Trong văn học Phật giáo, xuyên
qua giáo lý Vô ngã, không có một thực thể cố định (unsubstantiality) thì
hẳn nhiên niềm tin vào một vị thần sáng tạo luôn luôn bị phản bác và từ
chối, bởi vì Phật giáo là sự phủ định về sự vĩnh hằng và bất biến đối
với việc giải thích nguồn gốc của thế giới như vũ trụ, linh hồn, thời
gian v.v... Niềm tin về một đấng sáng tạo được đặt trong cùng thể loại
như những quan điểm sai lầm về mặt đạo đức, đặt thân phận con người dưới
sự an bài của đấng vô hình như là định mệnh tuyệt đối và không thể thay
đổi, và dẫn đến sự nguy hại lâu dài cho nền móng xã hội do tác động đến
những giá trị nhân bản của đạo đức.
Vì
tin tưởng vào một đấng sáng tạo Brahma mà hằng nghìn năm xã hội Ấn Độ
đã duy trì sự phân chia bốn giai cấp, gây nên sự chia rẽ trầm trọng, mỗi
giai cấp đều tùy thuộc vào ý chí của đấng Phạm thiên, cố định vị trí ở
body của Phạm thiên: giai cấp Bà la môn (Brahman) được cho là con chính
thống của Phạm thiên, sinh ra từ miệng Phạm thiên là chủng tánh tối
thượng an hưởng cuộc đời sung sướng. Giai cấp Sát đế lỵ (Kshastriya)
sinh ra từ cánh tay Phạm thiên là giai cấp hoàng tộc, thay mặt cho Phạm
thiên nắm giữ quyền hành thống trị. Giai cấp Vệ xá (Vaisya) được cho là
sinh ra từ bắp vế Phạm thiên, là giai cấp thương gia, nông phu và thợ
thuyền phụ trách về kinh tế. Giai cấp Thủ đà la (Sùdra) được cho là sinh
ra từ gót chân của Phạm thiên được cho là hạng bần cùng hạ tiện, và chỉ
làm nô lệ suốt đời cho các giai cấp trên.
Sự thị hiện của đức Phật đã làm đảo lộn
mọi giá trị cố hữu, thay vào đó Ngài mở ra cánh cửa mới của sự nhận thức
khi Ngài chối từ về sự tồn tại của Brahma; điều này được bàn bạc trong
nhiều kinh văn Phật giáo. Đoạn kinh Tevijja sau đây là cuộc đối thoại
giữa đức Phật và Bà la môn Vàsettha về đấng Phạm thiên:
“…Này Vàsettha, như vậy ngươi nói không
có một Bà la môn nào trong những vị tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt
thấy Phạm thiên - không có một tôn sư nào của các Bà la môn tinh thông
ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên, không có một đại tôn sư nào của
các Bà la môn tinh thông ba tập và đã tận mặt thấy Phạm thiên - không có
một Bà la môn nào cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà la
môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mắt thấy Phạm thiên, trong những tu sĩ
thời cổ, trong các Bà la môn tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác
các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được
hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà la môn tinh
thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy như các vị
Atthaka, Vàmaka… không có một vị nào đã nói: 'Chúng tôi biết, chúng tôi
thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu'. Như
vậy các Bà la môn tinh thông ba tập Vedà đã nói: 'Chúng tôi không biết,
chúng tôi không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên, nhưng
chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: 'Đây là trực đạo, đây là chánh đạo
hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành theo'.
Này Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời
nói của những Bà la môn tinh thông ba tập Vedà là không chánh xác, hợp
lý…”
Sự
tin tưởng hão huyền này đã gây nên sự cuồng tín, không khoan dung, nâng
cao tự ngã; thông thường hay gây ra sự căm thù và những bạo lực khi
người khác không có cùng niềm tin và quan điểm với mình.
Xuyên qua nhiều thế kỷ, triết học Phật
giáo đã trình bày các lập luận chi tiết bác bỏ học thuyết của một vị
thần sáng tạo. Nó sẽ được quan tâm để so sánh những việc này với những
cách mà các triết gia phương Tây đã bác bỏ các thông tin chứng minh thần
học về sự tồn tại của đấng sáng tạo.
Đối với một vài người tin tưởng một cách
nghiêm túc hơn thì ý tưởng về một đấng tạo hóa chỉ là một lập trường
chỉ để giải thích các sự kiện bên ngoài như nguồn gốc của thế giới mà họ
không thể hiểu thấu. Đối với y, nó là một đối tượng của đức tin có thể
tạo ra cho một cảm giác mạnh mẽ bên cạnh sự hiện diện an ủi của đấng tạo
hóa và sự gần gũi với chính mình, chẳng hạn như ấn tượng thời thơ ấu,
hình ảnh huyền thoại như những ông Bụt và cô Tiên đi vào truyền thống,
học đường, và môi trường xã hội đã tác động vào bề mặt của vỏ não và tạo
nên những hình ảnh của tư tưởng mà tín đồ của các tôn giáo đã có một lề
lối khái niệm chân thành nhất; một phân tích phát hiện gần đây đã hiển
thị rằng "kinh nghiệm về đấng sáng tạo" đã không có nội dung cụ thể hơn
điều này.
Tuy nhiên cuộc sống và tác phẩm của các
nhà thần bí của tất cả các tôn giáo lớn đã chứng minh cho kinh nghiệm
của họ có ảnh hưởng lớn, trong đó việc thay đổi đáng kể được thực hiện ở
chất lượng của ý thức, sự cảm thụ sâu xa trong lời cầu nguyện hay thiền
định có thể đánh động đến chiều sâu và ảnh hưởng trên mặt rộng ý thức
xuyên qua cảm hứng truyền trao của sự hân hoan và hạnh phúc đi từ họ.
Với cảm thụ tuyệt vời như vậy, các nhà thần bí tin rằng kinh nghiệm của
mình là biểu hiện của thần thánh, là hiệp thông với đấng tạo hóa, nhiệm
vụ của họ là trung gian giữa thượng đế và con người… với những ấn tượng
sâu sắc được xem như là thần bí và họ đã gõ cửa thần học để xác định sự
“hiệp thông” đặc biệt của mình. Giả định này là khá dễ hiểu, kinh nghiệm
huyền bí cũng chỉ là những đặc trưng tăng, giảm hoặc loại trừ tạm thời,
biểu hiện làn sóng đa phương trình của ý thức, nhận thức và suy nghĩ
không ngừng nghỉ trong những tầng số rung động của tâm. Thật là thú vị
cần lưu ý, tuy nhiên, các nỗ lực của hầu hết các nhà thần bí lớn phương
Tây liên quan đến kinh nghiệm thần bí của mình để các tín đồ chính thức
của các nhà thờ công nhận kết quả của họ trong giáo lý thường được xem
xét và nghi ngờ đối với chính thống, nếu không được coi là hết sức dị
giáo.
Phật
giáo, những hành giả khi đã thâm sâu trong thiền định họ nhận diện các
yếu tố thể chất và tinh thần cấu thành kinh nghiệm của mình trong ánh
sáng của mọi hiện hữu qua ba đặc điểm, đó là vô thường, đau khổ, và sự
vắng mặt của một cái tôi (vô ngã); điều này được thực hiện chủ yếu để sử
dụng độ tinh khiết thiền định và sức mạnh của ý thức cho mục đích cao
nhất: giải phóng bản ngã từ cái thấy sâu sắc; việc này giúp hành giả
thoát khỏi sự tràn ngập ảo giác bởi bất kỳ những cảm xúc và ý nghĩ không
kiểm soát được đi từ bởi kinh nghiệm của họ, và do đó sẽ có thể tránh
đi sự lừa dối của kinh nghiệm ý thức.
Một thiền giả tốt trong Phật giáo, thông
qua những trải nghiệm thiền định mà những gì y có là cái thấy không tùy
thuộc, không có vị trí cố định để xác lập, như thác nước trôi chảy
không ngừng, không có đối tượng hoặc chủ thể định vị, do đó trạng thái
thần bí cao nhất của thiền giả không cung cấp cho sự tồn tại của một
đấng tạo hóa duy nhất hay một vị thần khách quan điều động và chi phối
cá nhân.
Do vậy, Phật giáo được xem như là “chủ
nghĩa vô thần” đối với những người có tư tưởng độc lập hay những nhà Hữu
thần, chỉ vì Phật giáo không tin tưởng vào một đấng sáng tạo, toàn năng
và vĩnh cửu, đúng hơn đó là sự sáng tạo từ ý tưởng con người. Tuy nhiên
quan niệm về “vô thần” trong Phật giáo không đồng với “vô thần” của
những nhà thuần túy Duy vật hay Duy vật biện chứng. Học thuyết Phật giáo
là sự hòa hợp giữa tâm và vật. Phật giáo không tán thành triết lý vật
chất hủy diệt thuần túy (annihilationism-ucchedavata), đúng hơn nó là
một lý thuyết sai lầm. Sáu cõi luân hồi và các cảnh giới Thánh hiền
thanh tịnh đủ để chứng minh rằng quan điểm của Phật giáo không phải là
sự hủy diệt hoàn toàn sau khi chết, mà là sự thay đổi không ngừng. Mỗi
chúng sinh là một đấng sáng tạo muôn vẻ cho chính mình xuyên qua sự vô
hạn của kiếp luân hồi. Học thuyết về “nghiệp” (karma) là chu kỳ của sự
tạo tác và hình thành của tâm và vật đặt căn bản trên giáo lý nhân quả,
tác động và chi phối sự hiện hữu của chúng sinh. Đức Phật không cung cấp
một chủ nghĩa Hư vô, đồng nghĩa với đau khổ và không còn có con đường
hy vọng. Chủ thuyết “không” (empty) trong đạo Phật chỉ là sự từ chối của
bản ngã bất biến đã gây nên đau khổ cho con người. Ngược lại, nó là một
giáo lý cứu rỗi (Niyyanika-Dharmma), giải thoát (vimutti), hoặc Niết
bàn (Nirvana), là trạng thái hủy diệt hoàn toàn của tham, sân, si, những
khổ đau của ngọn lửa dục vọng điên cuồng đang thiêu đốt chúng sinh. Tuy
nhiên Niết bàn không phải là cảnh giới có chủ thể và đối tượng, vì vậy
nó không đồng với hình thức và ý tưởng tạo lập của một đấng vĩnh hằng.
Phật
giáo không phải là một kẻ thù của tôn giáo như là chủ nghĩa vô thần
được thấy. Phật giáo, thực sự là kẻ thù của “không” (sự hủy diệt hoàn
toàn). Người Phật tử là những người đại diện cho kiểu mẫu về các giá trị
đạo đức, tinh thần và văn hóa trong các quốc gia châu Á. Tuy nhiên,
chúng ta có thể không thể nhắm kín đôi mắt của mình với các khái niệm về
đấng sáng tạo-đã sử dụng quá thường xuyên thông qua với những con người
quyền lực, tàn nhẫn…nhân danh tình yêu của đấng toàn năng đã gây nên sự
chia rẽ, hận thù và tiêu hủy văn hóa bản địa. Những nghiên cứu và thể
hiện quan điểm bất đồng chính kiến đã bị cản trở và dập tắt trong danh
xưng và tham vọng điên rồ cho sự phục vụ đấng tối cao đã và đang gây đau
thương không ngừng cho nền hòa bình thế giới.
Không cần sự thưởng phạt của một đấng
tối cao, giá trị đạo đức của Phật giáo trên căn bản năm giới cấm và mười
điều thiện đã cung ứng cho quốc gia và xã hội một nền tảng đạo đức viên
mãn. Không mù quáng và ảo tưởng trong niềm tin, dựa trên triết thuyết
hợp lý sâu sắc và thí nghiệm từ sự thực hành mang tính khoa học, Phật tử
tôn thờ đức Phật là bậc Thầy (Bổn sư) giác ngộ, một vị Thượng đế của
lòng từ bi và trí tuệ. Họ nhìn nhận đức Phật như bản chất tiềm ẩn trong
chính mình, đó là điểm khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác.
Mặc dù Phật giáo được xem như là một tôn
giáo, tuy nhiên lý thuyết, triết học và sự thực hành của nó vượt ra
ngoài phạm vi tôn giáo; Phật giáo đặt con người làm mục tiêu thể nghiệm
sự khổ đau và sự giải thoát khổ đau ngay trong đời sống thay vì khái
niệm hão huyền về một đấng Sáng tạo toàn năng và vĩnh cửu. Vì vậy, Phật
giáo có thể dung nhiếp với các tôn giáo khác, tuy nhiên các tôn giáo
khác không thể hợp nhất với Phật giáo; đó là một thực tế không thể tranh
cãi.
Tạp chí DPNN