Có nhiều người Phật Tử đi chùa lâu năm; nhưng cách
xưng hô vẫn chưa hiểu rõ. Hôm nay chúng tôi xin trình bày về vấn đề này một
cách rõ ràng, để quý vị lãm tường và cố gắng thực hiện cho thêm phần công đức lợi
lạc trong cuộc sống đạo của mình.
Thông
thường ở ngoài đời mình kính trọng ai hay có những cử chỉ kính, nể, sợ và khi
mình khinh khi ai có những cử chỉ trái ngược lại. Trong hai chữ trọng và khinh
cũng đã hàm chứa rõ ý nghĩa của nó rồi. Trọng nghĩa là nặng chồng chất lên.
Khinh có nghĩa là nhẹ hoặc là riêng rẻ. Và hai chữ xưng cũng như hô cũng đã
hình dung cho chúng ta biết được rằng có người trên kẻ dưới và người dưới đối với
kẻ trên. Ở ngoài xã hội đã thế, trong chùa cũng có lối xưng hô tương đối khá đặc
biệt hơn. Chúng tôi sẽ lần lượt trình bày như sau:
A. Giới xuất gia đối với người xuất gia
Người
xuất gia là người đã rời bỏ gia đình, bà con thân thuộc, vào chùa để sống một
cuộc sống đạo hạnh. Xem công danh, địa vị nhẹ tợ hồng mao. Nhưng không có nghĩa
là không có trên dưới phân minh. Quy Sơn Cảnh Sách dạy rằng: "Bất kính thượng
trung hạ tọa, như Bà La Môn tụ hội vô thù". Nghĩa là kẻ nào không biết
kính trên, nhường dưới và kẻ giữa mình, cũng giống như những người Bà La Môn lộn
xộn, thiếu trật tự không khác. Vì thế, việc xưng hô ở đây không còn là giai cấp
nữa, mà là một tôn ti trật tự trong cuộc sống hằng ngày.
a. Người lớn tuổi đạo với kẻ nhỏ tuổi đạo
Tuổi
đạo ở đây được căn cứ theo công đức tu hành trong các phẩm vị Hòa Thượng, Thượng
Tọa, Ðại Ðức, Sa Di và Chú Tiểu sơ cơ nhập đạo. Người lớn tuổi đạo được ngồi
trước và ngồi trên hay gọi người dưới mình bằng tên hoặc bằng cấp bậc. Ðôi khi
vị Hòa Thượng gọi một Thượng Tọa bằng Thầy hoặc pháp danh của vị ấy và vị Thượng
Tọa gọi vị Ðại Ðức, vị Ðại Ðức gọi Sa Di cũng vậy. Người lớn tuổi đời; nhưng nhỏ
tuổi đạo, vẫn phải xếp theo thứ lớp trong chùa chứ không như ngoài thế tục được.
Một
vị Hòa Thượng khi nói chuyện với người dưới thường hay xưng tôi hoặc chúng tôi.
Có nhiều người thắc mắc tại sao chỉ có một người mà hay thấy quý Thầy xưng là
"chúng tôi". Vì lẽ rằng Ðạo Phật là Ðạo diệt ngã. Ở Ðời người ta bị
khổ đau vì cái "ta" nhiều quá. Nên xưng "chúng tôi" cũng có
nghĩa là có ý san bằng cái ngã tự kỷ của mình với ý niệm diệt ngã trong Ðạo Phật.
Hoặc xưng "chúng tôi" cũng có nghĩa là nhún nhường. Có nhiều vị Thượng
Tọa xưng là bần Tăng đối với người dưới hoặc ngay đối với kẻ trên, để chỉ cái
nhỏ bé của mình đối với kẻ khác.
b) Người nhỏ tuổi đạo đối với những vị lớn
tuổi đạo
Chú
Tiểu thường xưng với vị Sa Di là con. Vị Sa Di mỗi khi trình lên với vị Ðại Ðức
một việc gì cũng thường hay "bạch Thầy" và "xưng con". Cũng
có nhiều vị Ðại Ðức đối với các vị Thượng Tọa cũng bạch Thầy, xưng con vậy. Lắm
khi nhiều vị Thượng Tọa được Phật Tử nể kính tôn sùng; nhưng khi về lại chùa
xưa gặp vị Hòa Thượng Bổn Sư của mình, ngoài việc bạch Thầy, xưng con ra còn phải
đảnh lễ nhiều lần như thế nữa, để tỏ tình Sư Ðệ. Ðiều này cho chúng ta thấy rằng
dầu người đệ tử của mình có trở thành một vị Thầy như thế nào đi chăng nữa, đối
với Thầy Tổ của mình vẫn cung kính như xưa; không vì phẩm vị mà quên đi đạo
nghĩa của ân sư.
Có
nhiều người mới thọ giới hôm trước, ngày sau đã đắp y đội mũ xưng mình là một bậc
Tỳ Kheo trong thiên hạ, không hổ thẹn lắm ru !! Hoặc hiêu hiêu tực đắc cống cao
ngã mạn xem người trên kẻ dưới chẳng ai bằng. Vì thế Ðức Phật thường hay chế giới
ra là để răn cấm những người phá giới.
B. Người xuất gia đối với các vị tại gia cư
sĩ
Ðược
gọi là một cận sự nam hay một cận sự nữ khi nào người Phật Tử đó đã quy y Tam Bảo
và thọ trì ngũ giới hoặc Bồ Tát giới tại gia. Khi quy y, mỗi người Phật Tử có một
vị Thầy truyền giới cho mình. Vị ấy gọi là Thầy Bổn Sư. Tức là vị Thầy chính của
mình. Trong gia đình, con cái đối với cha mẹ như thế nào; ở cửa Ðạo, người Phật
Tử tại gia cũng kính trọng Thầy Bổn Sư của mình như thế ấy. Vị Thầy của mình
quy y cũng giống như là một vị hướng dẫn tinh thần của mình trong cửa đạo vậy.
Vì lẽ ấy nên giữa tình nghĩa Thầy đối với đệ tử cũng như đệ tử đối với Thầy được
phân định như sau :
a. Các vị xuất gia xưng với các đệ tử
Ðệ
tử ở đây có thể kể cả hai giới xuất gia lẫn tại gia. Ít có Thầy nào tự xưng
mình là Hòa Thượng, Thượng Tọa hoặc Ðại Ðức, mà những phẩm này do người dưới vì
sự kính cẩn nên mới xưng tụng. Nếu có chăng đi nữa ở chỗ tâm tình, vị Thầy thường
hay xưng với đệ tử của mình là "Thầy" hoặc "tôi" v.v... và
vị Thầy đó gọi các vị Cư sĩ tại gia bằng tên, pháp danh, Ðạo Hữu hoặc Phật Tử
v.v... Ví dụ một vị Thầy muốn gọi đệ tử của mình thường hay nói như thế này:
"Nầy Hạnh Tâm! lại đây Thầy nhờ cái này một chút". Hoặc "Như
Nguyện! Thầy muốn nhờ con đi mua dùm cái nầy cho Thầy một chút v.v... Nếu vị đệ
tử ấy lớn tuổi đời hơn mình, vì lối xã giao thông thường hằng ngày nên gọi là
anh, chị hay Bác v.v... để phù hợp với các xưng hô của thế trần. Nhưng nếu gọi
đúng phải gọi là Ðạo Hữu, Phật Tử hoặc Pháp danh là hay hơn cả.
b. Các vị tại gia Cư sĩ xưng hô với quý vị
xuất gia
Trường
hợp này có nhiều vấn để để viết nơi đây. Có nhiều vị Cư sĩ khi gặp một vị Thầy,
vị Thầy này có thể lớn hoặc nhỏ tuổi, đạo hạnh hay bình thường, hay xưng bằng
"tôi", "con", "cháu" v.v... Có nhiều trường hợp
xưng bằng "em" nghe cũng ngộ nghĩnh và người nghe cảm thấy hơi nực cười.
Tại
vì sao người Phật Tử xưng "tôi" đối với một vị Thầy ?
-
Có thể vì họ chưa hiểu đạo. Hoặc vì họ nghĩ rằng họ lớn hoặc bằng tuổi với vị
Tu sĩ kia. Nhưng nghĩ như thế là lầm. Vì mình tuổi đời lớn, chứ tuổi đạo có lớn
đâu. Người nhỏ tuổi nhưng kiếp này đã tu trước mình, có nghĩa là kiếp trước họ
đã tu và kiếp này họ đang tiếp tục. Còn mình mặc dầu đương lớn tuổi; nhưng chưa
có duyên với Phật Pháp, nên vẫn là kẻ đi sau. Tuy lớn nhưng mà nhỏ.
Trong
kinh Pháp Hoa có nói rằng: "Có người trăm tuổi chỉ là một gã thanh niên bảo
đây là cha ta và người thanh niên kia chỉ người trăm tuổi bảo đây quả thật là
con ta. Cha trẻ mà con già". Ðây là ý nghĩa đã trình bày như trên vậy.
-
Hoặc cũng có thể người Phật Tử tự cảm thấy rằng mình có địa vị hơn, giàu có
hơn, học thức hơn, nên xưng tôi cũng không có gì khó coi lắm. Ðịa vị, giàu có
và học thức là chuyện của thế gian. Còn người tu tất cả phải xem đời là vô thường
mộng ảo, đối với họ đâu có gì quý báu ngoài giá trị của chơn tâm !
Tại
sao người Phật Tử thường hay xưng “con” với một vị Tăng Sĩ ?
-
Có thể đây là những người đi chùa lâu năm và hiểu đạo. Có nhiều cụ già 70 tuổi;
nhưng gặp một vị Ðại Ðức trẻ vẫn bạch Thầy, xưng con, đôi khi làm cho vị tân Ðại
Ðức ấy cũng ngại ngùng. Thế nhưng ở đây có 2 điều lợi: Ðiều thứ nhất - người tự
xưng có thể dẹp bỏ tự ái, cống cao ngã mạn của mình. Ðiều thứ hai - người được
xưng tụng phải xấu hổ mà cố gắng tu hành. Nếu không lo tu, các công đức đều bị
mất dần hết.
Có
nhiều vị Phật Tử còn lạy các vị Tăng nữa. Ở đây cũng có hai vấn đề được đặt ra
:
-
Vấn đề thứ nhất - vì cung kính đức hạnh của vị Tăng mà lạy. Khi lạy, người Phật
Tử dẹp được các tự ái ngã mạn của mình.
-
Vấn đề thứ hai được đặt ra là: Vị Tăng ấy có xứng đáng cho mình lạy không ? -
Có lẽ những người Phật Tử vì quan niệm rằng vị Tăng ấy xứng đáng nên mình mới lạy.
Nhưng xứng đáng hay không - phần người lạy được thêm phước; kẻ bị lạy, mất đức
rất nhiều; nếu đức của vị Tăng ấy có. Nếu vị Tăng đó không có đức thì đức đó bị
giảm dần và đôi khi còn bị trừ đi nữa là khác. Do đó dầu ở bất cứ trường hợp
nào, người lạy vẫn có phước mà kẻ bị lạy bị hao tổn phước đức rất nhiều. Vì thế
cần phải tu hành tinh tấn nhiều hơn nữa. Trong luật cũng có dạy rằng một vị Sư
Bà khi gặp một vị tân Ðại Ðức cũng phải cung kính như bậc Thầy của mình. Do đó,
một Cư sĩ tại gia đối với một người xuất gia xưng bằng "con" là một
điều đúng hơn cả. Con ở đây là con tinh thần của các vị Tăng Sĩ vậy.
Tại
sao có nhiều vị Cư Sĩ gặp quý Thầy, quý Sư Cô xưng bằng cháu hoặc em ?
-
Vì họ nghĩ rằng mình đáng vai cháu hoặc em của các vị Thầy này. Nghĩ như thế là
nghĩ theo thế gian pháp. Phật pháp không như thế gian pháp được. Nếu xưng em mà
một vị Cư sĩ nam đối với một vị Tăng sĩ nghe còn tạm được, mặc dầu hơi chướng
tai. Nhưng nếu là một nữ thí chủ mà xưng "em" với một vị Thầy thì nên
coi chừng sẽ bị tai tiếng hoặc sự dòm ngó bên ngoài. Có nhiều bà xưng với Sư Cô
hoặc Sư Bà bằng em - điều này có thể tạm được. Nhưng nếu các vị Cư sĩ nam không
lẽ xưng với Sư Cô bằng anh hay Bác sao? Do đó xưng "con" vẫn là hay
hơn cả.
Có
nhiều người Phật Tử trước mặt thì bạch Thầy xưng con; nhưng lúc không có mặt vị
Thầy đó thường hay gọi là ông Hạnh Tâm, ông Hạnh Ðức v.v... làm như thế là tự
mình dối lòng mình rồi. Có mặt Thầy cũng như sau lưng Thầy nên gọi bằng Thầy.
Có nhiều người kính trọng Thầy, ít gọi tên Thầy mà hay gọi tên của chùa Thầy ấy
trụ trì. Ví dụ như Thầy Vạn Ðức hay Ôn Chúc Thánh v.v... Có nhiều người còn gọi
ông Thầy Tâm Ðức, ông Thầy Vạn Phước v.v... Ðây là cung cách gọi của những người
chưa hiểu đạo. Nếu gọi bằng "ông Thầy", có lẽ phải có thêm "Bà
Thầy" mới đúng. "Bà Thầy" ở Việt Nam chưa có, nhưng ở Nhựt thì đã có
từ lâu. Vô hình trung các Phật Tử Việt Nam đã đồng hóa Thầy của mình mà
không biết. Hoặc có nhiều người lúc cung kính thì bạch Thầy xưng con ngọt xớt;
nhưng khi có chuyện gì thì xắn quần quá gối đứng trước cửa chùa chửi vô
"cái thằng cha Thầy chùa đó thế này thế nọ" hoặc "Sư gì như Sư hổ
mang" hoặc "Tế Ðiên Hòa Thượng" v.v... Ðiều đó chứng tỏ được khả
năng hiểu đạo của họ khá nhiều rồi… Đến đây sực nhớ một câu chuyện ngày xưa khi
Ðức Phật còn tại thế như sau:
"Có
một người Bà La Môn vì ganh ghét với Ðức Phật, nên ngày nào cũng đến nơi Ðức Phật
ở để chửi rủa Ngài rất thậm tệ, đến khi sức mỏi lực hao Ðức Phật vẫn không có một
thái độ nào cả. Người Bà La Môn kia mới hỏi Ðức Phật rằng:
-
Bộ ông là gỗ đá sao mà tôi chửi ông không biết hổ thẹn ?
Ðức
Phật hỏi lại rằng:
-
Nếu nhà ngươi có đám giỗ, làm cỗ thật nhiều, sau khi giỗ xong, mang cỗ ấy đến
biếu người hàng xóm. Nếu người hàng xóm ấy từ chối. Vậy mâm cỗ ấy về ai ?
Người
Bà La Môn kia trả lời rằng:
-
Thì về người cho mâm cỗ chứ về ai nữa.
Ðức
Phật mới dạy rằng:
-
Ở đây cũng thế đó. Lâu nay ngươi đến đây chửi ta; nhưng ta không nhận. Vậy xin
trả lại cho ngươi đó.
Người
Bà La Môn ấy xấu hổ ra về".
Việc
học đạo và tu theo đạo Phật là vậy đó. Mình đi chửi người hoặc xem thường người,
chính tâm ta và miệng ta dơ bẩn trước; trong khi người khác vẫn còn trong sạch.
Nên để ý lắm thay !
Có
một vị Thiền sư Nhật Bản thế kỷ thứ 13 có dạy đệ tử của Ngài rằng: "Ngươi
học đạo phải nên thận trọng, Thái độ của mình lúc tiếp khách như thế nào thì
khi ở trong phòng riêng của mình cũng như thế ấy". Câu nói tuy đơn giản
nhưng ý nghĩa biết dường nào, chúng ta nên xem kỹ lại. Vì thế cho nên lúc có Thầy
cũng như khi không có Thầy, lúc nào cũng xem giống nhau, không nên thiên lệch
mà tổn phước cho chính thân mình.
c. Các vị Phật Tử tại gia đối với các vị Phật
Tử tại gia
Ở
đời thường hay gọi Cụ, Ông, Bà, Chú, Bác, Cô, Dì, Anh, Chị, Em v.v... nhưng khi
vào chùa nên gọi bằng pháp danh với nhau có lẽ dễ nghe hơn. Cũng có thể gọi
nhau bằng anh, bằng chị - như là anh Nguyên Giác, chị Diệu Mỹ v.v... nghe nó có
vẻ Thiền vị nhiều hơn là ông này bà kia.
Có
nhiều chùa còn nghe ông bà Ðại Tá, ông bà Ðại Sứ, ông Kỹ Sư v.v... nhưng khoe
khoang như thế để làm gì. Ðó chẳng qua là nhãn hiệu của phù trần, đâu có cần
thiết gì trong cửa đạo. Vì chuyện của thế gian là chuyện của khổ đau tục lụy.
Chuyện của Thiền môn là chuyện của giải thoát nhiệm mầu. Khi vào chùa chúng ta
nên cởi bỏ những nhãn hiệu ấy đi và nên để ngoài cổng chùa cho Thiền môn được
yên tĩnh.
Trong
chùa hai danh từ thường hay được gọi là Ðạo Hữu hoặc Phật Tử. Ðạo Hữu là những
người bạn cùng trong một Ðạo với nhau. Phật Tử là những người con của Ðức Phật.
Dùng danh từ nào cũng đúng nghĩa cả. Nhưng thông thường danh từ Ðạo Hữu có vẻ
"già" và "đạo mạo" hơn nên để dành cho những vị lớn tuổi.
Danh từ Phật Tử có vẻ trẻ trung nên để gọi nhau với những người trẻ.
Trên
đây là một số danh từ thông thường trong cách xưng hô ở chùa. Chúng tôi viết
lên đây chỉ nhằm mục đích xây dựng đạo, không cố ý chỉ trích ai, hoặc khuyên bảo
điều gì. Nếu quý vị Phật Tử tại gia thấy cần thiết thì nên chấp nhận. Nếu thấy
không hợp thời, không hợp cơ cũng chẳng có sao. Vì Ðạo Phật là Ðạo Tự Giác.
Không có quyền năng gì để đi ép buộc người khác phải theo mình. Nếu có chăng,
trong tinh thần tự độ và độ tha mà thôi.
Chúng tôi quan niệm rằng: "Sự thật bao giờ cũng
là sự thật"; nên không ngại viết ra những dòng này để xây dựng một vài
khuyết điểm nếu đã, đương và sẽ có trong cửa Thiền. Có lẽ sẽ có nhiều vị chống
đối chúng tôi về quan điểm này. Vì chúng tôi đã viết lên sự thật. Nhưng người
viết bài này không còn cách nào hơn là phải chấp nhận sự thật vậy. Dù cho sự thật
ấy có phũ phàng cay đắng. Biết mà không nói không phải là người có tâm, vì tha
nhân mà nói mà không biết quả là người chưa biết bơi mà đã tự đi cứu người. Do
đó, nếu bài này có đến mắt quý độc giả, Phật Tử cũng như không Phật Tử; người Ðạo
Phật cũng như kẻ Ðạo khác xem đây như là một đóng góp chung nho nhỏ trong sứ mạng
truyền giáo và hộ giáo của Tăng cũng như của Tục trong cuộc sống tha hương nơi
hải ngoại ngày nay.