Lục hoà là lối sống căn bản của Tăng đoàn
Tăng Ni là
hàng xuất gia đều biết tính quan trọng của phép Lục hòa đối với đời sống Tăng
đoàn. Quý vị phải ứng dụng cho được những điều căn bản Đức Phật đã dạy, đồng
thời nhắc nhở gia đình Phật tử cùng hiểu biết, sống đúng với tinh thần ấy.
Tăng, chữ
Phạn là Sangha, Trung Hoa dịch âm là Tăng-già, dịch nghĩa là hòa hợp chúng. Tức
chỉ một số tu sĩ, hoặc Tăng hoặc Ni sống chung với nhau trong tập thể, hòa hợp
vui vẻ tu hành, nên còn gọi là hòa hợp Tăng. Quý thầy, quý cô sống hòa hợp thì
gọi là Tăng, không hòa hợp thì không đủ nghĩa của Tăng. Đức Phật đặt sự hòa hợp
trên tất cả các giới luật. Nếu chúng ta sống không hòa hợp thì sự tu hành không
bao giờ tiến. Ở đây tôi cũng xin nhắc lại từng phần để chúng ta thấy được chỗ
thấu đáo Phật dạy.
1. Thân hòa đồng trụ: Điều này vào thời Đức Phật thực hiện rất dễ, nhưng thời
chúng ta ngày nay hơi khó một chút. Bởi vì sống chung một chùa, một tinh xá thì
chư Tăng hoặc chư Ni cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng tu như nhau không khó. Tất
cả nếp sống, công tác, hạnh kiểm tu hành hàng ngày đều như nhau, gọi là thân
hòa đồng trụ. Trong trường hợp mỗi thầy, mỗi cô ở mỗi chùa thì việc hòa hơi
khó. Vì vậy thân hòa đồng trụ là chỉ cho một tập thể chung sống một chỗ, chứ
không chỉ cho những người sống rời rạc. Cho nên các vị sống riêng tư phải chịu
thiệt thòi này.
Chúng ta sống
trong chùa hay thiền viện thì thực hiện thân hòa đồng trụ dễ. Bởi vì không ở
riêng, không có quyền lợi riêng nên làm cùng làm, ăn cùng ăn, mặc cùng mặc, mọi
công tác hay giờ tu hành đều nhịp nhàng với nhau. Hòa hợp như vậy thì nếp sống
đạo đức rất tốt. Đó là nói về thân hòa đồng trụ.
2. Khẩu hòa vô tránh: Tức miệng cùng hòa hợp nhau, không gây gổ, không nói
những lời dữ, lời nặng nề, không tranh hơn thua với nhau. Ở đây tôi nhắc chung
cho cả các Phật tử tại gia. Chúng ta sống làm sao được khẩu hòa vô tránh, tức
là miệng nói những lời hòa nhã, nhẹ nhàng, dễ mến, chớ không cãi lẫy, rầy la
lớn tiếng. Nhưng e rằng có vị làm trụ trì hoặc tri sự nói: “Sai làm mà không
làm, không rầy sao được?”. Mới nghe thấy có lý nhưng trên tinh thần đạo đức thì
khác.
Chúng ta lâu nay có quan niệm,
những gì mình nghĩ đều cho là đúng, ai nói khác hơn mình không vui, mà không
vui thì có cãi. Ví dụ có hai người, một người khen hoa hồng đẹp, một người chê
xấu. Người khen hoa hồng đẹp bị người kia chê: “Nói bậy, nó xấu như vậy mà nói
đẹp, đẹp ở chỗ nào?”. Bấy giờ người khen hoa hồng đẹp chắc khó nín được. Khi
mình nói đẹp, người khác chê xấu thì bực bội nên cãi nhau. Cả hai đều không
biết điều đó đúng hay không? Mỗi người có quyền nhìn, có quyền nhận định riêng.
Ta thấy đẹp, đó là nhận định riêng của mình. Người khác thấy xấu, đó là nhận
định riêng của họ. Cho nên muốn khỏi cãi nhau, chúng ta lắng nghe Phật dạy
trong kinh A-hàm: Người biết tôn trọng chân lý là khi nói điều gì, chỉ
nói “đây là cái nghĩ của tôi”. Ngang đó thôi, không thêm chữ “đúng”. Nếu nói
tôi nghĩ đúng thì sanh chuyện ngay. Mỗi người có quyền nhận định riêng, hoa
hồng không cãi đẹp xấu, mà mình cãi với nhau làm chi? Nó là nó thôi. Tại vì ta
cho nhận định của mình là đúng, người khác nói ngược lại thì nổi sân lên. Mà
nhận định của mình có đúng chân lý chưa? Dĩ nhiên là chưa.
Tôi thường ví dụ, hôm trước tôi
ngồi trên núi, thấy hướng Nam
có cụm mây đen, gió thổi đùa qua, một lát mưa xuống ào ào. Hôm nay tôi thấy cụm
mây đen như thế, nghĩ thế nào cũng mưa nên bảo quý thầy đem đồ vô. Nếu thầy nào
không nghe lời tôi sẽ giận và rầy la. Đó là do tôi lấy kinh nghiệm hôm trước
đặt cho hôm nay. Nhưng không ngờ một lát gió đổi hướng, mây tan, trời không
mưa. Lúc đó sao? Mình kêu người ta đem đồ vô, nhưng trời không mưa, mình có xin
lỗi không? Lỡ rồi làm thinh, không ai nhắc tới thì thôi, thông qua luôn. Quý vị
làm trụ trì, tri chúng hay vấp phải lỗi này lắm.
Trên thế gian, mọi sự việc xảy ra
đều tùy duyên. Hôm qua duyên khác hôm nay duyên khác. Vậy tất cả suy nghĩ của
chúng ta có đúng không? Đúng một phần thôi, chứ chưa phải tuyệt đối. Nhưng khi
suy nghĩ điều gì, ta thường cho đó là đúng tuyệt đối, ai làm khác thì nổi giận
liền. Do nổi giận nên gây ác khẩu, nói bậy, nói những lời vô nghĩa, khiến cho
người ta đau buồn. Đó là phạm lỗi khẩu hòa vô tránh.
Tăng Ni phải
nhớ, sống sao cho người đến chùa, tinh xá không nghe một tiếng la hét nào hết.
Như thế mới tốt, mới vui hòa. Nếu vào chùa lát nghe cô này la, cô kia cự thì có
hòa không? Người tu còn không hòa, làm sao dạy Phật tử sống hòa vui được. Cho
nên Phật bắt buộc chúng ta phải lấy chữ
“Hòa” làm nền tảng tu và dạy người. Phải hiểu nhận định của mình chỉ đúng phần
nào thôi, chớ không bảo đảm trăm phần đều đúng. Nên khi trình bày ý kiến của
mình với người khác, chỉ nên nói “cái hiểu của tôi như thế, anh chị có thể nghĩ
khác” thì không có lỗi, chớ đừng vội cãi vã. Nhiều khi ta cãi trước khi sự việc
đến. Đó là điều không tốt trong đạo. Cho nên Tăng Ni phải tự kiểm để biết những
gì sai lầm của mình, mà chỉnh lại cho đúng.
3. Ý hòa đồng duyệt: Ý của chúng ta hòa hợp, vui vẻ với nhau. Hòa thì vui.
Muốn hòa vui thì phải làm sao? Phải đừng cho cái nghĩ của mình là đúng. Ta
thích điều đó mà người khác không làm, không giúp, còn ngăn cản thì mình có
giận không? Chắc chắn là giận. Nhưng quý vị thử nghiệm lại xem, huynh đệ sống
chung, tất cả ý niệm, suy gẫm đều giống hệt hay mỗi người mỗi ý? Hầu hết là mỗi
người mỗi ý, không ai giống ai. Nếu giống hệt Phật không bắt chúng ta hòa làm
chi. Người nghĩ thế này, người nghĩ thế nọ, không giống nhau thì sống chung có
vui không? Sống gượng thôi chớ không vui. Người tu mà bực bội, không vừa lòng
mãn ý thì sống năm mười người, hai ba chục người hoặc cả trăm người thì chắc
lộn xộn lắm. Bởi vậy nên cái hòa của ý hết sức quan trọng.
Bây giờ muốn ý
hòa chúng ta phải làm sao? Phật dạy muốn hòa thuận với nhau, trước hết không
nên bám giữ, cố chấp ý riêng của mình. Tại sao? Vì ý là cái suy nghĩ luôn luôn
sanh diệt. Mà suy nghĩ thì không bao giờ đúng 100%, mười phần trúng được năm ba
phần thôi. Có sai nên biết ý mình chưa toàn vẹn, chưa bảo đảm, làm sao cố chấp
được. Nếu trên thế gian, suy nghĩ cái gì đúng cái ấy thì người ta có nghèo khổ
không? Chắc không ai nghèo khổ hết. Bởi vì suy nghĩ đâu đúng đó, thì thiên hạ
đều làm giàu hết rồi. Trong đạo cũng vậy, nếu ta nghĩ gì đều đạt hết thì ngày
nay chùa nào cũng to, Phật cũng lớn, mọi người đều quy hướng về mình, nhưng sự
thật không phải vậy. Ý nghĩ không hoàn toàn mà ta cố chấp, bảo vệ, đó là sai
lầm. Từ sai lầm này sanh ra tranh cãi, bực bội với nhau, đi đến chỗ không còn
tình, không còn nghĩa gì cả. Nên biết Phật dạy người tu sống giữ ý hòa đồng
duyệt để cuộc sống hòa vui, chớ không buồn giận, oán hờn nhau.
Thực tế ở trong chùa hay thiền viện, tất cả Tăng Ni đều
hoàn toàn hài lòng, vui vẻ hết hay ráng nhịn nhau? Ráng nhịn nhau mới yên, chớ
không ai bằng lòng ai. Đó là chuyện thường. Trong việc tu hành, chúng ta phải
xét thật kỹ, tu là để giải thoát sanh tử, cứu độ chúng sanh. Nếu trong chúng
năm mười người, mỗi người nghĩ khác, ai cũng cố chấp ý nghĩ của mình là đúng
thì cuộc sống có hòa vui không?
Năm mười người đã không hòa được, nói gì độ chúng sanh! Chẳng lẽ độ cho nhiều để cãi cho lắm sao? Cho nên quý vị
thu đệ tử, phải khéo hòa hợp chúng, không để có những ý niệm riêng tư.
Sống được hòa
vui như vậy, ai đến chùa cũng thấy niềm vui toát ra cả, không có gì khó chịu
hết. Ngược lại nếu nội bộ trong chùa không hòa vui, ý Tăng Ni không hợp, Phật
tử bắt gặp những bất bình của mình, khiến họ kinh sợ, không dám đến chùa nữa.
Thế nên quan trọng là chúng ta phải hòa vui với nhau. Điều này không thể thiếu
được ở một người tu.
4. Kiến hòa đồng giải: Tức những thấy biết của mình, chúng ta cùng đem ra giải
thích để huynh đệ cùng hiểu, cùng thông cảm với nhau.
5. Giới hòa đồng tu: Chúng ta cùng giữ giới với nhau, không dám sai phạm để
cùng an vui tu tập.
6. Lợi hòa đồng quân: Ở trong chùa hay tinh xá, nếu có ai cúng dường thì Tăng
Ni cùng chia đồng đều nhau, không được người nhiều, kẻ ít. Nhưng bệnh của Phật
tử bây giờ thấy thầy, cô nào dễ thương thì cúng nhiều, thầy cô nào quý vị không
thích thì cúng ít hoặc không cúng. Người được nhiều cũng không dám chia cho
người ít, sợ bổn đạo biết được buồn. Do đó sau một thời gian trong chùa có
người giàu, kẻ nghèo. Người nghèo không có xu con, người giàu dư dả xài không
hết. Như vậy đâu thể gọi là lợi hòa đồng quân.
Tóm lại,
trong sáu điều “hòa” của nhà Phật, chúng ta xét thật kỹ để ứng dụng tu hành.
Nếu chư Tăng, chư Ni sống chung trong một chùa hoặc tinh xá hòa hợp như vậy,
thì Phật pháp truyền bá rất dễ dàng. Ta khỏi cần thuyết pháp cho Phật tử nghe,
chỉ cần nhìn thấy nếp sống của mình, trên dưới hòa thuận vui vẻ thì họ liền quý
mến. Quý vị thuyết pháp hay, người ta mới nghe thì phục, nhưng tới chùa mình
thấy lục đục, kẻ phiền người giận tất nhiên Phật tử sẽ thối thất Bồ-đề tâm.
Thế nên trọng tâm của người tu, dù
không giỏi nhưng khéo sống đúng với tinh thần lục hòa của đạo Phật thì việc tu
tập sẽ được tiến triển đều, đồng thời giúp cho tín tâm Phật tử ngày càng sâu
đối với Tam bảo, nhất là Tăng bảo. Tăng Ni trong mùa an cư kiết hạ hay mãn hạ
rồi, luôn cố gắng tập sống theo tinh thần lục hòa. Dù chưa trọn vẹn nhưng chúng
ta cố tập, từ từ cũng sẽ được hoàn bị. Có thế việc tu mới lợi lạc. Nếu chúng ta
không tập sống lục hòa thì sự tu chỉ có hình thức thôi, niềm an vui lợi lạc
không được bao nhiêu.
Đó là lời nhắc nhở của tôi nhân ngày mãn hạ
HT.Thích Thanh Từ (GNO)