Danh xưng đối với người xuất gia
Một người tuổi đời dưới 20 phát tâm xuất gia, hay
do gia đình đem gửi gắm vào cửa chùa, thường được gọi là chú tiểu, hay
điệu. Thời gian sau, vị này được thọ 10 giới, gọi là Sa di (nam) hay Sa
di ni (nữ), hoặc Chú (nam) hay Ni cô (nữ).
Khi tuổi đời dưới 14, vị này được giao việc đuổi
các con quạ quấy rầy khu vực tu thiền định của các vị tu sĩ lớn tuổi
hơn, cho nên gọi là “khu ô sa di” (sa di đuổi quạ).
Đến năm được ít nhất là 20 tuổi đời vị này được thọ
giới cụ túc, tức là 250 giới tỳ kheo (nam) hay 348 giới tỳ kheo ni
(nữ) và được gọi là Thầy (nam) hay Sư cô (nữ).
Ngoài ra đối với nữ trước khi thọ giới tỳ kheo ni,
vị Sa di ni còn thọ thêm 6 chúng học giới trong thời gian 2 năm, được
gọi là Thức xoa ma na ni. Cấp này chỉ có bên ni, bên tăng không có.
Ngoài ra danh xưng theo hiến chương của giáo hội
Phật giáo cũng có quy định. Năm 20 tuổi đời, vị xuất gia thọ giới tỳ
kheo được gọi là Đại Đức. Năm 45 tuổi đời, vị tỳ kheo được 25 tuổi đạo,
được gọi là Thượng Tọa. Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo được 40 tuổi đạo,
được gọi là Hòa Thượng.
Còn đối với bên nữ (ni bộ), năm 20 tuổi đời, vị nữ
xuất gia thụ giới tỳ kheo ni được gọi là Sư cô. Năm 45 tuổi đời, vị tỳ
kheo ni được 25 tuổi đạo, được gọi là Ni sư. Năm 60 tuổi đời, vị tỳ
kheo ni được 40 tuổi đạo, được gọi là Sư bà (bây giờ gọi là Ni trưởng).
Đối với các bậc Hòa Thượng mang trọng trách điều
hành các cơ sở giáo hội Phật giáo trung ương cũng như địa phương, hay
các Đại tùng lâm, Phật học viện, Tu viện, thường là các vị trên 80 tuổi
đời, được tôn xưng là Đại Lão Hòa Thượng hay Trưởng Lão Hòa Thượng.
|
Tùy theo người xuất gia, tại gia hay tuổi tác và sự tu tập sẽ có cách gọi khác nhau trong Phật giáo |
Xưng hô giữa các vị xuất gia và cư sĩ tại gia
Giữa các vị xuất gia, thường xưng con (hay xưng
pháp danh, pháp hiệu) và gọi vị kia là Thầy (hoặc gọi cấp bậc hay chức
vụ vị đó đảm trách). Bên tăng cũng như bên ni, đều gọi sư phụ bằng Thầy
(hay Sư phụ, Tôn sư, Ân sư).
Các vị xuất gia cùng tông môn, cùng sư phụ, thường gọi nhau là Sư
huynh, Sư đệ, Sư tỷ, Sư muội, và gọi các vị ngang vai vế với Sư phụ là
Sư thúc, Sư bá. Có nơi dịch ra tiếng Việt, gọi nhau bằng Sư anh, Sư
chị, Sư em.
Ngoài đời có các danh xưng: bạn hữu, hiền hữu, hội
hữu, chiến hữu. Trong đạo Phật có các danh xưng: đạo hữu (bạn cùng theo
đạo), pháp hữu (bạn cùng tu theo giáo pháp). Các danh xưng: tín hữu
(bạn cùng tín ngưỡng, cùng đức tin), tâm hữu (bạn cùng tâm, đồng lòng)
không thấy được dùng trong đạo Phật.
Khi tiếp xúc với chư tăng ni, quí vị cư sĩ Phật tử
tại gia (kể cả thân quyến của chư tăng ni) thường đơn giản gọi bằng
Thầy hay Cô và thường xưng là con (trong tinh thần Phật pháp, người thọ
ít giới tôn kính người thọ nhiều giới hơn, chứ không phải tính tuổi
tác người con theo nghĩa thế gian).
|
Trong
Phật giáo quan trọng nhất là tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ
nhau trong tu tập vì thế có các danh xưng như đạo hữu, pháp hữu... |
Có những vị cư sĩ tại gia cao tuổi xưng tôi hay
chúng tôi với vị tăng ni trẻ để tránh ngại ngùng cho cả hai bên. Khi
qui y Tam bảo thọ ngũ giới (5 giới - PV), mỗi vị cư sĩ Phật Tử tại gia
có một vị Thầy truyền giới cho mình. Vị ấy được gọi là Thầy Bổn sư. Cả
gia đình có thể cùng chung một vị Thầy Bổn sư, tất cả các thế hệ cùng
gọi vị ấy bằng Thầy.
Theo giáo phái khất sĩ, nam tu sĩ được gọi chung là
Sư và nữ tu sĩ được gọi chung là Ni. Còn nam tông chỉ có Sư, không có
hay chưa có Ni.
Cách xưng hô giữa người xuất gia và gia đình
Khi tiếp xúc với cư sĩ Phật tử tại gia, kể cả người
thân trong gia quyến, chư tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi
(hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni), cũng có khi chư
tăng ni xưng là Thầy hay Cô và gọi quí vị là đạo hữu, hay quí đạo hữu.
|
Người xuất gia với người thân trong gia đình khi xưng hô phải kính trọng lẫn nhau. |
Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia bằng
pháp danh, có kèm theo (hay không kèm theo) tiếng xưng hô của thế gian.
Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia là “quí Phật tử”. Chỗ này
không sai, nhưng có chút không ổn, bởi vì xuất gia hay tại gia đều cùng
là Phật tử, chứ không riêng tại gia là Phật tử mà thôi.
Việc một Phật tử xuất gia (tăng ni) ít tuổi gọi một
Phật tử tại gia nhiều tuổi bằng “con” thực là không thích đáng, không
nên. Không nên gọi như vậy, tránh sự tổn đức.
Trong các trường hợp tiếp xúc riêng, tùy thuận theo
đời, không có tính cách chính thức, không có tính cách thuyết giảng,
chư tăng ni có thể gọi các vị cư sĩ Phật tử tại gia, kể cả người thân
trong gia quyến, một cách trân trọng, tùy theo tuổi tác, quan hệ, như
cách xưng hô xã giao người đời thường dùng hằng ngày.
Bài viết được tổng hợp từ tư liệu của thầy Thích Chân Tuệ, Cơ sở Phật học Tịnh Quang Canada
Theo Hoài Lương - KT