Vai Trò Của Hàng Cư Sĩ Phật Tử
Tống Hồ Cầm
16/09/2011 06:28 (GMT+7)


Hàng ngũ cư sĩ thuộc bất cứ tổ chức, hệ phái Phật giáo nào đã là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tất đều có vai trò trách nhiệm của mình trong Giáo hội. Nói đến vai trò là nói đến nhận thức và hành động, là nói đến nhiệm vụ và tác dụng, thấy rõ chỗ đứng thực tế và có cách nhìn chính đáng; khỏi có sự lúng túng mà đem lại sự hòa hảo, bổ ích trong sinh hoạt của giới mình.

Thứ nhất là về nhận thức

Phật tử chúng ta chân thành qui ngưỡng Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng. Ðức Phật đã giác ngộ hoàn toàn là vì con người, giúp con người tiến lên con đường giác ngộ với cuộc sống đầy đủ ý nghĩa nhất của con người. Ðạo Phật trên 25 thế kỷ tồn tại cũng vốn chỉ là một đạo pháp phục vụ con người với ý nghĩa quang vinh của tên gọi này. Cho nên chúng ta học Phật là học làm những con người mang tính chất nhân đạo, nhân ái, biết giải tỏa mọi xiềng xích tiềm ẩn ràng buộc thân tâm để tự giải phóng cho mình và cùng với mọi người phát huy những phẩm chất tốt đẹp nhất của mỗi bản thân có sẵn, để tạo lấy cho nhau một đại đồng an lạc. Chính vì chủ nghĩa nhân đạo chân chính đó mà người Phật tử luôn luôn ý thức dứt khoát rằng nhân đạo đâu phải là một danh từ mỹ miều rỗng tuếch, một cách nói suông; càng không phải là thái độ yếu kém dễ dàng buông thả, mà chính xác là mang tính chất trung thực và quyết tâm hành trì thực hiện.

Từ ngàn xưa, Ðức Phật với lòng thương yêu và quí trọng con người, đã thuyết pháp hóa đạo và nêu gương hành động suốt cả cuộc sống đại từ đại bi. Vì không tự giác không thể giác tha, và phải biết tự độ chính đáng mới có thể độ tha chính đáng. Ðạo Phật chỉ có một phẩm vị, một mục đích là sự giải thoát đem lại hạnh phúc cho tất cả. Ðức Phật là đích sáng (Giác) cho Phật tử chúng ta hướng đến con đường (Chánh) đưa chúng ta đến đích rạng rỡ của Phật tính, được Ðức Phật vạch ra những đạo lý xuyên suốt (Kinh) phù hợp với mọi căn cơ, trình độ lãnh hội - là pháp bảo dành cho chúng ta tu dưỡng bước dần tới đích. Với các bậc chân Tăng không nhiễm trước (Tịnh) có đủ đức tính tiêu biểu cho giáo pháp của Phật, chúng ta có bổn phận cung kính thân gần (cận sự) ủng hộ, để mình được nâng đỡ; bước đúng theo con đường chánh pháp, dẫn tới đích chánh đạo. Tự trau dồi, thực nghiệm bản thân (thân chứng) là điều chủ yếu của người học Phật chân chính. Chỉ có cái biết chân thật mới thể hiện được cái hành động chân thật, cũng như mọi xu hướng tốt đẹp được đánh giá chính xác, đều phải căn cứ vào thực tiễn hành động tốt đẹp.

Thứ hai là về hành động

Cư sĩ chúng ta là số người thuộc trong số đông quần chúng nhân dân lao động, khoa học, trí thức, gắn liền với sự nghiệp đóng góp thiết thực, thích nghi vào cuộc sống xây dựng đất nước. Cho nên với điều kiện và thời giờ tranh thủ có được, chúng ta trong tình cảm tôn giáo của mình, nên tập trung vào mặt tu thiện và hành thiện, phù hợp với phạm vi tu học thực hành của giới cư sĩ. Ý nghĩa tu hành này là không tách rời ý thức trách nhiệm hiện nay của chúng ta đối với xã hội. Việc hộ pháp hộ đạo của cư sĩ chúng ta là việc bảo tồn phẩm chất tín ngưỡng trong sáng nơi cảnh thiền môn, đồng thời là việc phát huy tác dụng của đạo pháp vào cuộc sống nhân văn thăng tiến. Tụng niệm, lễ bái, tiếp thụ giáo lý là để cải hóa thân tâm, tăng cường trí dũng - phát xuất từ tính Phật đại hùng đại lực - để có khả năng kết hợp với tình hình đất nước phát triển, dân tộc thăng hoa, tạo được nhiều cống hiến đích thực. Trong khí thế vươn lên của xã hội đại chúng ngày nay, đừng bao giờ quên mình là một nhân tố tự hào của mọi mặt tăng gia phát triển tốt đẹp.

Tu thiện và hành thiện của cư sĩ Phật tử hôm nay cũng bao hàm ý nghĩa thực tiễn của cái thực chân, làm tỏa rộng tươi sáng cuộc sống nhân gian, xóa sạch mọi hình thái tàn dư độc hại và mê hoặc, mượn danh Phật giáo vào những mưu đồ bất chính. Kinh điển chúng ta tìm đến là kinh điển chứa đựng ý nghĩa đầy đủ, rốt ráo và bao quát, từ kim khẩu của Phật truyền đạt. Ðó là liễu nghĩa kinh mà Phật tử chúng ta tham cứu, đem hết tinh thần học hỏi cầu tiến, và phải dựa vào sức tinh luyện của mình.

Thứ ba là nhiệm vụ và tác dụng

Cung cách tùy thuận tùy duyên của đạo Phật là không ngoài sự nhận thức được chân lý Diệt đế, không xem khổ ải là trở ngại để trốn tránh, cũng chẳng cầu thụ chứng cảnh giới xa vời đâu khác ngoài thực tại thế gian, không tách rời đồng ưu cộng lạc với đại chúng quần sinh. Bao nhiêu của cải xuất phát mà ta thọ dụng là gia sản do hàng ngàn hàng vạn bàn tay ân nhân trong hiện tại và của nhiều đời trước tổng hợp điều kiện mới làm ra được. Bởi vậy, con người từng được nuôi dưỡng hằng ngày cả thể xác lẫn tinh thần là nhờ xã hội có sự sáng tạo ra của cải vật chất. Trên thực tế, số đông đã động não, đã nỗ lực vì mình, tất nhiên mỗi chúng ta phải vì mọi người mà ra sức đáp đền ơn nghĩa. Ðó là sự thể hiện một cách cụ thể trong bốn trọng ân (Tứ ân) đạo Phật đã dạy chúng ta. Chính lao vào công việc và hòa hợp, đoàn kết sinh hoạt với đồng đạo, đồng bào thì tài đức chúng ta mới có môi trường, cơ hội nẩy nở, và được đánh giá đúng tác dụng của pháp Lục hòa, Tứ nhiếp của nhà Phật. Và có như thế đạo pháp mới biểu thị thông qua người chánh tín Phật tử bằng hành động thực tiễn. Từ đó góp phần phúc lợi đại chúng, đẩy mạnh thực hiện nếp sống văn minh trong gia đình, giáo dục con cái, trong giao hảo bạn bè cùng tập thể hội đoàn. Và đối với sự phát triển của Giáo hội thì mới nói lên được là chúng ta đang giữ đúng vai trò xúc tiến nhất định không thể thiếu vắng của giới mình.

Như trên đã nói, hàng cư sĩ Phật tử là giới đông đảo của Phật giáo nằm trong quần chúng nhân dân lao động về nhiều mặt. Chúng ta đang sống cuộc sống đồng bộ của số đông, thì nếp sống đạo của chúng ta là nếp sống đạo nhập thế của pháp môn Nhân thừa, là một thực thể của xã hội có nhiều năng động tạo niềm vui lẽ sống trong sáng, vốn là chủ trương thực tâm của người Phật tử biết chan hòa tình thương nhân bản, thích nghi vào mọi quan hệ cộng đồng xã hội phát triển, làm lẽ sống thanh cao kết hợp với tinh thần Phật giáo. Chỉ có việc làm đúng đắn của người Phật tử tại gia đạo đời trọn vẹn mới xác minh được cụ thể vai trò của mình.

 

***

Trong quá trình chấn hưng Phật giáo trong cả nước, gắn bó với nền văn hóa dân tộc, làm rạng rỡ lịch sử Phật giáo VN, giới cư sĩ Phật tử đã từng tự hào với vai trò của mình.

Thơ, văn, ca nhạc, hội họa, điêu khắc, nhất thiết đều có sự đóng góp không nhỏ của những nhân sĩ, trí thức, nghệ nhân thấm nhuần Phật học. Phong cách thờ tự, trang trí, lối sinh hoạt luận đạo, viết báo viết sách, mở trường đưa vào thế học, Phật học cho Tăng Ni ngày nay mở mang không ít trong Giáo hội, phần lớn đã xuất phát từ những đạo tâm công phu liên tục vững vàng của giới cư sĩ thuần thành, trung kiên với Ðạo pháp.

Ngày nay, Giáo Hội Phật Giáo VN sinh hoạt trong khối đoàn kết dân tộc, là do vận hội đất nước có đủ nhân duyên, điều kiện hơn cả, để Tăng Ni và cư sĩ Phật tử chúng ta vận dụng hết các mặt tinh hoa của đạo lý thành hành động hài hòa với lý tưởng tiến bộ, văn minh thời đại, nâng cao phục vụ xây dựng, bảo vệ quê hương yêu quí của chúng ta, vì hòa bình bảo tồn sự sống tốt đẹp của loài người.

Những khó khăn trước mắt là những khó khăn chung nhất định mà chúng ta đã biết thì hẳn có phương cách khắc phục. Ðạo Phật cũng đã nhận định không có khả năng thì không có tiến bộ và phát triển, không có phiền não thì không có Bồ đề chiếu diệu thành hạnh phúc cực lạc. Quy luật biến đổi những cái cũ lỗi thời đem lại những cái mới tân kỳ, tuyệt diệu là điều tất yếu, tất nhiên của qui luật phát triển lịch sử và phát triển xã hội. Chính vì không chấp nhận cái khổ đè nén con người mà Ðức Phật vạch ra con đường diệt khổ, làm sáng giá cuộc sống.

Vậy với hạnh tu trì quyết tâm thực hiện, người Phật tử tại gia xem mọi khó khăn là điều kiện để trưởng thành. Trưởng thành trong cuộc sống mới, mỗi ngày mỗi mới, vừa ích mình lợi người, phục vụ quốc tế dân sinh. Với hạnh hoan hỷ của nhà Phật, chính là đức tính lạc quan phấn đấu của người chánh tín Phật tử trong mọi trở ngại chủ quan hay khách quan, để thúc đẩy chúng ta cùng đồng đạo, đồng bào phát huy hết khả năng giành nhiều thắng lợi cho Ðạo pháp, cho đất nước ngày nay.

Nguyệt San Giác Ngộ 29

Các tin đã đăng: