Lời Dịch Giả: Dr. D.P. Atukorale, M.D. M.R.C.P. là bác
sĩ chuyên khoa về tim mạch, hiện là Giáo Sư Viện Đại Học Colombo Tích Lan và là
Cố Vấn Trưởng Khoa Tim Mạch Viện Tim Mạch Quốc Gia, Colombo, Sri Lanka. Bài này
và các bài nghiên cứu khác về y khoa và dinh dưỡng của ông được đăng tải trên
Tập San Y Khoa Hiệp Hội Y Khoa Tích Lan và các báo Online edition of Daily News
và Sunday Observer.
Người ta cho rằng mọi người Phật tử đều tôn trọng năm giới răn. Khi
chúng ta giữ giới răn thứ nhất, chúng ta hứa rằng sẽ không tước đoạt bất cứ sự
sống nào và gây đau đớn đến bất cứ sinh vật nào. Thật là rõ ràng rằng chúng ta
không thể ăn thịt được nếu như không có người nào giết loài vật dùm chúng ta.
Nếu chúng ta không tiêu thụ thịt hay các sản phẩm có nguồn gốc từ thịt, thì sẽ
không có việc giết hại loài vật. Giới thứ nhất là một lời huấn thị chống lại
việc hủy diệt sự sống và làm thương tổn muôn loài.
Theo giới răn thứ nhất, Đức Phật dạy chúng ta không được làm tổn thương
mọi loài. Trong kệ 131 kinh Pháp Cú Đức Phật dạy rằng: “Kẻ nào tìm hạnh phúc
cho mình bằng cách hành hạ chúng sinh khác, cũng mong cầu hạnh phúc, kẻ ấy sẽ
không được hạnh phúc”. Vì thế theo Phật giáo, không giết hại và không làm tổn
thương đến chúng sinh rất là quan trọng.
Kệ 225 kinh Pháp Cú nói rằng, “Người sáng suốt không làm tổn hại đến
sinh vật và luôn luôn chế ngự thân, sẽ đạt được cảnh bất diệt “Niết Bàn” nơi đó
không còn sầu muộn”.
Cũng kinh Pháp Cú kệ 405 nói rằng, “Người đã từ bỏ gậy gộc trong sự tiếp
xúc với chúng sanh mạnh hay yếu, không sát sinh và cũng không gây thương tổn,
được gọi là người cao thượng”. (người Bà La Môn)
Kinh Pháp Cú kệ 129 và 130 nói rằng, “Tất cả đều sợ hãi trước hiểm nguy,
tất cả đều quý trọng đời sống. Hãy lấy lòng ta suy lòng người. Không nên giết,
cũng không nên làm cho kẻ khác bị giết”.
Theo Phật giáo, tất cả mọi loài như loài cá bơi lội, loài thú vật, loài
chim bay đều là các loài có cảm giác, không thể bị giết hay làm bị thương. Phật
tử không thể là những người đi săn bắn, đánh cá, đánh bẫy, nhân viên của các lò
sát sinh, và mổ xẻ động vật sống..v..v..
VẤN ĐỀ ĂN THỊT THÌ SAO?
Một số người đã tranh luận rằng, trong trường hợp người ta không tự giết
con vật để mà ăn, (có nghĩa là người khác giết) thì không có vấn đề gì khi ăn
thịt đó.
Nhưng kệ 129 và 130 trong Kinh Pháp Cú đã chỉ rõ rằng chúng ta KHÔNG
ĐƯỢC GIẾT HAY GÂY NÊN SỰ GIẾT (should not kill or cause to kill). Khi người
nào đó mua thịt hay các sản phẩm có nguồn gốc từ thịt, người đó đã tạo nên
những nhân thiết yếu (nhu cầu tiêu thụ) để cho người nào đó giết những con thú
vật này. (cung cấp theo nhu cầu)
Bởi sự đồng ý ăn thịt do người khác phục vụ, chúng ta là nguyên nhân tạo
cho người khác giết hại thú vật. Kệ 7 Kinh Pháp Cú nói, “Người hằng sống khoái
lạc, tâm thần xáo trộn, ăn uống thiếu tiết độ, lười biếng, thiếu đức hạnh,
người ấy sẽ bị “Ma vương” lôi cuốn, bị những cám dỗ dục vọng, như cây yếu trước
gió”
Lý do chính là lòng từ bi. Lòng từ bi là một phương pháp tu học quan
trọng để trở nên một người tốt. Người không có lòng từ bi thì không xứng đáng
là một Phật tử.
Người có tấm lòng từ bi, xót thương, thì trong mọi khía cạnh của cuộc
đời, tâm từ bi đó luôn luôn biểu lộ. Hãy nghĩ đến sự đau buốt khi bạn bị một
con ong chích hay con rết tấn công. Người nào đã từng nhìn thấy con cua bị luộc
trong nồi nước sôi (hay chảo dầu nóng) sẽ thấy con cua dồn mọi nỗ lực một cách
tuyệt vọng, đau đớn đến nỗi không thể chịu đựng được, mà vùng vẫy mong thoát ra
khỏi nồi nước, sẽ không bao giờ có thể ăn cua được. Cuối cùng con cua bỏ mạng
trong đớn đau cùng cực khi cơ thể chúng ngả qua mầu vàng đỏ. Một cuộc đời đã
kết thúc trong đau đớn biết là bao!
TẠI SAO PHẬT TỬ NÊN LÀ NGƯỜI ĂN
CHAY?
Ai đã từng trông thấy cảnh đau đớn kinh hoàng của con bò khi bị người đồ
tể cắt cổ thọc huyết và lột da hồi lâu trước khi nó chết sẽ không bao giờ nỡ
nhẫn tâm mà ăn thịt bò được nữa. Không ăn thịt loài vật là sự biểu lộ của lòng
từ bi.
Với những người ăn thịt, những tiệc tùng, lễ cưới, lễ sinh nhật cũng như
lễ kỷ niệm đám cưới là những sự chết chóc của hàng ngàn con vật.
Ngăn ngừa nỗi đau đớn của những sinh vật bằng cách không ăn thịt chúng
(để thỏa mãn sở thích và đáp ứng nhu cầu đói) là sự biểu lộ tối thiểu của lòng
từ bi mà người Phật tử chúng ta có thể làm được. Bắn giết, đâm chém, siết cổ,
dìm xuống nước, đánh bả thuốc độc, thiêu đốt hay để điện giật, hoặc cố ý dùng
bất cứ phương tiện nào khác để tước đoạt sự sống, cố tình gây nên sự đau đớn
cho con người hay loài vật là vi phạm và làm ô uế giới răn thứ nhất
Một cách khác vi phạm giới răn thứ nhất là tạo nên nguyên nhân cho người
khác giết hại, tra tấn đánh đập hay làm thương tổn đến bất cứ một sinh vật nào.
Vì thế ăn thịt là tạo lý do cho người khác giết hại cũng là phá hoại giới răn
thứ nhất.
Nếu những con gà, bò hay cá không bị ăn, chúng sẽ không bị giết chết. Vì
vậy những người ăn thịt phải chịu trách nhiệm về sự bạo hành và sự hủy diệt
loài vật.
Phật giáo cũng dạy chúng ta rằng không một sinh thể nào không đã từng là
cha, là mẹ, là chồng, là vợ, là chị, là anh, là em, là con trai, là con gái của
chúng ta, trong những chuỗi nhân quả luân hồi chồng chất từ vô lượng đời kiếp.
Nói một cách khác, một sinh vật như con bò ngày nay có thể là mẹ của chúng ta
trong đời trước.
Con gà mà bạn sẽ ăn vào bữa ăn chiều tối nay có thể là anh hay chị của
bạn trong quá khứ. Vì thế, quyền sống của loài vật không thể bị coi thường hoặc
chà đạp lên. Làm sao một vị Sư đi tìm sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ, mà lại cứ
thản nhiên ăn thịt loài vật, dù biết rằng chúng nó phải chịu đựng nỗi thống khổ
kinh hoàng trong giờ phút hấp hối khi bị giết?
ĐỨC PHẬT CÓ THỪA NHẬN CHUYỆN ĂN
THỊT KHÔNG?
Các cư sĩ tại gia và các vị Sư ăn thịt thường trích dẫn kinh Jivaka,
trong đó đức Phật nói rằng, “Như Lai cấm không cho ăn thịt trong ba trường hợp.
Nếu thấy, nghe hay có lòng hoài nghi rằng con vật bị giết cho mình ăn. Trong ba
trường hợp, Ta cho phép ăn, nếu không thấy, không nghe hay không có lòng hoài
nghi rằng con vật bị giết cho mình ăn”.
Thế không phải rằng những con vật như bò, dê, heo, gà bị giết tại các lò
sát sinh là để cho những người ăn thịt thưởng thức chăng? Nếu không một ai ăn
thịt thì rõ ràng là các con vật này không bị giết.
Có thể tưởng tượng một vị Sư nói với thí chủ, người cúng dường Sư món
thịt, “Thưa đạo hữu thí chủ, thật đạo hữu có lòng tốt đã cúng dường món thịt
này cho Sư. Nhưng Sư có lý do tin tưởng là loài vật bị giết để lấy thịt cho Sư
ăn, vì thế Sư không thể nhận được”?
Kinh Jivaka cũng ngụ ý rằng Phật đã chấp thuận những sự giết chóc và
cảnh khủng khiếp tại các lò sát sinh. Nhưng nên biết rằng sự giết hại thú vật
làm thực phẩm tại các lò sát sinh là một trong các ngành nghề mà Phật đã ngăn
cấm không cho Phật tử làm vì lý do từ bi.
Nói rằng một đằng Phật lên án những ngành nghề buôn bán đẫm máu với những
sự giết chóc trong các lò sát sinh, săn bắn thú vật, câu cá và bẫy sập thú rừng
và một đằng lại cho phép người Phật tử và hàng tăng sĩ được ăn thịt, nếu những
con vật này không phải là đặc biệt bị giết để cho họ ăn, là một sự mâu thuẫn vô
lý. Còn ai nữa ngoài những người ăn thịt phải chịu trách nhiệm về sự giết chóc
nơi các lò sát sinh, săn bắn thú và câu cá?
Tóm lại những đồ tể tại các lò sát sinh và các kho hàng gói thịt chỉ làm
việc để đáp ứng cho nhu cầu của những người ăn thịt mà thôi. “Tôi chỉ làm giùm
ông cái phần việc dơ bẩn”, người đồ tể đã trả lời như thế với một bậc thượng
lưu khi vị này phản đối sự tàn bạo của việc giết hại thú vật khờ khạo vô hại.
Mọi người ăn thịt, bất kể đã được diễn dịch rằng con vật được giết cho họ hay
là không, đều là yểm trợ cho kỹ nghệ giết thú vật và góp phần vào sự tàn bạo
giết chóc các sinh vật khờ khạo vô hại. Chẳng lẽ Phật lại khờ đến nỗi không
hiểu được điều này, Ngài là người được mô tả là đấng toàn hảo, đấng mà trí tuệ
và từ bi bao trùm khắp vũ trụ? Phải chăng Phật lại có thể kém nhạy cảm đến nỗi
không thấy rằng chỉ cần ngưng ăn thịt, người ta có thể chấm dứt một cách hiệu
quả cả sự giết hại những con vật yếu ớt, câm lặng cùng với những sự thống khổ,
kinh hoàng mà chúng phải chịu đựng.
Chúng ta được biết rằng Phật ngăn cấm các đệ tử của ngài không được ăn
thịt các thú vật như chó, voi, gấu và sư tử. Vậy tại sao Phật lại cho phép ăn
một loại thịt và ngăn cấm ăn loại khác? Thế còn heo hay bò, những con vật này
giả thiết là được chấp thuận cho phép ăn, thì ít đau đớn hơn con chó hay con
gấu khi chúng bị giết chăng?
Ai là Phật tử cũng đều biết Phật vô cùng từ bi và vô cùng quý trọng sự
sốngï, thí dụ như Ngài nhấn mạnh rằng rằng các Tỳ kheo phải mang theo đồ để lọc
nước mỗi khi uống, tránh khỏi làm chết các vi sinh vật có thể có trong nước,
cho nên không thể tin được rằng Ngài có thể lãnh đạm trước nỗi đau đớn và chết
chóc của các loài gia súc bị giết để làm thực phẩm.
Như các Phật tử đều biết, hàng tu sĩ có giới luật riêng. Phật có thể đòi
hỏi các vị Sư nhiều điều chấp hành mà không đòi hỏi nơi những Phật tử tại gia.
Các tu sĩ được huấn luyện đặc biệt để có những phẩm hạnh cao quý và nghị lực
bền bỉ, khác biệt với hàng cư sĩ tại gia. Họ có khả năng mạnh mẽ chống lại sự
cám dỗ khoái lạc mà người thường khó chống cự nổi. Đấy là lý do tại sao, họ từ
bỏ khoái lạc tình dục (sống đời sống độc thân) và cũng không ăn cơm sau 12 giờ
trưa. Tại sao ăn cơm sau 12 giờ trưa lại vi phạm giới luật nghiêm trọng hơn là
ăn thịt loài vật? Chúng ta có thể tin quả thật Phật đã có nói những điều ấy cho
những người biên tập kinh điển Pali, nơi đề tài về sự ăn thịt chăng?
QUAN ĐIỂM CỦA
ĐẠI THỪA VỀ VẤN ĐỀ ĂN THỊT
Bây giờ chúng ta hãy xem xét phiên bản kinh điển tiếng Sanckrit nói về
việc ăn thịt. Tôi trích từ kinh Lăng Già mà nguyên một chương nói
về những điều tai hại của việc ăn thịt.
“Vì lòng từ bi, vì sự tinh khiết, các Bồ tát không được ăn thịt mà nó
được sanh ra từ máu mủ..v..v.. Vì nỗi lo ngại những nguyên nhân cấu thành sự
kinh hoàng của chúng sinh, vị Bồ Tát, người đã tự rèn luyện để có được từ tâm
không được ăn thịt”.
“Thật là điều không đúng sự thật khi cho rằng thịt là thực phẩm thích
đáng và dùng được khi con vật không bị giết bởi chính người ăn, khi người ăn không
ra lệnh cho người khác giết, và khi người khác không đặc biệt giết để cho mình
ăn”.
“Trong tương lai có thể có những người bị sự cám dỗ bởi mùi vị của thịt,
sẽ kết hợp lại với nhau để tạo ra nhiều cách ngụy biện cho việc ăn thịt. Nhưng
dù thịt được ăn dưới bất cứ hình thức nào, bất cứ kiểu cách nào, bất cứ ở đâu,
đều bị tuyệt đối cấm chỉ đối với bất cứ ai.”
Kinh Lăng Nghiêm nói, “Người tu hành chánh định, cốt để giải thoát khỏi
khổ đau của cuộc đời. Nhưng trong khi tìm kiếm sự giải thoát nỗi khổ đau của
chính mình, tại sao chúng ta lại làm khổ đau cho kẻ khác. Trừ khi chúng ta kiểm
soát được tâm, biết ghê tởm ngay cả đến ý tưởng về sự hung ác, tàn bạo, và giết
chóc; chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể giải thoát khỏi cảnh trần lao khổ ải”.
“Sau khi ta diệt độ, có nhiều loại quỷ thần trôi nổi trên khắp thế gian
lừa gạt chúng sinh, và dạy rằng ăn thịt cũng có thể đạt đạo giác ngộ. Có thể
nào một vị Sư hy vọng trở nên vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh lại có thể sinh sống
bằng thịt của chúng sinh”?
Kinh Đại Bát Niết Bàn phiên bản tiếng Sanckrit nói rằng:
“Ăn thịt làm tiêu tan hạt giống từ bi”.
Ngay cả trước thời Đức Phật tại Ấn Độ, nhiều tôn giáo đã chỉ trích việc
ăn thịt không có lợi cho việc phát triển tâm linh. Nếu các vị trưởng lão của
trường phái Đại Thừa hài lòng với lối diễn dịch của trường phái Nguyên Thủy về
việc ăn thịt, thì họ đã giữ sự im lặng. Thực tế là họ đã phát biểu để chống lại
sự ăn thịt một cách kịch liệt, thấy được nỗi bối rối sâu xa của các vị trưởng
lão biên tập những lời dạy của đức Phật trong bản tiếng Sanckrit.
Tự điển Bách Khoa Phật Giáo nói rằng, ở Trung Hoa và Nhật Bản, việc ăn
thịt được coi như là xấu ác, bị loại trừ và tất cả các loại thịt đều bị cấm
dùng ở các chùa và các tu viện. Việc ăn thịt là điều bị cấm kị tại Nhật mãi cho
đến giữa thế kỷ thứ 19th.
DÂN CHÚNG TRÁNH CÚNG DƯỜNG CHO CÁC
SƯ ĂN THỊT
Dr. Kosheliya Wali trong cuốn sách của cô ”Conception of Ahimsa In
Indian Thought, đã viết “không bao giờ có thịt mà không có sự tổn thương
của chúng sinh, và làm tổn thương chúng sinh là làm mất đi niềm an lạc và vì
thế phải tránh xa việc ăn thịt”.
“Người ta phải biết kinh tởm thịt và sự tàn nhẫn của việc giết hại súc
vật trong các lò sát sinh và nên từ bỏ hoàn toàn việc ăn thịt này”. “Ai cho
phép giết hại loài vật, ai cắt, giết, mua, bán, đãi đàng và ăn thịt, tất cả đều
là những kẻ sát sinh”.
“Ai tìm sự tăng trưởng cơ thể của mình bằng thịt của sinh vật khác và
thờ phụng thần thánh, người đó là kẻ tội lỗi nhất”.
“Không thể kiếm được thịt từ cộng rơm hay từ hòn đá. Nó chỉ có thể tìm
được bởi sự giết chóc các sinh vật. Vì vậy không nên ăn thịt”.
Một vị sư Trung Hoa nói “Anh tạo thành một nhóm bạn bằng loại thịt nào
đó mà anh ăn. Anh thành lập một đoàn thể với các loại thú vật nào đó mà anh ăn.
Ví dụ nếu anh ăn nhiều thịt heo, anh sẽ bị ràng buộc với nhóm heo, cũng tương
tự như vậy với bò gà cừu cá.....” Dr. Walch một người ăn chay Anh Cát Lợi đã
nói “Để ngăn ngừa sự chém giết con người, người ta phải bắt đầu ở bàn ăn”. Nếu
một người muốn đi theo con đường an lạc hạnh phúc của Phật Giáo và đi vào con
đường tình thương và sự hiểu biết của Phật, người ấy phải bắt đầu nơi cái bàn
ăn.
Tại Tích Lan, một bữa tiệc đám cưới phải giết hàng trăm, nếu không nói
hàng ngàn con vật. Tiệc sinh nhật hay kỷ niệm hôn nhân cũng giết hàng trăm con
vật. Trước khi chết chúng chứa đầy nỗi giận giữ và oán thù. Bạn giữ giới thứ
nhất không phải chỉ không giết thú vật bằng hành động mà còn bằng tư tưởng. Nếu
tâm có ý giết hại tức là đã vi phạm giới thứ nhất. Chúng ta phải xác quyết
không được sát sinh ngay cả trong tâm tưởng. Theo Phật giáo tâm là cơ sở chủ
đạo cho mọi hành động.
CÓ PHẢI ĐỨC PHẬT THỊ TỊCH VÌ ĂN
THỊT?
Những vị Sư mà, trong một số trường hợp, có ăn thịt khi bào chữa cho
việc ăn thịt của mình nói rằng chính Phật đã ăn miếng thịt heo tại nhà một đệ
tử hơn là làm buồn lòng vị thí chủ đó. (nếu khước từ nhận cúng dường) Một số Sư
ăn thịt nói rằng họ ăn bất cứ thực phẩm nào mà Phật tử cúng dường một cách
không kỳ thị. Nhưng phần đông các học giả Phật giáo cho rằng thức ăn dâng cho
Phật không phải là thịt đã làm cho Phật chết và tất cả kinh điển Đại Thừa đều
một mực chống lại việc ăn thịt như đã đề cập trước đây. Theo nhà học Phật Rhys
David thì thức ăn mà cư sĩ Thuần Đà dâng cúng Phật là nấm rơm. Rhys David nói
rằng từ sukara maddava có ít nhất bốn ý nghĩa:
·
Loại thực phẩm heo ăn.
·
Một loại thức ăn mà heo rất ưa thích
·
Các phần mềm trong cơ thể con heo và
·
Một loại thức ăn bị giẫm nát bởi con heo.
Cư sĩ Thuần Đà là một đệ tử thuần thành của Phật, chắc chắn ông ta không
thể nào cúng dường Phật miếng thịt heo vì thừa biết rằng Ngài không ăn thịt.
Rất có thể chính Thuần Đà cũng không ăn thịt như rất nhiều người Ấn Độ thời bấy
giờ. Như thế thì có thể nào ông ta lại cúng dường thịt lên Phật, một người rất
nhạy cảm về nỗi thống khổ, đau đớn của chúng sinh, người không uống sữa bò
trong thời kỳ 10 ngày đầu tiên sau khi bò sanh con.
Bất cứ một vị sư nào được cúng dường bữa ăn tại nhà cư sĩ đều biết rằng
gia chủ thường thỉnh hỏi sư hay vị thị giả theo hầu hoặc một vị cư sĩ hộ pháp
thân cận, loại thức ăn nào sư thường ăn, để có thể tránh các loại thực phẩm
không thích hợp với cơ thể và tinh thần của Sư. Trong thời kỳ Phật tại thế,
những thí chủ cúng dường thức ăn cho Phật thường tham vấn Ananda, vị thị giả
của Phật. Các tăng sĩ không thích loại thức ăn nào có thể có cách thích hợp để
từ chối mà không cần phải thốt lên một lời nói nào.
Tôi được biết phần lớn tăng sĩ Tích Lan ăn thịt và các sản phẩm có nguồn
gốc từ thịt. Thỉnh thoảng một số còn gợi ý (mention) với các vị thí chủ cúng
dường, về những thức ăn như là thịt gà, khi những thí chủ này gặp họ để xin
ngày hẹn dâng thực phẩm cúng dường (to book a date for dana). Một số
tăng sĩ, đặc biệt những Sư sống trong những chùa như là Sasuna và các
am, cốc, không ăn thịt, cá hay trứng, bởi vì những thức ăn này kích thích dục
vọng, không có lợi ích trong tiến trình tu tập để giải thoát tâm linh.
Một điều đáng để ý là càng ngày càng có nhiều thí chủ cúng dường bữa ăn
chay cho các vị Sư khất thực và con số các vị Sư ăn chay cũng tăng lên trong
những năm gần đây.
Các tăng sĩ có thể giữ một vai trò quan trọng trong việc làm giảm thiểu
sự giết chóc loài vật, và nỗi đau đớn kinh hoàng mà chúng phải chịu đựng trong
những giờ phút hấp hối bằng cách yêu cầu các đệ tử không cúng dường thịt khi họ
đến gặp để xin Sư cho họ cúng dường trai tăng, như là đã có rất nhiều Phật tử
tuân theo những gương sáng do các Sư dạy dỗ.
Đa số Phật tử kính trọng các Sư ăn chay hơn là các Sư ăn thịt. Các Sư
truyền giảng giáo pháp của Phật không thể nào chấp nhận thức ăn thịt mà lại
không có sự xung đột với “tâm từ bi”. Đạo Phật là một tôn giáo thực hành. Nếu
tăng đoàn làm một cuộc phát động cho việc ăn chay chắc chắn sẽ cứu được rất
nhiều con vật khỏi thảm cảnh chết chóc và những nỗi đau đớn kinh hoàng đi cùng
với sự giết chóc.
Tăng đoàn Phật giáo nên dẫn đạo và các cư sĩ Phật tử, ít ra là một tỷ lệ
cao, sẽ theo các ngài.
Dr. D.
P. Atukorale, MD
Chú Thích của Người Dịch:
(1) Từ sukara maddava được kết hợp bởi hai từ
sukara và maddava. Sukara có nghĩa là con heo và maddava có nghĩa là phơi khô,
là ngon, tức là một loại thức ăn mà giống heo rừng rất thích ăn. Các học giả
Phương Tây dịch là truffles, một loại nấm quý.
(2) Theo Kinh Trường A Hàm, Quyển 3, Kinh Du
Hành, Thứ 2, Đoạn 2: Khi đức Phật nhận bát canh nấm từ tay Thuần Đà, Ngài có
nói với Thuần Đà rằng, đừng đem thứ canh nấm còn dư này cúng dường cho các vị
Tăng khác, Thuần Đà vâng lời rồi lui ra. Tại sao Phật nói như vậy? Đây là
nguyên văn kinh:<<....Sau khi Phật và đại chúng đã an tọa, ông Châu Na
(Thuần Đà) đem món ăn dâng Phật và chúng Tăng, ông lại nấu riêng một thứ nấm
Chiên Đàn là thức ăn trân quý kỳ lạ ít thấy, đem dâng riêng cho Phật, Phật dạy
Châu Na chớ đem thứ nấm ấy cho chúng tăng ăn. Châu Na vâng lời....>>
(Kinh Trường A Hàm, Thích Thiện Siêu Việt dịch, Phật Học Viện quốc Tế xuất bản
1986 (trang 86).