Hạnh phúc của người Phật tử
18/04/2012 11:38 (GMT+7)


Sinh ra và lớn lên trong thế gian này, chúng ta đã mang theo mình những hành động từ quá khứ để nhận lấy những kết quả trong đời sống hiện tại, rồi mất đi và tiếp tục thu thập hành trang cho đời sống vị lai. Suốt quá trình mà chúng ta đã và đang nhận lấy rồi mất đi những gì từ nội thân hay ngoại cảnh đó được gọi là đời sống, kiếp sống, kiếp người vv.

Gọi là đời sống, kỳ thật chỉ là một quá trình duy trì, hoạt động của thân và tâm theo thời gian của tuổi thọ. Trong quá trình sống ấy, bằng hết cả ý chí ( cetanà_tư tâm sở_ nghiệp) , tận dụng bằng mọi phương tiện, hội nhập trong mọi hòan cảnh, chúng ta tìm cách thoả mãn sáu giác quan của mình bằng sáu đối tượng của nó. Những đối tượng đó theo tâm lý học Phật giáo là màu sắc  hình dạng, âm thanh, mùi, vị, đối tượng xúc chạm và đối tượng của ý nghĩ ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trần). Nói cách khác, chúng là những tiện nghi vật chất theo nhu cầu của con người như nhà cửa, xe cộ,  những phương tiện giải trí như ca nhạc, hội hoạ, bóng đá, du lịch, những món ăn, y phục thời trang, mỹ phẩm, tiền bạc, địa vị vv và vv…

         Theo Phật giáo, những tiện nghi ấy, những phương tiện ấy có được, một phần là kết quả của nghiệp thiện, phước báo mà chúng ta đã làm trong quá khứ, một phần do sự làm việc bằng nghề nghiệp chân chính của chúng ta từ chất xám và đôi tay trong hiện tại. Chúng ta nhận được và hưởng thụ chúng là hoàn toàn hợp lý.

     Đức Phật không hề kêu gọi người Phật tử, hay mọi người phải cam chịu sống đời nghèo khổ, không được hưởng thụ, không được làm giàu. Vấn đề ở đây là làm giàu, tạo ra của cải vật chất trên cơ sở hành động nào và thái độ hưởng thụ chúng như thế nào.  

  Đức Phật có giới thiệu bốn nguyên tắc đem đến hạnh phúc cho người Phật tử trong đời sống hiện tại:

1, Đầy đủ  nghề nghiệp mưu sinh_ Phương tiện cụ túc:

Có nghề nghiệp để mưu sinh, ổn định, giỏi kỹ thuật,  làm một cách chuyên cần, bằng sự tư duy tự mình làm hay hướng dẫn, quản trị người khác làm để phát triển nghề nghiệp ấy; xây dựng đời sống đầy đủ về vật chất bằng phương tiện chân chính. Đối với người thanh thiếu niên thì phải học văn hoá, nghề nghiệp.

2, Đầy đủ sự bảo vệ_ thủ hộ cụ túc:

Đối với những tài sản làm ra được, do lao động đổ mồ hôi một cách chân chính, thu hoạch đúng pháp thì giữ gìn, phòng hộ và bảo vệ chúng, không để bị mất mát bởi vua chúa quan quyền, trộm cướp, hoả hoạn, bão lụt, hay các người con hư hỏng.

3,Làm bạn với thiện_ thiện tri thức cụ túc:

Sống ở đâu, có những người thanh thiếu niên hay người đứng tuổi, mà  có những đức tính như lòng tin, có giới đức, có bố thí, có trí tuệ thì chúng ta tìm cách làm quen, tiếp cận. Đối với ai có đức tính gì thì  học tâỉp đức tính ấy và thực hành theo. Đây là làm bạn với thiện.

 4,Sống quân bình với tài sản _Chánh mạng cụ túc.

Sau khi biết rõ số lượng tài sản xuất nhập của mình thì sinh sống điều hoà, không quá phung phí hay quá bỏn sẻn. Như người cầm cân biết rằng với chừng ấy cân bổng lên, với chừng ấy cân hạ xuống. Khi thu nhập ít, không sống phung phí; khi thu nhập cao không keo kiệt bỏn sẻn, cơ cực.

      Có bốn cửa làm phung phí tài sản đã có: đam mê sắc đẹp; rựơu chè; cờ bạc; làm bạn với kẻ xấu, thân thiết với kẻ xấu, giao du với kẻ xấu.

      Có bốn cửa  để giữ gìn và làm cho tài sản được phát triển: không đắm say sắc đẹp; rượu chè; cờ bạc; bạn bè với người thiện, thân thiết với người thiện, giao du với người thiện.

(xem rõ Tăng chi bộ_IV 54 Dighajanu_ bản Việt_ĐTKVN_ trang 661; Tạp A Hàm kinh 91_ Đại chính II, trang 23 a)

   Đức Phật giới thiệu cách xử dụng tài sản như sau:

Tài sản làm ra nên chia làm bốn phần.

Một, dùng cho những nhu cầu cần thiết trong đời sống hàng ngày như ăn, mặc, ở….

Hai, để dành xử dụng khi bệnh hoạn, già yếu.

Ba, Bỏ vào vốn để phát triển vốn.

Bốn, chia thành ba phần dùng gieo vào ba loại ruộng phước ( phước điền).

a, Phụng dưỡng cha mẹ ( Ân điền)

b, Cúng dường Tam bảo  (Kính điền)

c, Giúp đỡ người nghèo, người bị tai nạn, giúp đỡ chúng sinh ( Bi điền)

     Đời sống của cá nhân nào dựa vào các nguyên tắc trên sẽ đưa đến hạnh phúc của người thế tục nếu ngược lại là dẫn đến đau khổ ngay trong đời hiện tại.

   Tuy nhiên,  ý nghĩa của hạnh phúc về mặt thế tục thì dù với định nghĩa bằng cách nào đi nữa, tuỳ theo quy ước của xã hội nào đó, văn hóa của dân tộc nào đó, hay quan niệm của người nào đó quy định thì  hạnh phúc ấy cũng dựa trên những khái niệm trừu tượng. Những khái niệm trừu tượng ấy phát sinh dựa trên vật lý, sinh lý, tâm lý của chúng ta, giới tính, tuổi tác, trình độ kiến thức, phong tục tập quán, xã hội, gia đình, bạn bè; có cả văn minh, văn hoá, quan điểm chính trị ở nơi ta đang cư trú Vì vậy, khi chúng ta mong muốn có được hạnh phúc trong đời  sống hiện tại, chúng ta sẽ có ý tưởng cố gắng đạt cho được những mục đích theo tiêu chuẩn nào đó của xã hội theo những khái niệm mà chúng ta bị ảnh hưởng.Như thế, Chúng ta không hề thật sự có hạnh phúc theo ý muốn riêng ta. Những gì mà chúng ta cho là hạnh phúc phải tuỳ thuộc rất nhiều yếu tố khác, vừa chủ quan vừa khách quan. Hạnh phúc thế tục luôn có các điều kiện của nó. Hay nói cách khác,hạnh phúc mà chúng ta đang mong cầu, tìm kiếm chỉ là những cảm giác thích thú do các giác quan cộng hưởng với đối tượng của chúng dựa trên những khái niệm của chúng ta về chúng.

 Tại sao? Nếu dựa trên những tiêu chuẩn, những khái niệm, quy định nào đó của xã hội mà có hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người thì tại sao cùng hòan cảnh, cùng trường hợp như nhau, đối với người này thật là hạnh phúc, nhưng đối với người khác lại thật là đau khổ. Một người tự nguyện sống ít muốn biết đủ thì họ sẽ hạnh phúc với những gì họ có được trong đời sống thiếu thốn. Họ sẽ sống hạnh phúc trong đời sống rẩt hạn chế về tiện nghi, vật chất. Nhưng đời sống đó lại là đau khổ cho người mong muốn đầy đủ và không bằng lòng với những gì đang có.

Ngay cả một người đang sống trong thành công, giàu có, đầy đủ, có quyền lực xã hội, gia đình tốt đẹp nhưng nếu họ đang bị lệ thuộc vào những cái đang có thì họ đang sống trong đau khổ, sợ hãi bởi sự lệ thuộc đó. Như một người bị trói bằng cái còng vàng bị mất tự do thì cũng đau khổ như người bị trói bằng còng sắt.

     Theo quan niệm của Phật giáo hạnh phúc thế gian thật sự là sự hỷ lạc từ sự thụ hưởng những gì chúng ta đang có do thiện nghiệp mà chúng ta đã và đang làm, cùng với ý chí và hiểu biết theo giáo pháp.

    Tuy nhiên, sự hạnh phúc thực sự ấy, cũng như tất cả các pháp khác trong đời sống  luôn luôn đang bị chi phối bởi luật chuyển biến (vô thường), tồn tại do tuỳ thuộc nhau (vô ngã), không hoàn hảo tuyệt đối (khổ). Hay nói cách khác, hạnh phúc mà ta đang cảm nhận thật sự rất mong manh, luôn luôn chuyển biến sinh diệt, tuỳ thuộc và vẫn đang trở thành cái khác từng giây phút.

    Sự vô thường, vô ngã, khổ ở đây, không hề có nghĩa bi quan, tiêu cực, đau khổ, thay đổi theo chiều hướng xấu như suy tàn, sụp đổ, thất bại, chết chóc như một số người đã ngộ nhận, và một số Phật tử cũng hiểu như thế.

    Vô thường là sự thay đổi, là sự thật hiển nhiên chứ không tích cực hay tiêu cực gì cả. Vô ngã là sự tuỳ thuộc để tồn tại.Khổ là sự không hoàn hảo, không trọn vẹn để trở thành. Như vậy, vô thường cũng có nghĩa là thay đổi tốt hơn hay xấu hơn, lớn hơn hay nhỏ hơn so với cái cũ. Sự khác nhau đó tuỳ thuộc vào các duyên trong tiến trình của nhân quả.

    Như vậy, dù hạnh phúc thực sự, chúng vẫn đang tiếp tục thay đổi và tuỳ thuộc để trở thành. Do đó, để giữ chúng lại, có người với sự lo lắng sợ hãi của mình, đang bằng trăm ngàn mưu kế, thủ đoạn hay cách gì đó để giữ gìn hay phát triển hạnh phúc mà họ đang bám víu lệ thuộc. Có người đang bị đau khổ vì  hạnh phúc của mình đang xuống dốc và đang tan mất theo từng ngay, từng giờ. Tất cả chúng ta đều muốn giữ lại hạnh phúc theo khái niệm, ý muốn của mình bằng mọi giá. Thế là, từ hạnh phúc, chúng ta  sinh ra đau khổ và sợ hãi.

    Đối với nỗi đau khổ và sợ hãi ấy, chúng ta thường xử lý bằng nhiều cách khác nhau như chạy trốn vào những cảm giác mạnh như uống rựợu, ma tuý, tự hành hạ bản thân, trả thù đời, hay luyện tập phương pháp thần bí nào đó để làm tê liệt các cảm giác nhưng sau đó càng đau khổ hơn. Có khi, ta tìm cách quên lãng sự thật ấy như vùi đầu vào công việc, vào tình yêu nam nữ, vào các thú vui thoả mãn các giác quan, nhưng sau đó lại càng nhớ thêm, càng quằn  quại thêm, ray rức thêm, không sao quên được rồi lại sợ mất đi. Có khi, ta tìm mọi cách để chống lại đau khổ và sợ hãi bằng cách chạy theo những gì ta thích thú, trừ khử những gì ta ghét bỏ, hay bằng nhiều cách lý giải, nguỵ biện, biện minh hay giải thích để phủ nhận sự thật, hay cầu xin van vái ở các thần thánh, đền miếu, các hình thức  tôn giáo.Nhưng khi chúng ta nổ lực chống lại đau khổ và sợ hãi thì sự bất mãn xuất hiện, bất mãn chính mình, bất mãn hòan cảnh sẽ tạo nên đau khổ khác càng khốc liệt hơn.

     Đối với sự thật hiển nhiên và chẳng dễ chịu chút nào này, người Phật tử có thái độ như thế nào?

   Cũng như những ngưòi khác, khi sống trong hạnh phúc, nhưng chưa đạt đến trình độ tu chứng của bậc thánh thứ nhất Dự lưu ( không còn ba phiền não: thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ) trở lên,  người Phật tử vẫn có sự lo sợ và đau khổ khi hạnh phúc đang chia tay từng ngày từng giờ với mình, hay đã đội nón ra đi.

Khi đối diện với sự thay đổi hạnh phúc của mình, người Phật tử không phản ứng với chúng bằng ba cách trên mà nhìn thẳng vào nó, phân tích nó bằng trí tuệ để thấy rõ bản chất sinh diệt của đau khổ và sợ hãi, nhận rõ đâu là trọng tâm của chúng, đâu là những ảo tưởng của ta. Lệ thuộc vào sự ưa thich (hữu ái), ghét bỏ ( phi hữu ái), hay tham muốn (dục ái) nên chúng ta sợ hãi với những gì mình đang ưa thich mà mất đi ( hoại khổ), hay đau khổ với những gì ta không thích mà cứ đến với ta (khổ khổ); bất an, lo lắng với những tham muốn vô bờ bến (hành khổ).  Đau khổ và sợ hãi cũng có chung ba trạng thái thay đổi, tuỳ thuộc, và trở thành như các pháp khác, nghĩa là chúng có đến thì chúng sẽ ra đi theo thuộc tính của chúng chứ không hề theo ý muốn của ta ( khổ đế).

Như vậy taị sao ta đau khổ và sợ hãi? Được trang bị giáo lý về quy luật nhân quả, nghiệp báo, người Phật tử hiểu rằng : chính tâm ta tự xây dựng một bức tường thành kiến và phê bình để tự bảo vệ mình, ta lại vô tình nhốt ta vào bức tường đó bằng những ưa thích và ghét bỏ của chính ta. Hay nói cách khác, đau khổ phát sinh do sự lệ thuộc vào tham ái, bám víu vào những khái niệm chiếm hữu (Tập đế)

    Như vậy,  hạnh phúc thực sự trong hiện tại và tương lai là gì?

Khi đã thấy rõ đâu là trọng tâm của đau khổ và sợ hãi, nguyên nhân và sự diễn tiến vô ngã của chúng, người phật tử không làm bộ phớt lờ, lẫn tránh hay chống đối hay mà luôn luôn tạo ra nhân duyên tốt cho đời sống bằng bốn pháp đem đến kết quả hạnh phúc hiện tại và tương lai:

  1. Đầy đủ chánh tín_ niệm Phật, Pháp và Tăng bảo: “vững lòng tin tưởng vào Đức Phật, và chấp nhận thực tại dưới ánh sáng của Tam Bảo, tin chắc chắn rằng ta có thể vượt qua, không còn lệ thuộc đau khổ và sợ hãi và sẽ trở thành một Bậc Giác ngộ như Đức Phật (niệm Phật). Học và thực hành giáo pháp theo đúng pháp ( niệm Pháp). Tin tưởngvà nương nhờ đoàn thể tăng già thanh tịnh và hoà hợp để cùng đi trên đường hướng đến an lạc, giải thoát ( niệmTăng).
  2. Đầy đủ giới_ niệm giới: Học, chiêm nghiệm, ứng dụng, thực hành năm giới trên cơ sở mười nghiệp thiện vào đời sống hằng ngày. 
  3. Đầy đủ tuệ : Hoc tập, chiêm nghiệm nhân quả thế gian và xuất thế gian bằng nguyên lý Bốn thánh đế và đặt mình trên đường tám chi chánh đạo hay giới định tuệ..
  4. Đầy đủ bố thí: làm các phước như bố thí, bố thí rộng rãi với bàn tay rộng mở, vui thích từ bỏ, vui thích chia sẻ vật bố thí phụng dưỡng cha mẹ, thương yêu gia đình, hiểu rõ và sống tuỳ thuận theo nhân quả. (Kinh Tăng chi đã dẫn trên)

       Bằng những nghiệp thiện, thiện pháp như thế làm duyên , hạnh phúc hiện tại vẫn thay đổi nhưng thay đổi thành kết quả chắc chắn tốt đẹp hơn. Cụ thể, phát tâm bồ đề mong cầu giác ngộ, đặt lòng tin chắc chắn vào Tam bảo, giữ giới luật, học Phật pháp, thực hành bố thí , người Phật tử luôn luôn sống trong hạnh phúc, trong bình an giữa sự thay đổi của hạnh phúc của cuộc đời mà không hề bị chi phối bởi sợ hãi và đau khổ.

        Song song với sự thực hành tám nguyên lý ở trên, người Phật tử cần phải học và thực hành bốn pháp đưa đến hạnh phúc  nơi tự tâm mà không lệ thuộc vào khái niệm hay điều kiện nào cả. Phật giáo gọi nó là an lạc trong hiện tại ( hiện pháp lạc trú).Hạnh phúc ấy không tuỳ thuộc vào các đối tượng của giác quan, chính tự mình cảm nhận ngay trong hiện tại với hòan cảnh của chính mình do sự tu tập bốn tâm vô lượng (Brahma vihàra) từ, bi, hỷ,và xả.

     Bất kỳ dân tộc nào, xã hội nào, nền văn hoá nào, tôn giáo nào, thời gian nào, ai tu tập bốn tâm vô lượng này thì đều được sự an vui hạnh phúc.

Được tu tập bằng bốn tâm vô lượng thì:

Khi xúc chạm việc đời, Tâm không động không sầu,

Tự tại và vô nhiễm, Là phúc lành cao thượng.

     Kinh Hạnh phúc ( Thầy Viên Minh dịch)

1.Tâm TỪ (mettà) : tâm lý không sân hận, không thù hận, không oán thù, không bất mãn với bất kỳ chúng sinh nào. Khi ta thù ghét ai đó và đang tìm cách thực hiện theo tâm thù ghét, oán hận đó, không biết họ có bị đau khổ không, nhưng thật sự ta đang quằn quại trong đau khổ bởi tâm thù hận của mình. Như ta đang cầm một cục sắt nóng, muốn ném ai đó, chẳng biết họ có bị trúng không, có bị đau khổ không nhưng rõ ràng là ta đang đau khổ vì tay ta đang nóng cháy. Khi có mặt tâm từ có nghĩa là vắng mặt tâm sân hận (dosa) không những làm cho ta bình tỉnh, thư thái mà còn làm cho ta trở nên cao thượng, tốt đẹp. Ở đây, chúng ta cần phân biệt rõ sự khác nhau giữa tâm từ và tình yêu do luyến ái, tình đồng loại, động chí, đồng chủng, đồng hương, đồng đạo, đồng nghiệp vv… Tình ái bao gồm tình dục chiếm hữu, tình yêu có điều kiện, là những tình cảm bị hạn chế,lệ thuộc bởi bản ngã, không gian và thời gian, là nguồn gốc của biết bao đau khổ và sợ hãi cho mình và người. Tâm từ không sân hận, là tình thương không điều kiện, vượt lên trên các tình cảm hẹp hòi ấy, không bị hạn chế bởi không gian và thời gian, rãi đến tất cả mọi sinh vật ở khắp muôn phương. Ở đây, chúng ta cần ghi nhận là tu tập tâm từ không có nghĩa là quên mình. Do đó, muốn tu niệm tâm từ, trước hết chúng ta phải niệm tâm từ đến chính mình, thương yêu, chấp nhận chính mình trước rồi mới đến tha nhân.

Hận thù diệt hận thù, đời này không có được,

Tâm từ diệt hận thù, là định luật ngàn thu.

              Pháp cú 5.(T Minh Châu)

2. Tâm BI (Carunà) là tâm lý không hung bạo, khinh thường, ghét bỏ, vô tình, hẹp hòi ích kỷ. Tâm bi luôn độ lượng, thông cảm, đối với những ai dưới ta, đang tuỳ thuộc ta, không bằng ta trong lĩnh vực nào đó. Tâm bi giúp ta đặt mình vào hòan cảnh của người khác để giúp đỡ họ.Khi ta có thái độ khinh thường, tự cao, vô tình, hẹp hòi, ích kỷ với những ai không bằng ta thì  ta đã gây ra biết bao điều tàn bạo, khủng bố cho thế gian và chính sự hung bạo ấy mà ta tự chuốc lấy phiền muộn, bực dọc cho mình, vì không có sự thông cảm với người khác, lo sợ vì họ sẽ có đựơc những gì mà ta đang có. Nguy hại hơn nữa là chính thái độ cao ngạo đó làm cản bước tiến của ta, tự mình cô lập mình, làm cho ta tụt lùi mà không biết. Tâm bi là động lực làm cho tâm ta rung động trước sự đau khổ của kẻ khác, muốn xoa dịu sự đau khổ của người khác, muốn họ được an vui, hết khổ mà không hề đòi hỏi sự đền đáp gì cả. Tâm Bi có năng lực vĩ đại, không gì phá hoại được như tình yêu của người mẹ đối với đứa con một của mình. Đối tượng của tâm bi là những người nghèo khổ, bệnh hoạn về thể xác hay tinh thần, thiếu thốn vật chất, thiếu tình thương, đang sợ hãi, ngu si, dốt nát, phóng đãng, hư hèn, thiếu văn hoá, đạo đức. Bằng tâm bi, ta tìm cách xoa dịu và hàn gắn tất cả các vết thương ấy đang từng ngày gây đau khổ cho tha nhân, tìm mọi cách làm cho họ được vượt lên, được thành công, hạnh phúc như mình đang có. Ta cũng nên biết, tâm bi không bao giờ là những giọt nước mắt suông, những tình cảm uỷ mị, những ý nghĩ thương hại, âu sầu, buồn bã.

Từ bi gieo cùng khắp, Cả thế gian khổ hải

Trên dưới và quanh mình, Không hẹp hòi oan trái,

Không hờn giận oán thù. Khi đi đứng ngồi nằm

Bao giờ còn thức tỉnh, Giữ niệm từ bi này

Thân tâm thường thanh tịnh, Phạm hạnh chính là đây.

                                           Kinh Từ bi (nt)

3.Tâm Hỷ: (muditā) là hoan hỷ, nhưng không phải là cảm giác vui cười, thích thú suông hay cảm tình riêng với ai đó, mà là tâm lý thật sự chia sẻ, hoan hỷ, tôn trọng với những thành công, tốt đẹp của người khác.

Thông thường chúng ta có thái độ ganh tị, chê bai, khó chịu với thành công của người khác với ý nghĩ tại sao họ được như vậy mà ta không được, rồi phủ nhận  tất cả khả năng tốt đẹp, thật sự của người khác. Do sự ganh tỵ đó làm động lực thúc đẩy chúng ta tranh đua, giành giật một cách bẩn thỉu, thủ đoạn, bất chấp công lý, đạo đức, hiểm nguy để đạt được những gì không phải của mình.Tâm lý đó, phát xuất từ tâm tham, không chịu thua thiệt ai. Nó tạo ra những mặc cảm tự ti và trói chúng ta vào đó,gây cho chúng ta không biết bao đau khổ

Nó mắng tôi đánh tôi, nó thắng tôi cướp tôi,

Không ôm hiềm hận ấy, hận thù được tự nguôi.

                      Pháp cú 4. (T Minh Châu)

     4.Tâm Xả: (upekkhā) là tâm nhận định chân chính, đúng đắn, khách quan với đối tượng mà ta đang tiếp xúc, không bị chi phối bởi thành kiến, ấn tượng, ưa thích hay bất mãn do phi như lý tác ý (Ayonisomanasikara). Bằng tâm lý cố bám víu vào những gì ưa thích hay bất mãn, những gì không đúng ý mình, ta trở nên thành kiến, cố chấp, cục bộ khi giao tiếp và nhận thức đối tượng. Chính những thành kiến, cố chấp này làm cho ta có biết bao nhận định sai lầm, đánh giá sai lầm, hiểu biết sai lầm dựa trên cảm tính, khái niệm, gây ra biết bao đau khổ cho mình và người. Người có tu tập tâm xả luôn luôn bình an với bất kỳ đối tượng nào vì không bị thành kiến chi phối, đánh lạc hướng nhận thức.Khi bị khinh chê, vu oan, hiểu lầm, phỉ báng, chỉ trích, người có tâm xả luôn bình thản không bị đau khổ , phiền não bởi chúng.

Như tảng đá kiên cố,  Không gió nào lay động,

Cũng vậy giữa khen chê, Người trí không giao động.

                    Pháp cú 81. (T Minh Châu)

      Tóm lại,Tâm từ không sân giận, thương yêu đến khắp các loài; tâm bi luôn giúp đỡ tất cả chúng sinh đang đau khổ, sợ hãi; tâm hỷ chia sẻ sự hoan hỷ thật sự với những ai hơn mình; tâm xả bình đẳng, không bất mãn, thành kiến đối với tất cả mọi người

   Như thế, bằng bốn tâm Từ, bi, hỷ xả, người phật tử đã và đang tiếp tục sống hạnh phúc an lạc như bậc thánh, xây dựng đời sống hạnh phúc ngay hiện tại mà không cần nhờ vả vào một quyền uy, hay đi tìm vào hoàn cảnh đặc biệt nào khác.Hạnh phúc ấy đang luôn có mặt với ta bây giờ và ở đây mà không cần phải tìm ở đâu hay đợi đến khi nào cả.

     Khác với các tôn giáo khác, Phật giáo không giới hạn trong sự tìm cầu sự an lạc của cõi người hay thiên giới mà mục đích là đạt đến sự hạnh phúc an  lạc của giác ngộ , giải thoát không còn bị lệ thuộc trong ba cõi. Sự an lạc đó là kết quả của quá trình tu tập do thấy Pháp, Thấy pháp là duyên đưa đến giác ngộ, giải thóat hòan toàn.

Theo Phật giáo, sự giải thoát, giác ngộ tuy được tu tập bằng nhiều pháp môn khác nhau nhưng vẫn tuân theo nguyên lý giới, định và tuệ, khai triển thành tám chi chánh đạo với ba giai đoạn: pháp học, pháp hành và pháp thành.

Giới (sīla) có nghĩa là hộ trì, bảo vệ bao gồm chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Giới là nền móng của sự tu tập. Giới không chỉ là những điều nên làm, không nên làm như luật pháp  hay đạo đức, luân lý xã hội, mà là các luật nghi (samvara) bao gồm những điều học (sikkhà pada _học xứ) bằng tự nguyện để vững vàng đi trên thánh đạo. Luật pháp thế gian thì được xây dựng bằng những quy định mang tính cách xã hội, bị giới hạn bởi không gian và thời gian, nếu vi phạm thì hậu quả sẽ là chiếc còng hay nhà tù do chính quyền đại diện cho nhân dân ở đất nước đó đặt ra. Đạo đức thì chỉ dành riêng cho loài người.Luân lý thì tuỳ theo dân tộc, địa phương. Giới luật của Phật giáo là hệ thống giáo dục, đạo đức có tính cách nhân văn, tuy được xây dựng trên nền tảng xã hội bằng chất liệu bình đẳng, từ bi, trí tuệ , nhưng mục đích hướng theo thánh đạo bao gồm định và tuệ, là nền tảng cho sự tu tập đưa đến giác ngộ giải thóat. Giới tại gia có công năng bảo vệ thân và khẩu nghiệp người cư sĩ không hành động theo nghiệp ác, không bị đoạ vào cảnh giới địa ngục, ngã quỷ, súc sinh.Giới tại gia đưa đến quả thánh Dự lưu, Nhất lai, hay có thể là Bất hoàn; đồng thời giới tại gia giúp đỡ người cư sĩ hành đạo bồ tát với tâm bồ đề cầu giác ngộ. Giới cụ túc của tỳ kheo có công năng hộ trì cả thân miệng ý người xuất gia luôn luôn sống ít muốn biết đủ ( thiểu dục, tri túc),chánh niệm tỉnh giác đứng vững trong thánh đạo một cách an lạc, tiến thẳng đến mục đích giải thoát, giác ngộ như các bậc A la hán, bậc Chánh đẳng giác.

Định (samādhi) bao gồm chánh tinh tấn, chánh định và chánh niệm. Ánh nắng mặt trời chiếu trên mặt chiếc đĩa thì nhiệt lượng chỉ làm khô mặt đĩa ấy. Nếu dĩa ấy là một kính lúp, thì chỉ với diện tích ấy,  năng lượng mặt trời cũng đủ để đốt cháy vật bên dưới.. Căn phòng bị mở hết sáu cửa thì gió sẽ lùa vào và ngọn lửa sẽ không đứng yên. Nếu đóng hết các cửa thì ngọn lửa sẽ đứng yên sẽ cho ta nhiệt lượng rất cao và thấy rõ mọi vật.

Trong đời sống bình thường, tâm ta bị ngoại cảnh chi phối, với sự hỗ trợ của các tâm sở phiền não như tham sân si, làm phân tán các năng lượng của nó, làm cho tâm không ghi nhận được sự thật về đối tượng. Do đó, chúng ta luôn nhận thức , hành động, nói năng, suy nghĩ theo cảm tính, quán tính của mình.Đây là nguyên nhân dẫn chúng ta đến đau khổ.

Như mái nhà vụng lợp, mưa gió thấm dột vào,

Cũng vậy tâm vụng tu, tham dục sẽ xâm nhập.

                                       Kinh pháp cú 13

Thiền định như tấm kính lúp , như đóng hết các cửa các giác quan lại, làm tập trung năng lượng của tâm. Khi được tập trung cao độ thì năng lực của tâm có thể xử lý tất cả đối tượng của nó.(….Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện_ kinh Di Giáo). Mục đích của thiền định là kiểm soát tâm, trao dồi tâm, tập trung năng lượng của tâm để dựa vào trí mà phát sinh tuệ.Đối tượng của thiền định là pháp tục đế (Pannatti), là khái niệm dựa trên 40 đề mục để tập trung tâm lại trên một đối tượng tự đó phát sinh hỷ lạc, khống chế đau khổ và sợ  hãi.

Tuệ (panna) bao gồm chánh kiến và chánh tư duy  là trí tuệ phân  tích đối tượng, thấy rõ thực tại của đối tượng do sự tu tập thiền quán (Vipassanà)theo tiến trình văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ.Thiền định tập trung tâm lại để nắm bắt đối tượng, nhưng để biết rõ đối tượng đó là gì thì phải nhờ vào công năng của thiền quán. Trong năm uẩn, tưởng uẩn (sanna_tri nhận) có vai trò nhận thức đối tượng.Nhưng hạn chế của tưởng là chỉ biết trên bề mặt của đối tượng, bằng khái niệm để hình dung và đặt tên cho đối tượng chứ không thấy được sự thật về đối tượng. Khi chưa thấy được thực tại ( pháp), ta nhận thức đối tượng bằng tưởng, bằng khái niệm. Như vậy, ta chỉ thấy bề mặt không hề thay đổi của đối tượng, rồi từ đó sinh ra đau khổ với đối tượng mà ta không thích, lo sợ đối tượng ta ưa thích mất đi, trong khi đó đối tượng lại đang  luôn thay đổi.Chúng thay đổi và tồn tại theo thuộc tính của chúng chứ không hề theo ý muốn của chúng ta.

“Ngoài sự sinh diệt ra, thế gian này như hoa đốm giữa hư không, không thật có” (Thế gian ly sinh diệt, du như hư không hoa_ kinh Lăng già tâm ấn) Hay nói cách khác, thế gian này chỉ là sự sinh và diệt của năm uẩn, lục căn và lục trần. Khi chưa thấy được pháp, mà chỉ thấy hình bóng pháp theo khái niệm thì ta vẫn bị tham sân si chi phối, đưa đến đau khổ, sợ hãi.

Khi một người thân như cha mẹ ta qua đời, ta sẽ đau khổ, khóc lóc vv..trong khi đó, ta vẫn học: “Thấy năm uẩn là không vượt tất cả khổ ách.” (Bát nhã tâm kinh) Vậy tại sao, thấy người chết là thấy vô thường, ta đã không vượt khổ ách mà lại càng đau khổ thêm??”

Vấn đề ở đây là, chúng ta chỉ thấy người thân như cha , mẹ, người thân  ta chết chứ có thấy năm uẩn sinh diệt đâu??!! Khi đối tượng của ta là người thân, thì tham ái phát sinh rồi ta bị tham ái ấy trói lại làm cho ta đau khổ. Như em bé đưa tay vào lọ kẹo, nắm chặt nắm kẹo thì sẽ bị giữ tay trong lọ kẹo. Ai giữ tay em trong lọ kẹo??chính là lòng tham ái đã giữ tay em lại. Cha, mẹ, người thân chỉ là khái niệm, khái niệm đâu có thật mà chết với sống. Ta đau khổ vì ta không thấy thật tại, thấy pháp mà chỉ tưởng về người thân, về sự chết bằng khái niệm, lệ thuộc vào tham ái …vì vậy ta đau khổ. Trên thực tại, người thân của ta đang sống, cũng chính là đang chết. Vậy tại sao đối với họ, ta không khóc, không đau khổ mà khi họ chết ta lại đau khổ. Bởi vì, chúng ta luôn sống và nhận thức bàng khái niệm, bị khái niệm chi phối nên ta khổ. Nếu ta thấy rõ được thực tại của người thân là 5 uẩn đang sinh diệt thì ta có còn lệ thuộc vào sự chết để bị khổ nữa không??!!. Khi chúng ta thấy rõ thật tại của cha hay mẹ chỉ là đương thể của năm uẩn, mà năm uẩn thì sinh diệt từng ngày, từng giờ…, sống mỗi phút, mỗi ngày là chết đi mỗi ngày thì sự tham ái sẽ không phát sinh và đau khổ sợ hãi không còn lý do để tồn tại.

Làm sao để thấy được thực tại, thấy được năm uẩn?? Đây chính là thiền quán với đối tượng là chân đế_ paramattha, Bằng thiền quán, ta sẽ thấy rõ được pháp, pháp chính là thực tại đang là vơi ba trạng thái của nó là luôn đang thay đổi, tuỳ thuộc nhau và không hoàn hảo (Vô thuờng, vô ngã, khổ). Ở đây, chúng ta cần ghi nhớ, trí tuệ thấy pháp là kết quả tu tập thiền quán theo tiến trình văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ (1) chứ không thể thành tựu chỉ do kiến thức, học vấn.

      Đức Phật dạy: “Ai thấy được lý duyên khởi người ấy thấy được pháp, ai thấy được pháp thì thấy lý duyên khởi.” (Trung bộ kinh_ kinh28_trang 191_T Minh Châu dịch)

     Bằng sự tu tập thiền quán, người Phật tử thấy được pháp_ thực tại đang là của đối tượng_ chỉ là hiện tượng đang thay đổi_ tuỳ thuộc mâu thuẫn để tồn tại_ không hoàn hảo để trở thành_ thì không bị chi phối bởi ba ảo giác là khổ khổ, hành khổ và hoại khổ. Sống trong đời sống sinh diệt nhưng bằng chánh niệm, tỉnh giác thì không bị chi phối bởi đau khổ hay sợ hãi. Thấy pháp tức là thấy Phật, là giác ngộ như chính Đức Phật đã tuyên bố:“ Nếu thấy pháp là thấy Ta (Phật), nếu thấy Ta là thấy pháp.Tại sao? Vì thấy pháp nên thấy Ta, vì thấy Ta nên thấy pháp” (Nguyên thuỷ PGTTL trích Vinaya III, trang 120_T Quảng độ dịch)

“ Những gì thuộc về hiện tượng (tướng) đều hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải là tướng  thì thấùùy được Như lai” Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như lai_kinh Kim cương)

Như vậy, hạnh phúc, an lạc của sự giải thoát không cần phải tìm ở đâu xa hay ở thế giới nào cả, hay đợi đến bao giờ cả mà nó đang có chính ở đây, ngay bây giờ nếu chúng ta sống với thế giới quanh ta bằng trí tuệ chứ không lệ thuộc khái niệm về đối tượng. Pháp chính là thực tại hiện tiền (sanditthika), không bị hạn chế bởi thời gian (akàlika) , tự chứng (ehipassika), hướng thượng (Opanàyika). Khi bằng tuệ tri thấy pháp_ thực tại đang là_ thì hạnh phúc an lạc đang có mặt với chúng ta.

Sống với thế giới quanh ta, đã bao lần nhìn sợi dây mà ta thấy là con rắn. Từ đó, đau khổ,  sợ hãi phát sinh. Ta tìm cách chạy trốn, hay quên lãng hoặc xua đuổi chống lại con rắn ở trước ta để thoát khỏi nỗi sợ hãi đau khổ trong ta. Những phương cách để chống lại con rắn càng làm cho chúng ta mệt mỏi, đau khổ và sợ hãi thêm mà không hề có kết quả, vì…nó chỉ là sợi dây.Trong hoàn cảnh đó, bằng ánh sáng của giáo pháp, người phật tử đứng lại, đối diện trực tiếp với thực tại ( giới); bình tỉnh tập trung nhìn thẳng vào nó ( định); rồi bằng trí tuệ do thiền quán vipassanà ( tuệ) , thấy rõ _thực tại nó đang là_ sợi dây thì sự đau khổ sợ hãi con rắn không còn tồn tại. Điều này đã từng được Ngài Huệ Năng nói lên: “Xưa nay không một vật, Thì bụi bám vào đâu” (Trí Hải dịch) (Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai_ Đàn kinh)

Hạnh phúc an lạc tuyệt đối do giác ngộ thật tại_pháp_ đã được Đức Phật tuyên bố:

“Ôi người làm nhà kia, nay ta đã thấy ngươi

Ngươi không làm nhà nữa, đòn tay ngươi bị gãy,

Kèo cột ngươi bị tan,tâm ta đạt tịch diệt,

Tham ái thảy tiêu vong”.

                            Pháp cú 154_(TMC)

Nha-Trang, Long sơn, mùa An Cư 2548                                                         

Chú thích:

 1. Văn tuệ (hay Huệ)_ _Hán. ( suta-maya-panna): Knowledge based on learning: trí tuệ phát sinh dựa trên học hành, cái đã nghe.Có nghĩa là sự hiểu biết phát sinh theo quá trình học , thực hành giáo pháp. ). (vì thời Phật không dùng sách, chỉ dạy trực tiếp bằng lời nói, và người học phải học bằng lắng nghe.Nghe trong hòan cảnh bây giờ chính là học.)

 ( SUTA (pp. của sunāti) đã nghe. nt. thánh điển, sự học hỏi, cái chi đã được nghe. Maya _ pali_: làm, hòan thành, tùy theo nơi….( Buu chon)

Panna, Nana_(Pali) tuệ hay huệ : understanding, knowledge, wisdom, insight: sự hiểu biết đúng với Pháp.

Ở đây, văn tuệ, là danh từ Hán Việt , không phải danh từ thuần Việt, nên tuệ là từ trung tâm , văn là từ bổ nghĩa. Tư tuệ hay tu tuệ cũng vậy.

2. Tư tuệ    ( CINTA-MAYA-PANNA-Pali _ : Knowledge based on Thinking:sự hiểu biết, trí tuệ phát sinh do lắng nghe đúng, và tư duy đúng GIÁO PHÁP do Đức Phật dạy

  Cinta_pali_:  tư duy, cân nhắc

 3. Tu tuệ  修  慧  ( Bhavana-maya-panna) : Knowledge based on mental development; trí tuệ phát sinh dựa trên sự phát triển của tâm trí do thực hành giáo pháp.

(BHĀVANĀ f. sự tiến triển, sự phát triển của tinh thần, do học hành thiền.

Ba tuệ này chỉ được dùng đối với giáo pháp, không dùng cho kiến thức thế gian.

( sự giải thich này căn cứ Kinh Trường bộ số 33_ chúng ta có thể xem trực tiếp ở bản dịch Việt ngữ)

Tuy nhiên, Câu xá luận cho một định nghĩa cụ thể hơn:

_ Văn tuệ : tuệ phát sinh do học và hiểu đúng giáo pháp

_ Tư tuệ : tuệ phát sinh do thực hành thiền định.

_ Tu tuệ: tuệ phát sinh do thực hành thiền quán. ( Câu xá_phẩm Trí)

Nguồn: Quangduc

Các tin đã đăng: