Vượt qua trầm cảm
23/04/2013 13:25 (GMT+7)


Trầm cảm là con người có tâm hồn trầm lắng, điều này khiến người ta dễ hiểu lầm về thái độ trầm lắng của Phật và các Sa-môn. Có thể khẳng định rằng trầm cảm phát xuất từ nghiệp của con người khiến họ đi đến bệnh hoạn, cần phải khắc phục. Đức Phật và Sa-môn  trầm mặc, vì sống với tinh thần và trí tuệ vô lậu phát sanh từ tâm hồn thanh tịnh.


Người hiện đại dễ bị trầm cảm vì có quá nhiều nỗi lo lắng, sợ hãi - Ảnh minh họa

Mặc cảm do nghiệp mình từ bên trong phát sanh ra có hai là tự ti mặc cảm, tức là tự thấy mình không bằng ai, từ tự ti mặc cảm, họ lánh xa người để có đời sống khép kín đến mức tâm hồn bệnh hoạn là trầm cảm. Đây là một loại bệnh cần chữa trị, khác với tâm tĩnh lặng. Từ mặc cảm tự ti đưa đến trầm cảm, nên nhìn đời không đẹp và thấy khổ là một loại bệnh của thời đại.

Hạng người học hành, hay làm ăn thất bại, sanh ra buồn khổ, xa lánh mọi người và tâm hồn lúc nào cũng u tối, khác với người trụ định trong thế giới tu hành. Người trụ định hướng về nội tâm, phát triển trí tuệ, nên mặt sáng tiêu biểu cho hào quang chứng tỏ tâm hồn đã trong sáng, nên thấy được bề mặt và bề trái của cuộc đời, đó chính là Đức Phật. Còn phần nhiều người ta không thấy bề trái và cũng không tìm hiểu bề trái để khắc phục. Còn Phật thấy bề ngoài và hiểu được bề trái là thấy nguyên nhân sâu xa tiềm ẩn nhiều đời và Ngài thí nghiệm nhiều lần thấy chính xác bề trái, gọi là chân lý bên trong, hay Tập đế và Đạo đế.

Thấy bề ngoài khổ, gọi là Khổ đế, nhưng không thấy nguyên nhân sâu xa, nên nghiệp và phiền não tăng trưởng.

Thí dụ thấy bề ngoài người khỏe mạnh, giàu có, địa vị hơn ta sẽ làm ta mặc cảm tự ti cho đến trầm cảm, còn thấy ta hơn người thì sanh ra mặc cảm tự tôn. Theo Phật, hai tâm này đều là nghiệp. Trái lại, dưới cái nhìn trầm mặc của Phật, thấy được con người thực của chúng ta, nghĩa là nhìn lên, chúng ta thấy mình không bằng Thánh Tăng, A-la-hán, Bồ-tát và Như Lai, nhưng nhìn xuống lục đạo tứ sanh, chúng ta còn hơn họ. Bấy giờ thấy con người thực của chúng ta ở đâu và ta là gì.

Phật dạy rằng nhìn người thấy hơn mình, ta tìm xem nguyên nhân tại sao họ hơn, hay tại sao họ thua kém thì chúng ta cố khắc phục sự thua kém để đi lên cho bằng họ và khởi ý niệm thương xót, dìu dắt người kém ta để giúp họ bằng ta; đó là tâm lý của Phật giáo mà đệ tử phải áp dụng trên bước đường tu.

Hiền thánh hơn ta sức thông minh và sự hiểu biết. Hiểu biết khác với thông minh. Ta dạy người hiểu biết được, nhưng họ không thông minh, ta không làm cho họ thông minh được. Tôi có một người bạn học giỏi là người Việt Nam làm thẩm phán đầu tiên, ông nói một câu khiến tôi suy nghĩ. Ông nói lao động hóa trí thức thì được, nhưng trí thức hóa lao động không được; vì khi đất nước ta độc lập một nửa, ông ở miền Bắc tham gia việc chống nạn mù chữ khiến ông rất vất vả. Người trí thức lao động một thời gian ngắn, họ vượt hơn người nông dân về kỹ thuật, nhưng bắt người lao động học thì khó lắm. Thuở nhỏ tôi đi học ngồi cạnh người con của bà bán bánh bò, nó chỉ ăn một nửa bánh, để cho tôi một nửa để bảo tôi học thế dùm nó!

Đức Phật nhìn sâu xa hơn, thấy tất cả các loài đều có thể thành Phật, nhưng người thành trước, người thành sau; vì Phật thấy nguyên nhân chính là nghiệp. Vì vậy, phá được nghiệp này để vượt qua, vì sự nỗ lực được hướng dẫn có thể thay đổi là bước đường tiến hóa của con người, chúng ta thấy rõ ý này. Người đi học có bằng cấp, mình không học không có bằng cấp, tức họ hơn mình bằng cấp, nhưng chưa chắc họ thông minh hơn ta, nên điều này cũng không đáng ngại. Nếu chúng ta thông minh, nỗ lực học cũng bằng họ.

Đọc truyện Lưu Bình Dương Lễ, chúng ta thấy Dương Lễ không thông minh bằng Lưu Bình. Lưu Bình chỉ có nghiệp lười, ham ăn chơi. Dương Lễ nhờ siêng năng học, nên tốt nghiệp, được làm quan. Dương Lễ không thông minh hơn, nhưng nhờ cần cù là học được. Còn thông minh thì khó, nhưng khi Lưu Bình quyết tâm học, chỉ một thời gian ngắn làm quan cao hơn Dương Lễ là nhờ có sức thông minh, biết khai thác thì trở thành người quan trọng.

Đối với người kém thông minh, Phật cũng thấy, Phật thấy Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát cho đến chúng sanh các loài đều có Phật tánh, tức thông minh, nhưng chưa được khai thác. Đạo Phật nhắm vô thông minh, không phải khai thác văn tự, gọi là vô tự chân kinh tức muốn dạy chúng ta làm Phật; nói cách khác là phát triển sự thông minh gọi là vô lậu học. Học để phát huy huệ vô lậu, tức sức thông minh; không phải học ngữ ngôn văn tự khiến chúng ta dễ chán, lạc vô cách học này thì càng học rộng dễ thành người mặc cảm. Huệ vô lậu phát sanh để chúng ta thông minh như A-la-hán, Bích chi Phật, Như Lai, các Ngài không học ngữ ngôn văn tự, nhưng học để phát huy sức thông minh, vượt qua tất cả và trở thành hiền thánh; nhưng đầu tiên chúng ta phải vượt qua trước, mới giúp người vượt qua.

Khi Phật còn là thái tử, Ngài thương tất cả mọi người, nhưng không biết làm sao cứu họ, cũng như chúng ta xác định sức người có hạn, ta muốn giúp nhưng không giúp được. Phật cũng vậy, không cứu được vì lúc đó chưa có sức thông  minh để biết cách giúp. Vì vậy, Ngài tu là cố tìm ra cách để cứu chúng sanh, gọi là đi tìm đạo.

Đạo của Phật tìm ở đâu. Ngài đi, nhưng không tìm thấy đạo. Tôi đã trải nghiệm con đường tìm đạo, lang thang từ chùa này sang chùa khác cũng không thấy được đạo. Khi Phật ngộ đạo được, Ngài mới tuyên bố không có gì không phải là đạo mới là đạo, không có người nào không phải là Phật thì chính đây là Phật, không có chỗ nào không phải chúng hội đạo tràng mới là đạo tràng. Kinh Pháp hoa diễn tả ý này là không nhứt thiết phải ở chùa, nhưng thực người ngộ đạo thì ở chỗ nào, chỗ đó là đạo tràng.

Phật ngộ đạo ở cây bồ-đề, gọi là Bồ-Đề Đạo Tràng; nhưng Phật đến Lộc Uyển, Trúc Lâm thì nơi đó là đạo tràng. Sự hiện hữu của người ngộ đạo rất quan trọng, nếu chúng ta cứ chấp Bồ-đề là đạo tràng, nhưng đến đạo tràng này, chúng ta thấy gì? Tôi đến Bồ-Đề Đạo Tràng nhiều lần thấy rất nhiều người của các dân tộc tụ họp nơi đây, làm cho cảnh trí trở thành bát nháo và qua chuyến hành hương nửa tháng đi từ non Linh Thứu đến Lộc Uyển và Câu Thi Na, thấy những nơi này là những phế tích hoang tàn đổ nát, làm sao thấy Phật được.

Tuy bề ngoài thấy vậy, nhưng khi tôi lắng lòng xuống, có đời sống trầm mặc mới nhìn thấy thế giới của tâm hiện ra thì cảnh giới này trở thành muôn màu muôn vẻ. Lần đầu tôi cảm giác tâm tôi đi ngược về quá khứ là nhìn phế tích thấy được mấy ngàn năm trước khi Phật còn là thái tử đến nhập định ở gốc cây bồ-đề, hay nói cách khác, trở lại đời sống nội tâm thì từ đời sống nội tâm này hiện lên Phật quá khứ, thấy cảnh đổ nát hoang tàn ngày nay chúng ta có từ đâu và từng bước thấy nước Ấn Độ ở thời kỳ Phật và sau thời kỳ Phật, mới thấy Hồi giáo tàn sát Phật giáo và thấy phản ứng của Tăng Ni, Phật tử đối với Hồi giáo, nghĩa là thấy cảnh này diễn ra trong nội tâm, tôi hình dung ra Phật giáo như thế, nên thấy hai trăm lính Hồi giáo mà tiêu diệt được cả hai vạn Tăng ở Nalanda.

Từ đó, tôi so sánh ví như hai trăm con chó sói với hai vạn con cừu. Ta tu mà biến thành con cừu là nguy hiểm, là Phật giáo quá khứ đã vậy và từ đó, tôi rọi ngược về Phật giáo Việt Nam thời Lý Trần lại thấy khác, thấy chúng ta có hai trăm con voi, sư tử. Phật giáo ví như là voi, là sư tử, không phải là cừu; đó chính là thế giới vô hình dưới mắt Đại thừa. Vì vậy, tôi có ý niệm làm sao biến cừu thành voi mới là đạo Phật. Phật giáo ví như voi có khả năng vác nặng đi ngược dốc mà không ai có sức ngăn cản được. Bồ-tát Văn Thù và Phổ Hiền tiêu biểu cho sức mạnh của voi, sư tử ở hội Hoa Nghiêm. Ta cũng là voi, là sư tử, nhưng được huấn luyện trong tinh thần tiêu cực, thành người ăn hại, nên mặc cảm mình là cừu, không bằng ai; đạo Phật không phải như vậy.

Thấy người để chúng ta so sánh và vượt khó để chúng ta làm Phật, Bồ-tát, Thánh hiền. Nếu chúng ta đã có sức thông minh thì đi vào con đường này rất nhanh.

Chúng ta trở lại thời Trung cổ của Phật, cũng như Phật trở lại thời Phật quá khứ, Ngài nói ở Bồ-Đề Đạo Tràng xưa kia các vị Cổ Phật cũng đã thành Phật ở đây. Đọc kinh thấy vậy, nhưng Cổ Phật có ở đây hay không. Đức Phật thấy các vị Cổ Phật bằng tâm. Khi có sức thông minh, hay huệ phát thấy được vật như trái cam để trên bàn tay, nên Phật thấy luôn ba đời nhân quả, thấy người liên hệ với mình thế nào và dùng pháp gì để độ là bước thứ hai, Phật phá được sự trầm cảm. Phật đã dẫn dắt người tự ti mặc cảm, sa cơ, bị xã hội khinh rẻ tiến lên. Ngài đã chuyển hóa tâm tội lỗi, tâm không bằng ai của họ trở thành ý chí phấn đấu đi lên.

Ngày nay, nếu trong nhà có con em sa cơ, mặc cảm thì ta là người thay Bồ-tát để chia sẻ với con em. Trái lại, khi con mình lỡ bước sa chân, mình nóng giận, mắng chửi, xua đuổi nó là đẩy nó vào con đường cùng, trong khi đó, nó cần sự chăm sóc của mình để vượt qua bệnh trầm cảm. Người bị xã hội khinh rẻ, lại bị cha mẹ ghét bỏ thì làm sao sống nổi.

Vì vậy, chúng ta cần tìm hiểu để an ủi, chia sẻ nỗi khổ niềm đau, để tháo gỡ được thì tâm lý xấu của đứa trẻ được hóa giải, mặt nó tươi tỉnh lại, bớt khổ, nhân đó bệnh trầm cảm của nó được phá bớt một phần; nhưng muốn làm được như vậy, chúng ta phải tu để có năng lực chuyển hóa sự trầm cảm, thì lần lần cuộc sống của con em cũng khá lên được.

HT.Thích Trí Quảng (GNO)

Các tin đã đăng: