cảm thấy mừng
vui, ta đang thở ra và cảm thấy mừng vui. Một hành giả giỏi là người biết
cách làm phát khởi một niềm vui, bởi vì người đó biết rằng chánh niệm có
thể giúp người đó nhận diện được tất cả những điều kiện hạnh phúc đang có
sẵn trong giây phút hiện tại. Chúng ta có thể tự nhắc mình và những người
thương của mình rằng chúng ta rất may mắn và chúng ta có thể hạnh phúc
liền ngay bây giờ và ở đây. Chúng ta không phải chạy về tương lai để tìm
kiếm hạnh phúc. Bụt đã dạy cho chúng ta về giáo lý Hiện pháp lạc trú. Sự
sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại mà thôi. Và nếu ta biết trở về
với giây phút hiện tại thì ta sẽ nhận ra rằng có vô số những điều kiện
hạnh phúc đang có sẵn đó cho ta, và thế là niềm vui, niềm hạnh phúc sẽ
phát khởi ngay lập tức. Cụm từ “Hiện pháp lạc trú” được nhắc lại năm lần
trong kinh. Bụt giảng kinh này cho ngài Anathapindika (còn được gọi là
Ngài Cấp Cô Độc) – một thương gia ở thành phố Savatthi. Ngày hôm đó,
Anathapindika đến thăm Bụt cùng với hàng trăm vị thương gia khác và Bụt đã
dạy cho họ rằng: “Này quý vị, quý vị có thể hạnh phúc liền ngay bây giờ và
ở đây, quý vị không phải chờ đến tương lai. Quý vị không phải đợi đến khi
có thành công trong tương lai mới có thể hạnh phúc.” Tôi nghĩ Bụt biết rất
rõ là các nhà doanh thương thường hay lo nghĩ quá nhiều về tương lai, về
những thành công trong tương lai. Vì vậy mà cụm từ Hiện pháp Lạc trú được
Bụt sử dụng đến năm lần trong kinh. Hiện pháp Lạc trú trong tiếng Phạn
là Drstadharmasukhavihara. Vihara nghĩa là an trú;sukha nghĩa là hạnh phúc; drstadharma là giây phút hiện tại. Một hành giả giỏi không bao
giờ tìm kiếm hạnh phúc nơi tương lai. Người đó biết cách trở về trong giây
phút hiện tại và nhận diện tất cả những điều kiện hạnh phúc đã sẵn đó cho
mình, và tự nhiên người đó có hỷ, có lạc ngay tức thì. Người đó thực tập
như vậy không chỉ cho chính mình mà còn cho những người khác. Chế tác hạnh
phúc là một nghệ thuật, nghệ thuật sống hạnh phúc.
- Bài tập thứ sáu là chế tác hạnh phúc.
- Bài tập thứ bảy là ý thức về cảm thọ đau buồn
trong ta. Ta đang thở vào và ý thức về sự có mặt của cảm thọ đau buồn
trong ta. Một người biết thực tập không bao giờ cố gắng chống lại niềm đau,
tìm cách khỏa lấp hoặc trốn chạy khỏi niềm đau trong lòng mình. Là một
hành giả, người đó biết làm thế nào để chế tác năng lượng chánh niệm và sử
dụng năng lượng chánh niệm để nhận diện và nhẹ nhàng ôm ấp niềm đau đó.
“Niềm đau ơi, xin chào bạn! Mình biết bạn đang có mặt đó và mình sẽ chăm
sóc bạn chu đáo”. Dù đó là cơn giận hay cảm giác sợ hãi, tỵ hiềm hoặc
tuyệt vọng, chúng ta đều phải có mặt đó để nhận diện và ôm ấp. Chúng ta
không vật lộn với những cảm thọ đó. Chúng ta không hành xử một cách bạo động
với niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Ngày hôm qua, chúng ta đã nói về
cách một người mẹ ôm đứa con đang khóc; cũng như vậy, niềm đau, nỗi khổ
trong ta cũng là một em bé cần được ôm ấp, vỗ về. Và năng lượng chánh niệm
mà ta chế tác được chính là người mẹ. Người mẹ cần phải nhận ra rằng đứa
con của mình đang khóc, và điều mà người mẹ cần làm là bế đứa con lên và
ôm nó thật nhẹ nhàng trong vòng tay của mình. Đây chính là những gì mà một
hành giả giỏi phải làm khi có một cảm thọ đau buồn phát khởi. Ta cần phải
có mặt đó cho niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Ta cần phải duy trì hơi
thở ý thức và bước chân chánh niệm để cho năng lượng chánh niệm liên tục
được chế tác. Và với năng lượng chánh niệm đó, ta nhận diện và ôm ấp niềm
đau trong mình với tất cả sự dịu dàng và thương yêu.
Trong đạo Bụt, khi nói về thức, ta thường chia ra ít nhất là
hai phần: tàng thức và ý thức. Phần bên dưới của thức được gọi là tàng thức.
Những sợ hãi, giận hờn, tuyệt vọng trong ta đều nằm sâu trong tàng thức dưới
dạng các hạt giống. Chúng ta biết là hạt giống giận của ta đang nằm trong tàng
thức và nếu nó chịu ngủ yên ở dưới đó thì ta sẽ được an ổn. Ta có thể vui cười.
Nhưng nếu một ai đó đến và nói một điều gì hoặc làm một điều gì chạm đến hạt
giống giận trong ta thì nó sẽ phát khởi thành một loại năng lượng. Khi ở dưới
tàng thức, nó được gọi là một hạt giống, một chủng tử, nhưng khi nó biểu hiện
lên trên bề mặt ý thức thì nó trở thành năng lượng, được gọi là tâm hành. Khi
một hành giả nhận thấy tâm hành giận đang phát khởi thì ngay lập tức người đó
phải trở về với hơi thở và mời hạt giống chánh niệm biểu hiện lên trên ý thức
dưới dạng năng lượng chánh niệm. Nếu chúng ta thực tập giỏi thì hạt giống
chánh niệm trong ta mỗi ngày một lớn lên và trở thành một hạt giống rất quan trọng.
Và khi cần, ta chỉ cần chạm nhẹ vào hạt giống đó là năng lượng chánh niệm phát
khởi ngay tức thì. Còn nếu ta không thực tập thì hạt giống chánh niệm vẫn có đó
nhưng nó chỉ bé xíu thôi. Mỗi ngày, nếu ta thực tập thở và đi trong chánh niệm
thì hạt giống chánh niệm trong ta sẽ lớn lên mỗi ngày. Và bất cứ khi nào cần
đến năng lượng chánh niệm, ta chỉ cần chạm nhẹ là có thể làm phát khởi nguồn
năng lượng hùng hậu, có thể giúp ta xử lý với bất cứ điều gì đang xảy ra với ta
trong giây phút đó. Chẳng hạn như trong trường hợp cơn giận phát khởi thì chính
năng lượng chánh niệm mà ta chế tác được sẽ chăm sóc năng lượng giận trong ta.
Ta không vật lộn, không bạo động với những cảm xúc mạnh trong ta. Chánh niệm ít nhất có hai tác dụng: trước hết là
nhận diện đơn thuần sự có mặt của một niềm đau, nỗi khổ trong ta. Đó là nội dung của bài
tập thứ 7. Ta đang thở vào và ý thức cơn giận (hay cảm xúc ganh ghét hoặc tuyệt
vọng, v.v) đang có mặt trong ta. Ta chỉ đơn giản nhận diện sự có mặt của các
cảm thọ đó mà thôi, không tìm cách đàn áp hay vật lộn với chúng. Và tác dụng thứ hai của chánh niệm là ôm ấp các
cảm thọ đó. Đây là
nội dung của bài tập thứ 8.
8. Bài tập thứ 8: làm lắng dịu niềm đau như một người
mẹ ôm ấp đứa con của mình. Người mẹ chưa biết chuyện gì xảy ra với đứa bé
nhưng chỉ cần bà dịu dàng ôm đứa bé trong vòng tay thôi cũng đủ làm cho
đứa bé bớt khổ rồi. Điều này cũng tương tự đối với một hành giả. Mặc dù
chưa biết nguyên nhân dẫn đến cơn giận hoặc nỗi sợ hãi đang phát khởi,
nhưng chỉ cần người đó biết nhận diện và ôm ấp năng lượng đó thì chỉ trong
một hoặc hai phút thôi là người đó đã bớt khổ nhiều lắm rồi.
Tám bài tập trên đây giúp cho chúng ta học được cách chế tác
hỷ, lạc và cách chăm sóc một cảm thọ đau buồn và làm lắng dịu niềm đau. Đây
chính là nghệ thuật chế tác hạnh phúc và xử lý khổ đau.
Với những bài tập tiếp theo, chúng ta có thể đi sâu hơn,
chuyển hóa niềm đau, nỗi buồn, sự sợ hãi thành năng lượng tích cực hơn, cũng
giống như sử dụng bùn để trồng nên sen. Vì vậy, một hành giả giỏi là người
không sợ khổ đau, không tìm cách trốn chạy khổ đau, mà ngược lại, người đó biết
cách có mặt cho niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Người đó biết cách xử lý một
niềm đau, một cảm xúc mạnh và biết cách sử dụng chất bùn đó để chế tác hiểu
biết và thương yêu – hai yếu tố căn bản để làm nên hạnh phúc chân thực.
Có thể nói rằng với một nền đạo đức toàn cầu, với sự thực tập
chánh niệm và với một hướng đi tâm linh áp dụng trong đời sống hằng ngày, chúng
ta sẽ biết cách vượt qua những khó khăn của đời sống. Và đó là lý do vì sao mỗi
người trong chúng ta nên có một hướng đi tâm linh như vậy trong cuộc đời mình.
Nếu không có điều đó, chúng ta sẽ không biết xử lý như thế nào trước những khó
khăn của đời sống.
Hình ảnh người mẹ ôm đứa con vào lòng là một hình ảnh rất
hay. Nếu năng lượng chánh niệm trong ta đủ mạnh thì ta có thể ôm ấp niềm đau,
nỗi khổ trong lòng mình. Trong khi ôm ấp cảm thọ, ta tiếp tục duy trì hơi thở
hoặc bước chân chánh niệm trong vòng 3 hoặc 5 hoặc 10 phút, giống như ta mở ra
một con đường chánh niệm cho năng lượng sợ hãi hoặc giận hờn trong ta. Sau khi
đi theo con đường chánh niệm, năng lượng đau buồn, hờn giận hay sợ hãi trong ta
sẽ trở về lại tàng thức dưới hình tướng hạt giống như xưa nhưng đã yếu đi ít
nhiều. Đó là sức mạnh của chánh niệm.
Trong truyền thống đạo Bụt, chúng ta thường nói về 51 tâm
hành. Khi còn là một sa di, tôi phải học thuộc lòng tất cả 51 loại tâm hành
này. Và mỗi khi một tâm hành phát khởi, tôi có thể gọi đúng tên của tâm hành
đó. “Chào anh bạn sợ hãi, tôi biết tên anh rồi đó. Tôi sẽ chăm sóc cho anh thật
chu đáo.” Nhận diện và ôm ấp tâm hành, đó là bước đầu tiên của sự thực tập.
Trong tàng thức của chúng ta có rất nhiều những hạt giống
tích cực như hạt giống niệm, định, tuệ, từ, bi, hỷ, xả, v.v. Là một hành giả
giỏi, chúng ta phải biết cách nhận diện những hạt giống tốt và giúp cho những
hạt giống này phát khởi thường xuyên, bởi vì khi những hạt giống này biểu hiện
sẽ làm cho quang cảnh của tâm ý ta đẹp hơn lên. Và chúng ta sẽ hạnh phúc nếu
biết cách mời những hạt giống tốt biểu hiện lên trên ý thức dưới dạng các tâm
hành tích cực.
Đối với các tâm hành tiêu cực như giận hờn, sợ hãi, tuyệt
vọng thì chúng ta nên giữ cho chúng ở dưới tàng thức, đừng cho chúng cơ hội
biểu hiện lên trên ý thức, và như vậy thì chúng sẽ yếu dần, yếu dần…Chúng ta
làm điều đó cho chính chúng ta và chúng ta cũng đồng thời giúp cho những người
thương của mình cũng làm được như vậy.
Khi nói về đời sống của giáo viên, chúng ta biết rằng trong
thầy cô giáo cũng có những khổ đau và trong các học sinh cũng có nhiều khổ đau.
Và đó là lý do vì sao một
nhà giáo cần phải biết cách xử lý, chăm sóc khổ đau của chính mình và biết cách
chế tác niềm vui, niềm hạnh phúc cho chính mình. Nếu các nhà giáo đều làm được
như vậy thì họ sẽ trở thành những nhà giáo hạnh phúc, họ sẽ bớt khổ đau và khi
đến lớp học, họ cũng sẽ giúp các học trò của mình làm được tương tự như vậy.
Áp dụng sự thực tập chánh niệm trong lớp học
Khoảng hai thập kỷ cuối của thế kỷ trước, có một giáo sư toán
học ở Toronto, ông dạy tại trường Toronto French School. Sau khi tham dự một
khóa tu được tổ chức tại Montreal, ông trở về trường và tìm cách áp dụng sự
thực tập hơi thở ý thức và thiền hành vào lớp học. Tên của ông là Henri Kỷ
Cương. Khi đó, Henri là Chủ nhiệm khoa Toán của trường Toronto French School.
Một hôm, có hai nhà báo của The Globe and Mail, một tờ báo
lớn ở Toronto, tìm đến lớp học của Henri và phỏng vấn ông. Hai phóng viên muốn
điều tra xem Henri có đem Phật giáo vào trường học không, vì đó là điều rất cấm
kỵ ở Canada. Henri vui vẻ mời hai phóng viên vào một lớp học của mình để xem
cách ông dạy học sinh của mình như thế nào. Cái ngày mà Henri trở về từ khóa tu
tại Montreal, khi vào lớp học, ông đi rất chậm rãi và nhẹ nhàng, khi lên lau
bảng ông cũng lau thật thong thả và chánh niệm. Học sinh của Henri lấy làm lạ, chúng
bèn hỏi: Papa (cách gọi thân mật mà học trò gọi Henri), Papa đang bị ốm phải
không? Henri mỉm cười trả lời: Không, thầy không ốm, thầy đang thực tập chánh
niệm. Và rồi Henri kể cho học sinh của mình nghe về những điều mình đã học được
tại khóa tu: cách thở, cách đi, cách làm lắng dịu thân tâm, v.v. Henri đề nghị
kể từ nay, cứ mỗi 30 phút, một học sinh tình nguyện vỗ tay lên ba tiếng “bốp,
bốp, bốp” (để thay thế cho tiếng chuông chánh niệm) và tất cả thầy trò đều dừng
lại thở vào thở ra ba lần để lắng dịu thân tâm. Nhờ vậy mà học trò của Henri
học tiếng bộ lên rất nhiều, có rất nhiều niềm vui và sự hứng khởi trong các giờ
học. Henri đã áp dụng phương pháp này cho nhiều lớp học mà mình dạy. Vì vậy mà
khi hai nhà báo vào lớp của Henri, họ được chứng kiến cảnh Henri cùng các học
trò của mình cùng học và cười thật thoải mái với nhau. Mỗi khi có tiếng vỗ tay
là cả thầy và trò đều dừng lại việc dạy và học để thưởng thức hơi thở vào và
hơi thở ra. Điều này tạo ra ảnh hưởng rất tích cực đến việc dạy và học của trường.
Khi Henri đến tuổi về hưu, Ban Giám hiệu của trường đã đề nghị ông tiếp tục dạy
thêm ba năm nữa. Và nhiều lớp học khác trong trường cũng đã áp dụng cách dạy
này của Henri.
Đối với một giáo viên, điều trước tiên cần phải làm là trở về và
chăm sóc cho chính mình. Để có thể đi ra giúp mọi người thì trước tiên ta
phải biết trở về chăm sóc cho chính mình. Người giáo viên cần phải học cách chế
tác niềm vui, niềm hạnh phúc, học cách xử lý một cảm thọ đau buồn, học cách
lắng nghe khổ đau và làm phát sinh năng lượng hiểu biết, thương yêu để ôm ấp
khổ đau đó. Đây là bước đầu tiên mà một giáo viên cần phải thực tập. Mình phải
bắt đầu với chính mình trước tiên.
Người giáo viên còn có gia đình, có vợ/chồng và các con của
mình. Vì vậy, sau khi đã thực tập với chính mình, người đó có thể giúp những
người thân trong gia đình mình thực tập theo. Điều này sẽ dễ dàng hơn. Nếu
không thay đổi chính mình trước thì ta khó mà giúp được người khác thay đổi,
khó mà giúp người khác chuyển hóa khổ đau. Vì vậy, với sự thực tập ái ngữ và
lắng nghe, với sự bình an và nhẹ nhàng trong tự thân, ta sẽ trở nên dễ chịu hơn
đối với người khác, vì vậy mà ta có thể giúp được cho người khác dễ dàng hơn.
Vợ hay chồng của ta cũng cần phải thực tập tương tự như vậy.
Và cả hai sẽ trở thành đạo hữu của nhau. Cả hai vợ chồng cùng chia sẻ sự thực
tập, và như vậy, không khí gia đình sẽ thay đổi, sẽ có nhiều bình an, nhiều
niềm vui và những khổ đau cũng vơi đi rất nhiều. Và khi đã có một gia đình hòa
thuận, êm ấm, ta có thể mang sự thực tập đến nơi làm việc của mình. Ta bắt đầu
áp dụng sự thực tập với lớp học của mình, với các học trò của mình. Với sự thực
tập, ta có thể làm cho lớp học trở thành một nơi hạnh phúc hơn.
Lớp học có thể trở thành gia đình thứ hai của các em học sinh. Bởi vì có nhiều trẻ em không
được may mắn có một gia đình êm ấm, cha mẹ của các em thường xuyên bất hòa, họ
đánh đập, cãi vã với nhau. Các em không có cơ hội để biết thế nào là tình
thương yêu. Vì vậy, lớp học có thể đem lại cho các em cơ hội thứ hai và người
giáo viên có thể đóng vai trò một người cha, người mẹ để dạy cho các em biết
thế nào là thương yêu và mang lại cho các em niềm tin rằng tình thương là một
điều có thật trong cuộc đời này.
Thầy nhớ trong khóa tu mùa hè vừa rồi ở Làng Mai, có một em
nhỏ lên đặt câu hỏi trong buổi vấn đáp và em đã làm cho cả đại chúng rơi nước
mắt. Em nói rằng cha mẹ của em đã ly dị nhau, họ đánh đập, cãi vả với nhau và
làm cho nhau đau khổ. Nhiều khi họ còn đánh đập nhau trước mặt con cái. Và em
đặt câu hỏi rằng: tình yêu là gì? con không biết thế nào là tình yêu. Tại sao
cha mẹ của con lại đánh đập nhau ngay cả trước mặt chúng con? Nhiều người đã
khóc khi nghe câu hỏi đó, rất là đau lòng. Vì vậy, Thầy nghĩ rằng chúng ta có
thể mang lại cho những trẻ em như vậy một cơ hội thứ hai bằng cách biến lớp học
thành một gia đình. Giáo sư Henri Kỷ Cương đã làm được như vậy. Sau khi thành
công với lớp học của mình rồi, ta có thể áp dụng sự thực tập với các lớp khác
trong trường, với Ban Giám hiệu, và như vậy chúng ta sẽ có thể nâng cao chất
lượng dạy và học trong cả trường học.
Pháp thoại ngày 12 tháng 8 năm 2013 trong khóa tu “Thầy cô giáo
hạnh phúc sẽ làm thay đổi thế giới” (“Happy teachers will change the world”)
tại Đại học Brock (Toronto, Canada).
Sư cô Tại Nghiêm chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh.