Tiểu Thừa và Đại Thừa không phải là hai học phái khác nhau mà thật ra chỉ là hai thái độ hành xử khác nhau trên con đường.
Thái độ thứ nhất (Tiểu Thừa) thì khuyên chúng ta phải hành xử thật chính xác và luôn buông xả, còn thái độ thứ hai (Đại Thừa) là phải mở rộng con tim của mình đến vô tận.
Không thể nào thực hiện được cách thứ hai (phép tu tập Đại Thừa) nếu chưa đủ sức nắm vững được cách thứ nhất (phép tu tập Tiểu Thừa).
Tuy nhiên sự chuyển tiếp đó cũng có thể tự động xảy ra. Vào một lúc
nào đó trên con đường, tiếng réo gọi của sự rộng mở ấy cũng chợt vang
lên một cách tự nhiên.
Sự réo gọi đó không phải chỉ xảy ra một lần và sau đó thì im bặt.
Khi đã bước theo được con đường tiểu thừa thì đến một lúc nào đó nhất
định là các ước vọng mang tính cách đại thừa cũng sẽ hiện ra với chúng
ta (cứ nhìn vào sự sinh hoạt xã hội ở
Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan... thì sẽ thấy ngay là lòng từ bi Phật
Giáo tuy không được thường xuyên nêu cao và ca ngợi như trong các quốc
gia đại thừa thế nhưng luôn thấm đượm và bàng bạc khắp nơi trong sự
sinh hoạt xã hội của các quốc gia này). Tuy nhiên không phải vì thế mà Tiểu Thừa sẽ bị loại bỏ (sau khi đã bước vào Đại Thừa). Tiểu Thừa lúc nào cũng là một căn bản tối cần thiết trên con đường mà chúng ta đang bước đi.
Hình thức Phật Giáo Theravada như đang được phát triển ngày
nay ở Á Châu có đúng thật là Phật Giáo xưa và trung thực nhất với giáo
huấn do Đức Phật thuyết giảng khi còn tại thế hay không?
Không! Trước nhất là Theravada không hoàn toàn thừa hưởng toàn bộ
Phật Giáo xưa, mà chỉ đại diện cho một trong số mười tám học phái xưa
còn tồn tại. Tất cả các học phái xưa khác đều đã mai một.
Phật Giáo Theravada cũng đã biến đổi rất nhiều qua dòng lịch sử hàng nhiều thế kỷ (đối
với một người Phật Giáo thấu hiểu được thế nào là quy luật tương liên
và vô thường thì cũng sẽ phải hiểu rằng không có gì là bất biến cả).
Phật Giáo Theravada tự nhận là chính thống và bảo thủ và cũng do đó đã
tự cho mình là đã giữ được nguyên vẹn giáo huấn của Đức Phật. Nhiều
học giả Tây Phương cũng có khuynh hướng chủ trương quan điểm này - thế
nhưng việc tu học của riêng họ thì lại phản ảnh một khuynh hướng cải
cách nào đó (nhận xét này của tác giả
rất chính xác và tinh tế, bởi vì có nhiều người Tây Phương tu tập theo
Theravada thế nhưng sự sinh hoạt và tư tưởng của họ phản ảnh khá rõ
rệt các khía cạnh đại thừa). Dù sao đi nữa thì tất cả các
học phái Phật Giáo đều tự cho mình là theo đúng nguồn gốc giáo lý của
Đức Phật. Nếu nhìn trên khía cạnh đó thì cũng thật khó để khẳng định
giữa Theravada và Phật Giáo Tan-tran là học phái nào theo đúng với giáo
lý hơn.
Trên phương diện lịch sử thì nhất định Theravada không phải là Phật
Giáo xưa nhất trong các vùng Đông Á. Hình thức Phật Giáo bám rễ trước
tiên vào toàn vùng đất này là Phật Giáo Đại Thừa và đặc biệt nhất là
Tan-tra Thừa - Theravada chỉ đại diện cho một thiểu số không đáng kể (trong thời kỳ khởi nguyên này).
Vào thế kỷ XII ở Tích Lan, vì lý do chính trị chỉ có Phật Giáo
Theravada là được phép chính thức sinh hoạt, do đó đã lấn lướt tất cả
các học phái khác. Sở dĩ Theravada đã phát triển mạnh tại Tích Lan đấy
chính là nhờ vào sự hậu thuẫn chính trị của thể chế quân chủ thời bấy
giờ và cũng vào lúc đó thì Phật Giáo đang bước vào một thời kỳ suy
thoái ở khắp nơi khác tại Á Châu. Thời kỳ vàng son trước đây đã bắt đầu
chấm dứt (Phật Giáo bắt đầu phát
triển rất mạnh tại các vùng Cận Đông, Ấn Độ và Á Châu từ các thế kỷ thứ
III và thứ II trước Công nguyên và đã đạt đến mức tột đỉnh vào các thế
kỷ thứ V đến VIII sau Công nguyên, hầu hết các vị đại sư trong lịch sử
Phật Giáo đều xuất hiện trong giai đoạn tột đỉnh này: từ Long Thụ vào
thế kỷ thứ II đến Tịch Thiên vào thế kỷ thứ VIII. Tan-tra Thừa cũng
được hình thành vào khoảng thế kỷ thứ V. Ở Trung Quốc thì Phật giáo rất
hưng thịnh dưới thời nhà Đường tức vào khoảng thế kỷ thứ VI đến thứ
VIII, Thiền Học được hình thành vào thế kỷ thứ V và VI và đã phát triển
nhanh chóng sau đó. Phật Giáo cũng đã được đưa vào Nhật Bản vào thế kỷ
thứ VI. Sau thời kỳ hưng thịnh kéo dài khoảng mười thế kỷ trên đây thì
Phật Giáo bắt đầu suy tàn, và riêng tại Ấn Độ thì có thể xem như hoàn
toàn biến mất sau thế kỷ thứ XII).
Dù sao thì cũng không thể nào xem học phái Theravada (của Tích Lan)
như là một nhánh của Phật Giáo chính thống được, bởi vì học phái này đã
dựa vào Phật Giáo Miến Điện để phục hưng và làm sống lại truyền thống
xuất gia mà trước đây đã bị mai một ở Tích Lan (Phật
Giáo được vua A-dục đưa vào Tích Lan vào thế kỷ thứ III trước Công
nguyên. Phật Âm (Bouddhaghosa) từ Ấn Độ đã đến Tích Lan vào thế kỷ thứ V
và là người đã trước tác tập Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) và đấy
cũng là tập luận giải giáo lý quan trọng nhất của Theravada. Phật Giáo
Đại Thừa và Tan-tra thừa được đưa vào Tích Lan vào thế kỷ thứ VIII và
đã phát triển tại đây đến thế kỷ thứ XI, thế nhưng sau đó thì suy tàn.
Nói chung thì sau thời kỳ này Phật Giáo suy yếu dần và mất hết ảnh
hưởng tại Tích Lan sau khi bị các sắc dân khác - như Tamil và Hindi - từ
Ấn độ đến xâm chiếm và sau đó thì đến lượt người Bồ-đào-nha và người
Anh đổ bộ và xâm chiếm Tích lan trong thời kỳ thuộc địa. Phật Giáo
Theravada tại Tích Lan ngày nay chỉ là một sự phục hồi với ít nhiều vay
mượn từ Phật Giáo Miến Điện. Cũng xin nhắc thêm là chính người Anh đã
mang Tam Tạng Kinh bằng tiếng Pa-li từ Tích lan về Anh Quốc để dịch ra
tiếng Anh và bản tiếng Anh này đã tạo được nhiểu ảnh hưởng lớn trong
các quốc gia Phật Giáo Theravada ở Á Châu, trong đó có cả Tích lan,
Miến Điện và Thái Lan, và đồng thời cũng đã góp phần vào sự quảng bá
Phật Giáo trên toàn thế giới. Lý do là trước đó Tam Tạng Kinh hầu như đã
chìm vào quên lãng vì không có mấy ai đọc được tiếng Pa-li kể cả những
người sinh sống trên đảo Tích Lan).
Có thể đồng hóa Theravada với Tiểu Thừa hay không?
Nói chung thì từ kinh sách cho đến một số các quan điểm liên quan
đến các khái niệm đặc thù về giáo lý, kể cả các phương pháp tu tập của
Theravada..., tất cả đều mang ít nhiều khía cạnh rất gần với cách định
nghĩa về Tiểu Thừa.
Thế nhưng khái niệm về "Tiểu Thừa" thì lại chỉ nhất thiết mang một
số ý nghĩa nào đó khi được sử dụng để làm nổi bật các đặc tính cá biệt
của "Đại Thừa", và do đó không thể nào nêu lên để biểu trưng cho bất cứ
một học phái Phật Giáo nào cả. Thật vậy trên thực tế không có một học
phái nào lại tự nhận mình là thuộc Tiểu Thừa. Dù sao đi nữa thì đối với
một vài khái niệm nhất định nào đó - chẳng hạn như cách hiểu về cái
ngã - thì cả hai, Theravada và Đại Thừa, đều đưa ra các cách giải thích
khác nhau (xin mạn phép tóm lược lại
là thuật ngữ Tiểu Thừa chỉ được sử dụng trong trường hợp khi phải
định nghĩa Đại Thừa là gì và trên thực tế thì không hề đại diện cho một
học phái nào cả. Theravada là một học phái phát xuất từ một trong số 18
học phái xưa và do đó không thể hoàn toàn đại diện cho toàn bộ học
phái Phật Giáo "Nguyên Thủy" được).
Nếu xét trên mặt thực tế và phương pháp tu tập thì sẽ nhận thấy ngay
là Theravada cũng không phải là không mang một vài khía cạnh huyền bí
và diệu kỳ nào đó như chúng ta đã từng hiểu sai. Phật Giáo Theravada
đôi khi cũng cho thấy một vài ảnh hưởng từ Tan-tra, kể cả việc tôn thờ
các thần linh địa phương. Do đó không thể nào xem Theravada như là Phật
Giáo xưa của Ấn Độ được, và cũng không thể xem đấy là một hình thức
Phật Giáo tuyệt đối tôn trọng ý nghĩa của khái niệm Tiểu Thừa, mà đúng
hơn đấy chỉ là một hình thức Phật Giáo đã thu nhập thêm nhiều tập quán
địa phương sau khi bành trướng ở Đông Nam Á (tại
các nước như Campuchia, Tích Lan, Thái lan, Miến Điện người ta cũng
nhận thấy một vài hình thức dị đoan và "thờ cúng" nào đó trong sự sinh
hoạt dân gian, thế nhưng đấy không phải là Phật Giáo, mà đúng hơn chỉ
là những ảnh hưởng phản ảnh "văn hóa" và "phong tục" địa phương, chẳng
khác gì với trường hợp của Đại Thừa).
Nếu muốn bước theo con đường Đại Thừa thì phải làm thế nào?
Trong khi Phật Giáo xưa nhất thiết chủ trương phải rời bỏ gia đình,
phải cắt đứt mọi sự ràng buộc và bám víu vào thế tục để bước vào một
cuộc sống biệt lập với thế giới, thì Đại Thừa lại chủ trương một lối tu
tập thật dũng cảm, tức là phải phục vụ cho toàn thể nhân loại và giúp
đỡ tất cả chúng sinh có giác cảm, tức biết cảm nhận được sự khổ đau.
Phải thật dũng cảm
Bất cứ những ai khi đã bước theo vết chân của Đức Phật thì đều có
thể được xem là những vị anh hùng, quan điểm này cũng khá giống với quan
điểm về người hiệp sĩ trong văn hóa Tây Phương. Người hiệp sĩ vừa phải
xả thân để giúp đỡ người khác, lại vừa phải rèn luyện hầu giúp mình có
thể vượt lên trên sự sợ hãi và yếu hèn, tính ích kỷ và sự lười biếng.
Đôi khi chính Đức Phật cũng được xem như là một vị Anh Hùng. Nhiều câu chuyện dân gian gọi là jataka (được gom góp trong Bổn Sinh Kinh)
thuật lại các tiền kiếp của Đức Phật. Trong các câu chuyện này tiền
thân của Đức Phật thường mang hình tướng thú vật và trong mỗi câu
chuyện thì Ngài đều hy sinh mạng sống của mình. Thí dụ như trong một
tiền kiếp Ngài là vị vua của các loài hươu nai và đã hy sinh mạng sống
của mình vì sự an lành của toàn thể thần dân của mình tức là tất cả hươu
nai; hoặc trong một câu chuyện khác thì Ngài từng là một con cọp cái
và đã hy sinh thân xác mình để làm thức ăn nuôi đàn con giúp cho chúng
không bị chết đói.
Khi đã bước theo con đường Đại Thừa thì người tu tập lúc nào cũng
phải ước mong sẽ hóa thành chính con đường của Đại Thừa hầu giúp mở
rộng "con tim giác ngộ" của chính mình, một con tim biết yêu thương,
sẵn sàng hy sinh tất cả nhằm giúp cho lòng từ bi của mình có thể bùng
lên khiến cho mọi khổ đau phải chấm dứt.
Tuy nhiên chúng ta cũng nên thận trọng vì lòng từ bi không phải là
một cách cố gắng tỏ ra tử tế hay phát lộ sự thương hại. Không có gì tủi
nhục hơn khi cảm thấy rằng người khác tìm cách giúp mình chỉ vì họ
thương hại mình. Theo Đức Phật thì đấy không phải là một con đường
chính đáng. Một thái độ anh hùng đích thật không phản ảnh một cảm tính
phân biệt nào giữa mình và người khác, cũng không mang một hậu ý phân
chia thứ bậc nào giữa người giúp đỡ và người được giúp đỡ.
Hồi hướng công đức của mình cho sự tốt lành của tất cả chúng sinh
Những gì tối quan trọng chính là động cơ thúc đẩy trong lòng người
tu tập: đấy là sự quyết tâm đặt sự tốt lành của tất cả chúng sinh lên
trên hết, vượt hơn cả quyền lợi của chính mình. Cách hành xử đó không
hẳn chỉ giản đơn là một thứ mục tiêu để cho "người anh hùng mong cầu
tìm được giác ngộ" hướng vào đấy mà chính người anh hùng phải xem đấy
là tất cả lẽ sống của đời mình.
Ngoài ra người anh hùng chẳng những phải tuân thủ các giới luật chi
phối từ bên ngoài cuộc sống của mình như đã được quy định trong các kinh
sách xưa, mà còn phải quan tâm đến nội tâm của mình nữa, và điều này
thật hết sức quan trọng. Phải loại bỏ tất cả các ý nghĩ tự xem mình là
trung tâm, đấy là cách giúp mình tập trung nghị lực để kiên quyết hướng
vào người khác. Đồng thời đấy cũng là cách giúp mình loại bỏ được tận
gốc rễ thái độ ích kỷ tự cho mình luôn phải gánh chịu cảnh thiếu thốn
mọi thứ và thiệt thòi đủ điều, trong khi các người khác thì lại được
hưởng đủ mọi thứ ưu đãi. Theo Phật Giáo thì thái độ ấy hoàn toàn phi lý
và nhất thiết chỉ mang lại khổ đau cho mình mà thôi (đấy
là một cách suy nghĩ phát sinh từ sự ganh tị và không hề nghĩ đến quy
luật nhân quả cũng như không hiểu gì về sự vận hành tự nhiên của mọi
hiện tượng).
Tại sao lại phi lý? Bởi vì tất cả chúng ta đều tương kết với nhau -
nếu một người nào đó làm thương tổn đến một người khác thì đấy cũng
chính là cách mà mình tự làm thương tổn đến chính mình.
Tại sao lại đau buồn? Bởi vì chúng ta luôn tìm đủ mọi cách để xông
vào những cuộc xung đột bất tận chống lại toàn thể nhân loại (đau buồn tại vì ganh tị với tất cả mọi người khác và tự xem mình là trung tâm và xem tất cả nhân loại không phải là mình).
Trong khi đó thì hạnh phúc lại là một thể dạng thư giãn thật sâu xa,
vì thế trạng thái căng thẳng trong lòng sẽ không thể nào mang lại cho
mình cái thể dạng an vui ấy được.
Trên khía cạnh đó nếu muốn trở thành một người anh hùng thì phải thật sự phát huy được một tấm lòng yêu thương thật bao la.
Phải thực hiện được sáu điều hoàn thiện (Lục Ba-la-mật)
Muốn bước theo con đường Đại Thừa thì phải thực hiện cho bằng được sáu điều hoàn thiện là: rộng lượng (bố thí), giữ giới, nhẫn nhục, nghị lực, thiền định (sự chú tâm), sự hiểu biết đúng - tức là trực giác - mang tính cách siêu nhiên (prajna / trí tuệ). Đấy là các phẩm tính giúp vượt qua con sông của sự lầm lẫn để đến được bờ bên kia.
Trong số sáu điều hoàn thiện chúng ta thử tìm hiểu xem điều thứ nhất tức là sự rộng lượng có nghĩa là gì (vì
đây là một quyển sách nhập môn nên tác giả Fabrice Midal chỉ giải
thích về một trong sáu điều hoàn thiện như một thí dụ điển hình, vì nếu
phải giải thích tất cả sáu điều hoàn thiện thì biết đâu cả một quyển
sách cũng không đủ. "Sáu Điều Hoàn Thiện" hay "Lục Ba-la-mật" của Đại
Thừa Phật Giáo cũng có thể xem như tương đương với "Con Đường Của Tám
Điều Đúng Đắn" hay "Bát Chánh Đạo" của Phật Giáo Theravada, chỉ khác
ít nhiều trên phương diện trình bày).
Rộng lượng biểu trưng cho sự bố thí đích thật, có nghĩa là bố thí mà
không chờ đợi hồi đáp, một sự buông xả thật sự. Nếu cho mà còn chờ
đợi một sự biết ơn hay một thứ lợi lộc nào đó thì đấy chỉ là một cách
hối lộ. Hành động ấy không thể biểu trưng cho một sự hiến dâng đích thật
được mà đấy chỉ là một hình thức buôn bán.
Sự hào phóng đó đương nhiên liên hệ đến ý nghĩa của tánh không. Đối
với sự bố thí đích thật thì không hề có ai cho bất cứ gì mà cũng chẳng
hề có ai nhận bất cứ gì - không có ai là con nợ mà cũng chẳng có ai là
chủ nợ cả. Bố thí chỉ vì yêu thương Đại Thừa, giúp mình hòa nhập với sự
chuyển động của Đại Thừa, và nhất là không nên để cho bất cứ một hành
động nào của mình có thể khiến cho ý nghĩa của hành động bố thí ấy bị
giới hạn đi. Chúng ta bố thí với những xúc cảm thật tròn đầy hiện ra
trong lòng, và đấy cũng chẳng khác gì một cách làm hiển lộ sự phong phú
của chính mình.
Đại Thừa gồm có rất nhiều học phái khác nhau và tất cả đều chọn cho
mình con đường từ bi của người anh hùng. Tuy nhiên cũng có thể chia Đại
Thừa thành ba nhóm chính là: Thiền Học Zen, Phật Giáo Tịnh Độ và Phật
Giáo Tan-tra (đôi khi còn được gọi là Tan-tra Thừa, hay Kim Cương Thừa)
(dù sao đi nữa thì cũng xin đừng gọi là "Mật Tông" vì không có gì có thể sai lầm hơn).
Bures-Sur-Yvette, 28.06.12
Tác giả Fabrice Midal - Hoang Phong chuyển ngữ