Tục ngữ Việt Nam có câu: Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu
chùa. Câu nói này dân gian cho rằng tu tập tại gia là việc dễ nhất, bởi
vì các thành viên trong gia đình đều là những người thân yêu, nên mọi
việc đều có thể cảm thông và tha thứ hơn, dễ bỏ qua những lỗi lầm sai
trái, như cha mẹ thương con, vợ chồng thương yêu, anh chị em vui vẻ
thuận thảo với nhau.
Kế đến, khi ra chợ làm ăn mua bán, mà muốn tu thực là không phải dễ,
bởi vì những người ở ngoài chợ tập trung nhiều thành phần khác nhau, mua
bán giống như làm dâu trăm họ, nếu không khéo một chút thì mất mối! Vô
chùa tu lại càng khó hơn, bởi vì giới luật nhà chùa, khắc khe nghiêm
ngặt, thường được sự giám sát của các bậc đạo cao đức trọng, sống muốn
ít biết đủ, ăn chay và đi ngược lại sự ham muốn của người đời.
Nhưng thực chất tu ở chùa là dễ dàng nhất, bởi vì không phải lo
chuyện tính kế sinh nhai, không bận rộn hay bị tiêm nhiễm chuyện thế
gian, có thầy lành bạn tốt sách tấn đồng tu. Còn tu tập tại gia là việc
khó khăn nhất, bởi vì người trong gia đình quá quen thuộc, cho nên dễ
lờn mặt, khó tu khó sửa, tình cảm luyến ái nặng nề, không người nhắc
nhở, khuyến khích tu tập, do đó mà bụt nhà không linh, không thiêng là
vậy đó.
Hơn nữa cuộc sống thế gian của người tại gia, đủ thứ cám dỗ, và rất
nhiều cái bẫy đang giăng sẵn chực chờ nào là bẫy tiền tài, bẫy danh
vọng, bẫy sắc đẹp, bẫy ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều, vã lại với đủ thứ
phiền não, khổ đau cuộc đời, suốt ngày bận rộn với công kia việc nọ,
không có thời giờ, thì thử hỏi làm sao tu được?
Tu chợ so với tu nhà thì ít khó hơn, bởi vì mỗi ngày chỉ đi chợ chừng
một tiếng đồng hồ là nhiều, có khi mỗi tuần chỉ đi chợ năm ba ngày, tu
ngoài chợ chỉ cần nhỏ nhẹ, tế nhị, bán đúng giá thuận mua vừa bán,
thường thì người mua dễ bị lầm hơn.
Vậy theo quan niệm nào mới thật sự là đúng? Thật ra mỗi chỗ mỗi nơi
đều có cái khó riêng của nó, ai có duyên tu trong điều kiện nào thì chỗ
đó là số một. Tu chợ, tu tại gia rất cần thiết cho đại đa số quần chúng
bởi vì nó là nhân tố nền tảng đối với gia đình và xã hội. Nói tóm lại,
bất cứ hoàn cảnh nào, dù dễ hay khó, chúng ta phải cố gắng tu vì đó là
quyền lợi của bản thân, mình không biết tu thì sẽ gánh chịu hậu quả khổ
đau, tu được thì mình sẽ an lạc, hạnh phúc!
Phật dạy yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không
được như ý khổ. Nhờ có khổ như vậy nên chúng ta mới đến chùa tìm hiểu
học hỏi, mong sao để được hết khổ. Nhưng phần đông rơi vào tình trạng
lấy cảnh chùa làm nơi trốn tránh cuộc đời, trốn tránh trách nhiệm, bổn
phận đối với gia đình người thân.
Cuộc sống thế gian có quá nhiều đau khổ nay mình biết chùa muốn tu,
muốn dứt bỏ gia đình người thân, nhưng không ai cho phép? Nhiều người
muốn vào chùa thọ bát quan trai một ngày một đêm nhưng gia đình không
cho phép.
Ở đây chúng đang thấy một sự thật, vì mỗi khi trong gia đình có sự
bất hòa thì phần lỗi ít nhiều gì đó đều do hai bên, không biết thông cảm
cho nhau, không thực sự thương yêu nhau.
Tu học là nhằm mục đích để tỉnh thức, nhận ra những điều sai lầm mà
trước đây mình không hề hay biết. Ai cũng muốn thương và được thương yêu
một cách bình đẳng. Ngày nay, vợ chồng ly dị là chuyện thường. Sống
chung mà không biết thương yêu nhau, chỉ làm khổ nhau thì tốt hơn là nên
ly dị. Nhưng nhiều khi ly dị xong ta lại cảm thấy cô đơn, muốn đi tìm
một người tình khác để yêu, để cưới và để rồi lại ly dị.
Nhiều lúc khổ quá, muốn đi tu, nhưng tu làm sao cho yên khi tình cảm
dành cho nhau vẫn còn ướt át? Và chúng ta nên nhớ tu không phải là dứt
hết tình nghĩa, mà là thay đổi quan niệm sống để không quá bi lụy trong
tình yêu. Nếu chúng ta dứt hết tình cảm thì đâu còn là người nữa, tu như
vậy vô tình ta ví mình như gỗ đá chăng?
Tu là sửa, là chuyển, là thay đổi. Từ đau khổ chuyển thành an vui, từ
tình thương yêu ích kỷ, thành tình thương yêu bình đẳng, vị tha. Vào
chùa học đạo mà chỉ biết thương Phật tượng, Phật gỗ mà không biết thương
yêu kẻ khác thì đó chưa phải là người tu chân thật. Phật là người đại
từ, đại bi thương tất cả chúng sinh một cách bình đẳng mà không phân
biệt thân hay sơ.
Cuộc sống của chúng ta khi có mặt trên cõi đời này là phải ăn với
uống để bảo tồn mạng sống, lớn lên rồi lấy vợ, lấy chồng để phát triển
giống nòi nhân loại. Từ đó sinh chấp ngã và muốn chiếm hữu để bảo vệ gia
đình mình, đất nước mình, người có quyền cao chức trọng nếu không tin
sâu nhân quả sẽ tham nhũng làm lãng phí, gây thiệt hại trầm trọng tài
sản của chung.
HẠNH PHÚC HAY KHỔ ĐAU ĐỀU DO MÌNH TẠO LẤY
Khi buồn khổ hay bất an một điều gì, chúng ta hay đổ thừa vì hoa hồng
có gai, nhưng khi vui vẻ hay hạnh phúc chúng ta lại thấy hoan hỉ vì
trên cành gai kia xuất hiện một đóa hoa hồng. Thế gian này khổ hay vui
tùy thuộc rất nhiều từ sự nhận thức của mọi người.
Chúng ta muốn thưởng thức những đóa hồng đẹp thì phải chấp nhận thân
gai góc của nó. Hoa hồng mềm mại, thơm tho và đẹp đẽ nên ai cũng thích
ngắm nhìn, thưởng thức hương vị ngọt ngào của nó nhưng trên thân hoa lại
có nhiều gai góc. Nếu muốn thưởng thức sự tinh khiết của hoa thì ta
phải chấp nhận thân gai góc. Cũng vậy, thân ta vô thường bại hoại nên
mới bị sự chi phối của già-bệnh-chết, nhưng ngay nơi thân này có tính
biết sáng suốt; nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy
chỉ là thấy, thấy tức biết; nương nơi tai thì nghe thấu mọi âm thanh sai
biệt của muôn loài vật nên nghe chỉ là nghe; mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại
như thế.
Người lạc quan luôn nhìn đời với các vì sao lấp lánh nằm trên bầu
trời quang đãng, sáng trong. Chính vì vậy họ thấy thế giới luôn tươi
vui, xinh đẹp như những đóa hoa hồng. Người bi quan thì thấy thế giới là
cả một bầu trời đen tối chỉ toàn khổ đau nên thấy rất nhiều hầm hố,
chông gai. Với người biết sống một cách thực tế thì thấu rõ chân lý của
cuộc đời nên thấy thế giới không hoàn toàn tươi vui, xinh đẹp như hoa
hồng mà cũng chẳng hoàn toàn nhiều gai góc.
Trong cuộc sống những ai có hiểu biết chân chính và nhận thức sáng
suốt thì không đam mê, say đắm bởi cái đẹp của hoa hồng. Họ nhìn thấy
hoa hồng chỉ là hoa hồng và vẫn biết rõ trong hoa hồng phải có chất liệu
của gai nên luôn cẩn thận để khỏi bị gai làm đau nhức.
Hoa hồng tượng trưng cho bốn hoàn cảnh thuận lợi trong cuộc sống như
được lợi lộc, được khen ngợi, được tán thán và được vui vẻ hạnh phúc.
Gai góc thì được ví như bốn sự không hài lòng, vừa ý trong cuộc sống như
bị mất mát, bị chê bai, bị hủy nhục và bị khổ đau. Đã làm người trong
cuộc sống tất cả chúng ta đều phải trực diện với các hoàn cảnh ấy dù ít
hay nhiều trong dòng đời nghiệt ngã này. Ai có đủ khả năng, ý chí, nghị
lực, trí tuệ và sự sáng suốt thì sẽ vượt qua cạm bẫy cuộc đời bằng cách
tin sâu nhân quả, siêng làm các việc thiện, không làm việc xấu ác.
HIỂU BIẾT CHÂN CHÍNH SẼ GIÚP TA SỐNG HẠNH PHÚC HƠN
Cuộc sống của chúng ta khi có mặt trên cõi đời này là phải ăn với
uống để bảo tồn mạng sống, lớn lên rồi lấy vợ, lấy chồng để phát triển
giống nòi nhân loại. Từ đó sinh chấp ngã và muốn chiếm hữu để bảo vệ gia
đình mình, đất nước mình, người có quyền cao chức trọng nếu không tin
sâu nhân quả sẽ tham nhũng làm lãng phí, gây thiệt hại trầm trọng
tài sản của chung.
Có khi nào trong cuộc sống với bộn bề công việc, ta biết dừng lại để
tự hỏi chính mình sinh ra đời để làm gì? Chắc chắn ai cũng nói rằng để
lập gia đình, sinh con đẻ cái nối dõi tông đường? Để gầy dựng sự nghiệp
tương lai cho bản thân và gia đình? Từ quan niệm đó chúng ta chạy theo
tiền tài, danh lợi, địa vị, tình yêu, sắc đẹp, của cải, và ăn sung mặc
sướng!
Thật chất ta lớn lên lấy vợ lấy chồng không phải để thỏa mãn tình cảm
nhục dục hay lấp vá khoảng trống cô đơn, mà là để học sự thương yêu
trong hiểu biết và biết cách hòa hợp của hai trái tim, khi sống chung
với nhau trong một mái ấm gia đình.
Tất cả mọi người trên thế gian này ai cũng phải điều biết "tu tâm",
nghĩa là chúng ta chừa bỏ những tâm niệm xấu ác có tính cách làm tổn hại
cho người và vật. Nhờ vậy, chúng ta ngày càng mở rộng tấm lòng từ bi
rộng lớn, để san sẻ nỗi khổ niềm đau, làm vơi bớt sự bất hạnh và sống
tốt hơn, bằng tình người trong cuộc sống.
Con người có tu mới sống được an vui hạnh phúc và khi gặp cảnh mất
mát khổ đau của bản thân và gia đình, cũng không làm cho ta phải thất
chí nản lòng vì ta đã có niềm tin nhân quả, niềm tin chính mình, hạnh
phúc hay khổ đau là do mình tạo lấy. Chúng ta đã gieo nhân trước kia thì
giờ đây gặt quả, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, kết quả tốt
hay xấu khi hội đủ nhân duyên quả báo liền đến.
Chúng ta tu để làm gì? Và tu như thế nào để cho được an vui, hạnh
phúc? Người đời làm việc xấu ác, vì không tin tâm mình là Phật. Con cái
không hiếu thảo cha mẹ, vì không tin sâu nhân quả. Trẻ em không chịu
vâng lời thầy cô giáo chỉ dạy, không siêng năng chăm chỉ học hành, vì
chẳng biết tu tâm. Gia đình sống không vui vẻ thuận thảo, không biết
kính trên nhường dưới, vì chẳng biết tu tâm. Xã hội hay nói nặng, mắng
chửi kiện cáo nhau vì chẳng biết tu tâm. Thế giới đấu tranh tham lam
giành giựt giết hại lẫn nhau, vì chẳng biết tu tâm.
Phật tử tu hành hay bị thối chuyển, bởi vì hay cầu khẩn van xin không
tin tưởng chính mình ỷ lại vào bên ngoài. Mọi người ai cũng có khả năng
nhận diện tâm qua sự xúc chạm thấy nghe hay biết, mới có thể trở nên
hiền từ, sống chân thật, đạo đức và biết giúp đỡ, sẻ chia bằng tình
người trong cuộc sống.
Gia đình người thân biết tu tâm, thì mới được
bình yên, an vui, hạnh phúc. Xã hội có tu tâm, thì đất nước mới an cư
lạc nghiệp trên tinh thần đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau bằng trái
tim hiểu biết.
Thế giới ai cũng biết tu tâm, thì mọi người sống trong hòa bình. Phật
tử biết tu tâm, mới mau vượt qua biển khổ sông mê. Và Phật dạy không
thấy ai là kẻ thù chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi, cho nên
chúng ta phải bình đẳng thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, bằng trái
tim hiểu biết.
Một người biết làm lành, tránh xa những điều xấu ác
thì người ấy trở nên hiền từ và đức độ. Cả gia đình đều tránh dữ làm
lành, thì mọi người đều được bình yên, hạnh phúc. Cả nước đều tránh giữ
làm lành thì tất cả mọi người đều sống trong an lạc thái bình. Hết thảy
mọi người đều tránh dữ làm lành, thì chúng ta sẽ sống trong thế giới đại
đồng, hưởng trọn vẹn niềm vui cực lạc.
Trong cuộc sống của chúng ta ai cũng mong cầu hạnh phúc nên suốt đời
cứ mãi tìm kiếm để vượt qua hai điều thiếu thốn: Thứ nhất là thiếu thốn
về vật chất và thứ hai là thiếu thốn về tinh thần. Người thiếu thốn về
vật chất thì cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, có khi không nhà cửa hoặc
có thì với túp lều lụp sụp, thân phải khổ sở nhọc nhằn làm thuê làm
mướn, đầu tắt mặt tối mà nợ nần vẫn chồng chất.
Người thiếu thốn về tinh thần thì tham lam, ích kỷ, gian xảo, dối
trá, ganh ghét tật đố, lường gạt, đầu trộm đuôi cướp gây ra nhiều tội
lỗi làm tổn hại đến gia đình người thân và xã hội. Thế gian con người
chi lo thiếu thốn về vật chất, mà ít ai nghĩ ngợi và lo lắng đến tinh
thần!
LÀM CHỦ BẢN THÂN ĐỂ VƯỢT QUA SỐNG CHẾT
Trong kinh A Di Đà, Phật nói rõ ràng, ai tu nhất tâm bất loạn từ một
ngày cho đến bảy ngày, thì Phật sẽ rước. Đạo Phật là đạo của nhân quả
trên nền tảng tương xứng, bình đẳng, chúng ta không thể lấy một chút
phước nhỏ mà đòi quả lớn thì e rằng không được.
Phật dạy người có nhiều đức tính tốt thường xuyên làm lợi ích cho
nhân loại đó là bậc thầy ta, ta hãy nên bắt chước học và làm theo những
cái hay của họ. Người khác có cái dở hơn ta cũng là bậc thầy của ta, cho
nên ta cũng phải học để không mắc phải sai lầm. Thầy hay, chúng ta bắt
chước học và làm theo, thầy dở, chúng ta học để tránh không gây ra những
lỗi lầm đáng tiếc.
Cũng vậy, khi phát tâm tu hành, người trợ giúp phương tiện để ta tiến
tu là bậc thiện hữu tri thức, còn người làm chướng ngại gây phiền hà
cho ta cũng chỉ để thử thách coi mình tu có tiến hay không mà thôi.
Người giúp phương tiện chỉ dạy là sách tấn mình tu từ từ, người làm trở
ngại để thử thách sẽ giúp mình thăng tiến nhanh hơn, cả hai đều là Bồ
Tát thuận hạnh và nghịch hạnh để giúp mình tiến tu, nên trong hai người
ta đều phải mang ơn hết.
Chỉ có người hèn yếu, không dám can đảm nhìn rõ mọi vấn đề cho tường
tận, tu gặp nghịch cảnh, chướng duyên, lẽ ra phải tìm cách thắng nó cho
bằng được, thì lại không hài lòng, vừa ý. Mình tu là phải quyết tâm mạnh
mẽ để không cho sân-si nổi lên mới thực là tu.
Hiểu như vậy, ta mới thấy mình tu có tiến được hay không là do cách
nhìn của mình có thực đúng như lời Phật dạy, nếu nhìn không đúng thì
việc tu hành cũng bị lệch lạc theo thời gian. Người phát tâm tu ai cũng
muốn chuyển hóa tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ từ bi. Vậy mà đa số
người tu khi gặp chướng duyên cứ trách móc thiên hạ, đổ thừa hoàn cảnh,
“tôi muốn tu mà ma quỷ cứ phá tôi hoài”, chứ không biết chính mình không
thật tu, hoặc tu còn quá yếu, nên phiền não, tham- sân-si còn hoài. Nếu
nói theo đạo lý chân thật thì thế gian này không ai có thể phá mình cả,
chỉ có ta tự làm cho ta lui sụt mà thôi.
Trong cuộc đời này không có cái gì ở bên ngoài hại ta cả, chỉ có mình
không làm chủ được bản thân. Nếu biết rõ ràng mọi thứ tai họa từ
tham-sân-si nơi mình chứ không phải do ai khác, thì ta sẽ biết cách
chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, hạnh phúc.
Khi Phật còn tại thế, một ngoại đạo đã chứng được ngũ thông, giảng
pháp rất hay, đến nỗi trời Đế Thích phải xuống nghe. Pháp thoại vừa
xong, trời đế Thích mới khóc, vị ngoại đạo ấy hỏi nguyên do. Đế Thích
nói, “thầy đã sắp hết tuổi thọ, nên tôi rất lấy làm tiếc nuối mà khóc
thương cho thầy thôi”. Vị đó nghe vậy mới hỏi tiếp, “có ai ở trần gian
này có thể giúp tôi thoát ly sinh tử không?” Đế Thích nói, “thầy hãy đến
tịnh xá Kỳ Viên gặp Phật Đà, Người sẽ làm được điều đó”. Mừng quá, ông
cám ơn trời Đế Thích, rồi vận thần thông bay đi. Trên đường gần tới
tịnh xá, ông thấy hai cây hoa đẹp quá, liền nhổ chúng đến cúng dường
Phật. Khi thấy ông đến, hai tay cầm bó hoa, Phật liền bảo, “buông!”. Ông
ta buông tay trái, bó hoa rớt xuống đất. Phật lại bảo, “buông!”. Ông ta
buông tay phải, bó hoa kia cũng rớt xuống đất. Phật lại bảo buông tiếp.
Ông ta ngơ ngác đứng nhìn và thưa rằng, “bạch Thế Tôn, con đã buông cả
hai tay rồi, còn gì nữa đâu mà buông?”
Nhân khi đó, Phật dạy, “Như Lai bảo ông buông lần thứ nhất là dạy ông
buông bỏ sáu căn, lần thứ hai Như Lai dạy ông buông bỏ sáu trần, lần
thứ ba Như Lai dạy ông buông bỏ sáu thức”. Ngay câu nói đó, vị ngoại đạo
liền được thoát ly sinh tử, không còn sống chết nữa.
Chỉ đơn giản vậy thôi, Phật chỉ bảo ba lần buông làm cho ông ngơ
ngác, vì trên tay chỉ có hai bó hoa. Ông đang thao thức tìm cách giải
thoát sống chết, nên bao nhiêu tâm trí đều dồn vào đó, Phật chỉ khơi nhẹ
làm ông tỉnh thức, buông xả ý thức chấp ngã mà thành tựu Niết Bàn.
Ngoại đạo đó đã tu chứng ngũ thông, tức gần kề bên bờ giải thoát, nhưng
do còn ý thức chấp ngã, thấy mình có tu, có chứng, nên còn dính mắc,
không thể thoát khỏi sống chết. Nhờ Phật khai thị, ông ta buông xả kiến
chấp, liền thoát ly sống chết.
Người chứng ngũ thông có những diệu dụng như sau:
_ Tha tâm thông: là thấy biết được tâm tư của người khác đang suy nghĩ và mong muốn gì.
_ Thiên nhãn thông: là thấy được tất cả chúng sinh luân hồi sống
chết, thăng lên lộn xuống trong ba cõi sáu đường, như người đứng trên
lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, nghiệp quả do chính mình tạo lấy, mình
làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, không ai có quyền
ban phước, giáng họa.
_ Túc mạng thông: nghĩa là nhớ lại được vô số kiếp về trước mình đang làm gì, ở đâu?
_ Thần túc thông: là biến hóa khôn lường, có thể chui vào lòng đất, bay lên hư không, mà không bị sự ngăn ngại nào.
_Thiên nhĩ thông: nghe được âm thanh lớn nhỏ, gần xa.
Mắt ta thấy
sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý phân
biệt, cái gì thích thì bám víu, chạy theo, cố tâm tìm cách chiếm đoạt,
cái gì không ưa thì ghét bỏ. Đối với người Phật tử, mắt cũng cần thấy
mọi hình ảnh, sự vật, tai cũng cần nghe mọi âm thanh lớn nhỏ, êm dịu,
hoặc hằn học, nặng nề, tuy vẫn thấy nghe, hay biết, nhưng không bị nó
làm nhiễm ô, say đắm, mê muội.
Đạo Phật khuyên chúng ta không nên dính mắc, đắm say quá đáng vào
thấy nghe, hay biết, để được bình yên, hạnh phúc. Trong thực tế, bản
chất của sáu trần vốn không có lỗi. Cái lỗi lớn nhất là do tâm phân
biệt, thương ghét, vọng tưởng điên đảo của con người. Con người vì đắm
nhiễm, dính mắc sáu trần mà gây ra nỗi khổ, niềm đau, nên mãi trôi lăn
trong luân hồi sanh tử.
Mắt vẫn thấy sắc mà thường biết rõ ràng, sự việc như thế nào thì thấy
biết như thế ấy; tai vẫn nghe tất cả mọi âm thanh, nhưng không khởi tâm
phân biệt, vừa ý hay không vừa ý, mà nghe chỉ là nghe; mũi vẫn ngửi mùi
thơm hôi đều không khen chê hay đắm nhiễm; đó là ta biết cách làm chủ
bản thân qua sáu giác quan để sống đời bình yên, hạnh phúc.
Kế đến, chúng tôi dẫn kinh Lăng Nghiêm để làm niềm tin cho tất cả quý
vị hiểu rõ ràng, thấu đáo, mà áp dụng hành trì, chuyển hoá. Tôn giả
A-Nan hỏi Phật, “ bạch Thế Tôn, cái gì là căn bản của luân hồi sanh tử,
cái gì là căn bản của Bồ Đề Niết Bàn?”.
Khi Ngài hỏi câu này, đức Phật Thích-ca chưa trả lời, thì mười phương
chư Phật khác miệng đồng lời nói rằng, “Này A-nan, cội gốc của căn bản
phiền não, luân hồi sanh tử chính là sáu căn của ông. Cội gốc của Bồ Đề
Niết Bàn cũng chính là sáu căn của ông”. Rõ ràng, không riêng gì đức
Phật Thích Ca nói sáu căn là gốc của luân hồi sanh tử, sáu căn là gốc
của Bồ Đề Niết Bàn, mà mười phương chư Phật khác đều miệng đồng lời phát
ra những lời lẽ chân thật như thế.
Do đó, chúng ta tu phải làm sao để chính mình dứt hết gốc luân hồi
sanh tử, mà đạt được tự tại, giải thoát. Muốn vậy, ta phải làm sao? –
phải không cho ý nghĩ dong duỗi, chạy Đông, chạy Tây, đó là gốc của sự
tu; còn nếu ta vẫn bị phiền não kéo lôi, vẫn đi trong luân hồi sanh tử,
thì sự tu đó không có công hiệu. Như vậy là uổng cơm của đàn na thí chủ.
Muốn cho có công hiệu, không uổng cơm của đàn na tín thí, thì ta phải
biết rõ sáu căn là cội gốc của sanh tử, đừng để cho nó dính, đừng để cho
nó nhiễm.
Có thế, chúng ta mới đúng là người tu cầu giải thoát sanh tử.
Sáu
căn từ đâu mà ra? - Nó sẵn có nơi chúng ta, mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý ở
ngay thân mình chớ có xa đâu, chỉ cần đừng để dính nhiễm là ta đã khéo
tu rồi. Nếu chúng ta ăn chay khắc khổ, tụng kinh rất nhiều, mà hễ ai
động tới liền nổi sân, thấy cái gì đẹp thì ưa thích, tu như vậy biết
chừng nào mới thành tựu đạo pháp.
Mắt thấy sắc đẹp liền mê thích, đắm say; tai nghe tiếng không vừa ý
liền sinh bực bội; như vậy là chưa gỡ được các căn dính với các trần,
chưa gỡ được thì làm sao chúng ta giải thoát sanh tử; nên trên đường tu,
chúng ta phải cố gắng, nỗ lực, phải làm sao gặp cảnh buồn vui, tốt xấu,
mình vẫn an nhiên, tự tại. Đó mới là giải thoát thật sự. Nếu chỉ có
hình thức, không giữ được sáu căn của mình, thì khó giải thoát. Kính
mong rằng, tất cả chúng ta ai cũng ý thức việc tu hành của mình, bằng
cách làm chủ bản thân ngay nơi thân-miệng-ý.
THIÊN ĐƯỜNG ĐỊA NGỤC CÓ THẬT KHÔNG?
Nhìn từ góc độ thực tế, chúng ta thấy cũng có địa ngục trần gian, ai
phạm tội giết người thì bị xích lại nhốt vào ngục tối, nặng nhất là án
tử hình. Tội nhân bị án này sẽ ăn không ngon, ngủ không yên, ngày đêm cứ
phập phồng lo sợ không biết thần chết đến lúc nào để rước mình đi, khi
nghe tiếng mở cửa là sợ điếng cả hồn vì ai cũng tham sống, sợ chết.
Một ngày trôi qua là họ mừng một ngày vì vẫn nuôi hy vọng được sống
để làm lại cuộc đời. Còn những án khác từ án chung thân đến án khổ sai
từ một tháng cho đến hai chục năm và nhẹ nhất là hưởng án treo. Nhìn từ
góc độ triết lý học Phật giáo, chúng ta thấy vô vàn, vô số địa ngục khác
như các bệnh viện phòng cấp cứu, các nhà bếp của mỗi gia đình, các quán
nhậu, các lò sát sanh, các chợ bán thịt cá, heo, bò, gà, vịt, các loài
hải sản và cuối cùng là các nhà lưới bẫy đánh bắt.
Mỗi một ngày, vô số các loài bị phanh da xẻ thịt để cung cấp phục vụ
cho loài người. Nhìn ở góc độ địa ngục trần gian, chúng ta còn có thể
hình dung địa ngục trong tâm thức mỗi người, đó là tâm toan tính hại
người, hại vật hoặc bị phiền não chi phối gọi là địa ngục tâm thức.
Người tu nếu đạt đến giác ngộ giải thoát thì tâm sẽ an nhiên, tự tại dù
thân có bị hành hạ, đau nhức chi phối.
Loài ngạ quỷ là loài quỷ đói thấy thức ăn mà ăn không được bởi nghiệp
tham lam, ích kỷ, bỏn sẻn chiêu cảm. Nhìn từ góc độ cuộc đời, ta thấy
ngạ quỷ cũng có trong loài người thiếu ăn, nghèo đói, thèm khát, ham
muốn quá đáng mà không được nên khổ đau bức bách.
Quỷ đói không phải có trong người nghèo khổ mà cả người giàu có vì
tham vọng quá lớn, không được như ý muốn cũng vẫn phải chịu khổ như
thường.
Loài súc sinh của thời kỳ cổ đại được sống tự do, thoải mái trên
những núi đồi thiên nhiên bạt ngàn, xanh tươi, màu mỡ, ít bị loài người
sát hại. Một số loài súc sinh phải chịu ảnh hưởng phước báu của con
người nên con vật nào được người thương thì cuộc sống có phần thoải mái,
ngược lại thì bị người giết hại.
Con người thuần hóa các loài vật để phục vụ cho mình như lạc đà, lừa,
ngựa, trâu, bò để chuyên chở và cày bừa. Việc săn bắn, đánh bắt, giăng
bẫy các loài thú tuy có nhưng không đáng kể và việc nuôi thú để làm thực
phẩm cho con người cũng không có nhiều.
Tuy nhiên, thế giới con người ngày nay quá đông nên nhu cầu đánh bắt
loài vật không đủ sức cung phụng cho loài người, do đó con người phải tự
nuôi thêm các loài gia cầm, súc vật theo công nghệ hiện đại để đủ đáp
ứng nhu cầu thực phẩm. Ngoài ra, các loài vật cũng chịu sự ăn nuốt lẫn
nhau, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ nên luôn sống trong khổ đau, lầm lạc.
Năm loài cùng nêu trên có hai loài là chư Thiên va thần Atula có
phước sung mãn hơn người nhưng lo thụ hưởng nên không có điều kiện tu
tập; ba loài dưới người thuộc đẳng cấp thấp hèn nên không có văn hóa,
không có tình người; loài người do biết suy nghĩ, cảm nhận được sự khổ
đau và hạnh phúc nên có điều kiện tư duy, quán chiếu, soi sáng mọi việc
bằng nhận thức sáng suốt, có học hỏi, có tu tập, có văn minh, có hiểu
biết, có yêu thương, có cảm thông, có bao dung, có độ lượng, có tha thứ
và cùng san sẻ cho nhau nên loài người có đủ khả năng tu hành thành
Phật.
Đó là ưu điểm của loài người, năm loài kia không thể thành tựu Phật
đạo, chính vì vậy đức Phật mới giáng sinh nơi loài người. Theo lời Phật
dạy, thế gian này có năm loài cùng chung ở, hay gọi là sáu đường sống
chết-luân hồi, có hai loài chúng ta thấy biết dễ dàng nhất là thế giới
của loài người và súc sinh, bốn loài còn lại chúng ta có thể nhìn bằng
trực giác hay tuệ giác của Phật mới biết rõ sự hiện hữu ngay nơi cuộc
sống của mình.