Kinh nghiệm tu tập của một người bệnh theo bài kinh “Không sợ hãi”
Minh Thạnh
04/08/2012 06:53 (GMT+7)

Bài kinh “Không  sợ hãi” thuộc Kinh Tăng Chi Bộ. Trong Đại tạng kinh Việt Nam, bài kinh nằm ở tập II, Kinh Tăng Chi Bộ, số thứ tự 22, trang 147, ấn bản do Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam thực hiện.

Bài kinh có tác động mạnh mẽ đến nỗi làm tôi cơ bản thoát hẳn ra ngay tình trạng khủng hoảng, suy sụp tinh thần sau một cơn bệnh. Tôi tin rằng nhiều người như tôi cũng sẽ giải quyết được tình trạng sợ hãi của mình khi được tiếp xúc với bài kinh này.

Trường hợp cá nhân tôi thì bệnh có vẻ không trầm trọng, nhưng quá trình nằm viện điều trị làm cho tôi lâm vào khủng hoảng tinh thần sau đó, và kéo dài rất lâu. Không khí trong phòng cấp cứu, những cái chết diễn ra trước mắt, cuộc thủ thuật với giấy cam kết…, tất cả làm cho tôi cảm thấy cái chết đang đến gần, như bản kinh miêu tả.

Tình trạng của tôi đúng là tinh trạng mà bản kinh đã ghi nhận và tôi cũng đã sợ hãi như thế. May thay, bài kinh “Không  sợ hãi” đã giúp đỡ tôi lấy lại tinh thần. Tôi đọc lại nhiều lần bài kinh. Cứ mỗi lần đọc là cảm thấy an tâm hơn, vững tin hơn, giảm bớt lo sợ.

Tôi nghĩ là không riêng gì người bệnh, mà những người có vấn đề phải lo sợ, băn khoăn về tương lai, người già lão nặng nề về thọ mạng của mình…, đều có thể tìm được lợi ích từ bài kinh “Không  sợ hãi” này.

Dưới đây là toàn văn bài kinh.

Rồi Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm ... Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:

- Thưa Tôn giả Gotama, tôi nói như sau, tôi thấy như sau: "Không có một ai bản tánh bị chết mà không sợ hãi, không rơi vào run sợ, khi nghĩ đến chết".

- Này Bà-la-môn, có người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết. Nhưng này Bà-la-môn, có người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

2. Và này Bà-la-môn, thế nào là người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết?

Ở đây, này Bà-la-môn, có người không ly tham đối với các dục, không ly ham muốn, không ly luyến ái, không ly khát ái, không ly nhiệt não, không ly tham ái. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự các dục khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ các dục khả ái". Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

3. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có người không ly tham đối với thân ... Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự thân khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ thân khả ái". Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

4. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người không làm điều lành, không làm điều thiện, không che chở kẻ sợ hãi, làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều phạm pháp. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta không làm điều lành, không làm điều thiện, không che chở kẻ sợ hãi, làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều phạm pháp". Tại sanh thú nào mà những người không làm điều lành, không làm điều thiện, không che chở kẻ sợ hãi, làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều phạm pháp, đi đến sau khi chết, ta đi đến sanh thú ấy. Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

5. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người nghi ngờ do dự, không đi đến kết luận đối với diệu pháp. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta có nghi ngờ do dự, không đi đến kết luận đối với diệu pháp". Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là bốn hạng người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

6. Và này Bà-la-môn, thế nào là người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết?

Ở đây, này Bà-la-môn, có hạng người ly tham đối với các dục, ly ham muốn, ly luyến ái ... Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự các dục khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ các dục khả ái". Người ấy không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

7. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có người ly tham đối với thân, ly ham muốn, ly luyến ái ... Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự thân khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ thân khả ái". Người ấy không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

8. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người không làm ác, không làm điều hung bạo, không làm điều phạm pháp, làm điều lành, làm điều thiện, có che chở kẻ sợ hãi. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta không làm ác, không làm điều hung bạo, không làm điều phạm pháp, làm điều lành, làm điều thiện, có che chở kẻ sợ hãi. Tại sanh thú nào mà những người không làm điều ác, không làm điều hung bạo, không làm điều phạm pháp, làm điều lành, làm điều thiện, có che chở kẻ sợ hãi đi đến sau khi chết, ta đi đến sanh thú ấy". Người ấy không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

9. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người không có nghi ngờ, không có do dự, đi đến kết luận đối với diệu pháp. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta không có nghi ngờ, không có do dự, đi đến kết luận đối với diệu pháp". Người ấy không có sầu muộn, không có than vãn, không có khóc lóc, không có đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

Này Bà-la-môn, có bốn hạng người bản tánh bị chết, không có sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết

- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama ... Mong Tôn giả Gotama chấp nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng”.

Cái hay của bài kinh là sự cụ thể. Đức Phật đã đi vào chi tiết những trường hợp lo sợ vì bệnh tật. Điều này là hết sức phổ biến ở cuộc đời sinh lão bệnh tử.

Tuy nhiên, Đức Phật không dạy chúng ta phải cầu nguyện. Ở các tôn giáo khác, trong trường hợp này thì chỉ là cầu nguyện có thể sẽ có một “phép lạ” xảy ra. Người bệnh hết bệnh. Nhưng cũng phải thấy có thể may mắn hết bệnh mà cũng có thể không hết bệnh. Hết bệnh chỉ lần này, nhưng sinh lão bệnh tử vẫn là chuyện thường trực, đương nhiên. Cầu nguyện có linh ứng thì chỉ là tạm thời. Điều quan trọng là thái độ trước bệnh tật, cách ứng xử đối với bệnh.

Có khi tật bệnh làm người ta đau một, nhưng sự khủng hoảng tinh thần do tật bệnh mang lại làm người ta đau đến mười, đến trăm lần. Tôi nghĩ trường hợp của tôi cũng là trường hợp phổ biến ở rất nhiều người. Vết thương do nội soi gây ra chỉ bằng hạt đậu, làm đau chỉ một vài ngày. Nhưng sự khủng hoảng về vực thẳm sinh tử đè nặng lên tôi mỗi khi thức dậy. Lại thêm một ngày trên cái dốc tuột xuống lão, bệnh, tử. Thấy những hình ảnh người bệnh, bệnh viện, đám tang… là trong tôi dâng lên một nỗi sợ hãi cùng tột, dù mình đang hết bệnh và cơ bản đã khỏi bệnh. Nếu theo tôn giáo khác, tôi đã phải cầu nguyện cả ngày. Nhưng theo đạo Phật, tôi may mắn tìm được lối thoát ở bài kinh “Không  sợ hãi”.

Trong kinh “Không  sợ hãi”, trạng thái sợ hãi được diễn tả bằng những biểu hiện bên ngoài” “Người ấy sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh”. Cá nhân tôi cũng có những diễn tiến như vậy, nhưng rơi vào bên trong, cũng sầu muộn, cũng tự than van, đau khổ đến mức muốn khóc nhưng không khóc được, chính là đã khóc nhưng không thành tiếng, đau đớn nặng nề, và cũng như Phật thuyết, rơi vào trạng thái sợ hãi cùng tột, chỉ biết sợ hãi, là một dạng của bất tỉnh.

Bài kinh “Không  sợ hãi” đưa ra cách đối trị với tình trạng sợ hãi đó. Bài kinh tương đối dài và các phương pháp đối trị với sợ hãi được trình bày khá chi tiết. Tuy nhiên, tóm lại, liều thuốc cơ bản vẫn là thiện pháp, niềm tin chánh pháp và sự tinh tấn. Những điều đó không làm thay đổi tình trạng bệnh tật, không làm hết bệnh tật, nhưng sẽ làm thay đổi cách nhìn nhận đối với bệnh tật, mở một con đường vượt qua bệnh tật.

Có được “ơn trên” phù hộ, qua được cơn bệnh này, con người rồi lại sẽ phải chịu một cơn bệnh khác, làm sao cho thoát?

Đạo Phật không tìm con đường giải quyết tạm thời như thế, mà hướng đến một cách giải quyết triệt để, hợp lý, công bằng và khoa học.

Tôi nghĩ bài kinh “Không  sợ hãi” rất thích hợp để làm một bài kinh cầu an. Đúng ra là “kinh… an” mới phải, vì không phải cầu xin, chờ mong, trông cậy ở đâu cả, mà tìm an ổn ở chính mình bằng việc thay đổi nhận thức, xây dựng niềm tin, thực hành các thiện pháp.

MT (PTVN)

Các tin đã đăng: