Trách Vụ Của Người Phật Tử Tại Gia
Tâm Diệu
12/11/2011 13:19 (GMT+7)

Theo Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo và Ban Tôn Giáo, hiện Việt Nam có khoảng 7 đến 8 triệu tín đồ Phật Giáo, tức khoảng 10% dân số; 6 đến 7 triệu tín đồ Thiên Chúa Giáo; Phật Giáo Hòa Hảo 1,3 triệu, Cao Đài 1,1 triệu và Tin Lành khoảng 1 triệu tín đồ. Đối với Phật giáo, cũng theo viện này cho biết, số lượng tín đồ Phật giáo nêu trên có thể là cao nếu chỉ giới hạn vào những người nào quy y hay tu tại gia theo giới luật nhà Phật; và có thể là thấp nếu căn cứ vào những người đi chùa, có niềm tin vào cái thiện cái ác, thuyết nhân quả luân hồi, ăn chay vào các ngày rằm và mồng một và có thể treo ảnh Phật hay bàn thờ Phật trong nhà. Riêng về hàng tu sĩ Phật Giáo, theo báo cáo tổng kết của Đại hội đại biểu Phật Giáo toàn quốc lần thứ IV năm 1997 thì toàn nước có 54.074 Tăng Ni, tức không đầy nửa phần trăm số tín đồ đạo Phật. [1]

Dù con số ước tính trên không chính xác, nhưng chúng cũng có thể cho chúng ta một khái niệm tổng quát về số lượng tín đồ các tôn giáo lớn tại Việt Nam và hiển nhiên là số lượng tín đồ của các đạo giáo phương Tây, chỉ trong một thời gian ngắn so với sự có mặt của đạo Phật, đã bằng hay cao hơn số lượng tín đồ Phật Giáo.

Trong những năm qua, Phật giáo Việt Nam đã phát triển khá mạnh mẽ, đã hội nhập vào cộng đồng xã hội bằng cách xây dựng phong trào tu học và thể hiện Phật pháp trong cuộc sống. Về hàng Tăng lữ, các vị tôn túc không ngừng nỗ lực đào tạo giới Tăng Ni trẻ qua việc tổ chức các Phật học viện từ sơ cấp đến cao cấp và gửi Tăng Ni sinh ra nước ngoài học Tiến Sĩ. Về hàng cư sĩ tại gia, đa số các chùa trên toàn nước thường tổ chức định kỳ các khoá tu học dưới hình thức tu Bát Quan Trai và các lớp học giáo lý phổ thông. Điểm nổi bật nhất là các khóa tu Phật thất do chùa Hoằng Pháp tọa lạc tại quận Hóc Môn được tổ chức thường xuyên và các Đạo Tràng Pháp Hoa do Hòa thượng Trí Quảng sáng lập và lãnh đạo được thành lập tại nhiều nơi trên cả nước. Có thể nói phong trào học Phật hiện nay đang nở rộ tại Việt Nam.

Đó là những điểm tích cực, chúng ta cần ghi nhận và trân trọng. Bên cạnh đó cũng có những điểm tiêu cực mà chúng ta cũng nên ghi nhận và lưu ý:

(1) Về hàng Tăng Ni sinh, đã có những chỉ dấu cho thấy sự yếu kém về kiến thức Phật học và thiếu phẩm chất về giới học. Nhiều vị đi học nhằm trốn tránh nhiệm vụ công việc ở trụ xứ, chỉ cần lấy được văn bằng tốt nghiệp (Cử nhân Phật học) [2]; nhiều vị bị sức mạnh vô hình của cái học vị, bằng cấp cao (Thạc sĩ và Tiến sĩ Phật học) đẩy vào dòng xoáy tìm cầu tri thức, biến tu học thành học lấy bằng, biền phương tiện thành cứu cánh. Và vô hình chung tạo nên “một suy nghĩ lệch hướng cho việc xuất gia và người tại gia cũng đánh giá trị của một vị tu sĩ qua bằng cấp mà quên đi giá trị thực cao cả nhất của người xuất gia là phẩm hạnh đạo đức…” [2]. Ngoài ra, bản ngã của một số quý Tăng Ni sinh lớn dần theo học vị đạt được, thậm chí có vị còn đề học vị Ph.D trước pháp hiệu của mình thay vì chỉ khiêm nhường đề Tỳ Kheo như trước khi có bằng Tiến sĩ. Theo báo Giác ngộ, có một số vị sau khi đậu bằng Thạc sĩ hay Tiến sĩ, bỗng thấy mình trở nên nhân vật quan trọng, cứ muốn trở về làm việc cho tổ chức giáo hội, cấp trung ương hay cấp tỉnh thành mà không muốn trở về chùa Tổ của mình để phục vụ cho Phật tử địa phương. Thật ra địa bàn hoạt động tức đối tượng phục vụ chúng sinh của các vị Tăng Ni sau khi học xong là về với quần chúng Phật tử nơi trú xứ của mình, những người gần nhất, gắn bó với chùa của mình của thầy tổ mình lâu ngày nhất. Ở đấy họ đang cần được học những bài học Phật pháp mà họ chưa biết. Lâu nay theo cha mẹ đến chùa nhưng họ không biết Tam quy, Ngũ giới là gì, Tứ Diệu Đế là gì... Họ không biết những điều hay của đạo Phật và theo đạo Phật được lợi lạc gì trong đời sống hiện tại và tương lai…

(2) Về hàng Phật tử tại gia, chiếm đến 99.5% tín đồ đạo Phật, một lực lượng đông đảo, nếu được giáo dục đúng mức sẽ là một tiềm năng đáng kể trong việc giữ đạo và phổ đạo. Mặc dầu quý vị lãnh đạo giáo hội có nhiều nỗ lực giáo dục Phật tử rất đáng trân trọng nhưng tiếc thay trong số 8 triệu người Phật tử mộ đạo, thường xuyên thực hành Phật pháp, “hầu như chỉ có những bà lão hoặc trung niên xấp xỉ 40 tuổi, chứ người trẻ rất ít. Mà những người lớn tuổi này đa số không được học giáo lý đàng hoàng, hoặc không còn thời gian và sức lực để học nữa, khi đến chùa thường chỉ đem theo những lời cầu xin và những tập quán hủ tục như cúng sao giải hạn, đốt vàng mã…không thay đổi được. Chưa kể, họ còn những thói quen rất nặng nề khác. Một nghệ sĩ nổi tiếng thường xuyên tổ chức công tác từ thiện than thở: “Mấy vị đi chùa mà cứ lo đếm tiền, kể chuyện cô này lấy ông kia, chuyện tranh chấp gia tài, toàn những chuyện thị phi, rồi còn nói tục nữa.” Thật tình mà nói, quý thầy muốn hoằng pháp giáo dục Phật tử đúng mức cũng rất khó. Khó vì tập quán hủ tục lâu đời khó bỏ. Khó vì cái khó bó cái khôn. Chúng ta hãy đọc tiếp báo Giác Ngộ: “Cho nên về các chùa, thấy hầu như chỉ có lễ lạc, đám sám, tụng kinh… là chính, thậm chí còn phải xem ngày giờ, cúng sao, đốt vàng mã để chìu Phật tử. Một người bạn của chúng tôi (nhà báo) đã nổi giận bảo rằng: “Chính vì phải chiều chuộng họ mà Phật giáo tệ hơn”. Thật ra cái lỗi không phải nơi họ, ai bảo quý thầy chiều họ, nhưng khổ nỗi không chiều họ thì thì chùa sẽ vắng hoe vì họ là lực lượng chính của chùa, không có họ ai sẽ cúng dường, lo đám…”. [2] Thế còn tuổi trẻ, sao lại thiếu vắng nơi các chùa? Thực sự họ không đến chùa thường xuyên. Thỉnh thoảng vào ngày Tết lễ họ theo cha mẹ đến chùa như đi dự lễ hội hay thăm viếng mộ phần, hài cốt ông bà ký gửi tại khuôn viên chùa. Họ khó có thể tụng kinh lễ bái như các ông bà già hàng giờ hay làm công quả quét chùa. Họ thấy chùa không có gì hấp dẫn với họ cả, trong khi đó ngoài đời có quá nhiều điều hấp dẫn.

Trên đây là những điểm tích cực và tiêu cực của Phật giáo hiện nay tại Việt Nam. Ở hải ngoại tình trạng cũng không khác mấy. Quý Tăng Ni cũng có những nỗ lực rất nhiều trong việc giáo dục Phật tử. Đa số các chùa, ngoài việc tổ chức các lễ lạc lớn như Phật đản và Vu Lan, còn thường xuyên tổ chức các khóa tu học, các khóa tu Bát Quan Trai và thuyết giảng giáo lý nơi công cộng và trên đài phát thanh và truyền hình. Song thành phần Phật tử đi chùa đa số là những người lớn tuổi, khoảng từ 55 đến 75 tuổi và 95% là nữ giới [3]. Sinh hoạt chính của các chùa là cầu siêu độ cho vong linh người quá vãng vào những ngày cuối tuần. Hầu như quý thầy ở hải ngoại cũng phải chiều lòng Phật tử vì nếu không có họ ai sẽ lo chi trả tiền chùa…Hệ quả là trình độ giáo lý của Phật tử rất khiêm nhường, thậm chí có nhiều bà lão khi được hỏi có hiểu Tam Quy Ngũ Giới là gì, các cụ trả lời không biết và có những trường hợp được con dâu rể hay bạn bè khuyên theo đạo khác, các cụ liền bỏ đạo mình và theo đạo mới. Trong những trường hợp này chúng ta không trách cứ được các cụ và cũng không trách cứ đạo giáo khác bởi vì các cụ không hiểu đạo Phật, không hiểu những cái hay của đạo mình.

Đọc đến đây, chắc quý độc giả cũng thấy lý do vì sao tín đồ Phật giáo Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước có khuynh hướng giảm và số tín đồ các đạo phương Tây gia tăng đáng kể. Chúng ta không trách cứ các đạo giáo khác tích cực truyền đạo mà chúng ta hãy tự quán sát lại chính mình và đạo mình.

Từ xưa đến nay, người Phật tử tại gia thường coi trọng vai trò hoằng pháp của chư Tăng Ni và thường khoán trắng việc hoằng pháp cho quý Tăng Ni, mà quên đi cư sĩ tại gia là một thành phần đông đảo, cũng có vai trò hoằng pháp, có khi còn quan trọng hơn vì người cư sĩ là thành phần căn bản của gia đình và xã hội. Người cư sĩ có mặt khắp mọi giai tầng trong xã hội, sĩ, nông, công, thương, ngư, tiều, canh, mục, dân sự vụ, quân sự vụ và ở khắp nơi từ chốn thị thành đến thôn quê, từ vùng sâu đến vùng xa... Vì thế một người Phật tử hiểu biết giáo pháp và thực hành đúng giáo pháp, sống trong môi trường gia đình, thì những cái hay, cái đẹp hấp thu được của đạo Phật sẽ ảnh hưởng tốt đến các thành viên trong gia đình; khi ra ngoài xã hội sẽ là một công dân gương mẫu, là tấm gương cho người xung quanh nhìn thấy. Họ xầm xì anh ấy hay chị ấy là Phật tử đấy. Nếu một người tự xem là Phật tử nhưng không biết gì về giáo pháp Phật, không biết gì về ngũ giới, ăn nói thô bạo, hay cãi cọ trong gia đình, trong xóm làng hay nơi làm việc, thì người xung quanh nói rằng “nó là Phật tử đấy, đi chùa gì mà hung dữ quá”…Những người xung quanh đâu có biết đạo Phật như thế nào, họ đâu có thì giờ nghiên cứu đạo Phật nên thường có khuynh hướng đánh giá Phật giáo qua cung cách cư xử của những người có đạo mà họ tiếp xúc hàng ngày. Cho nên người Phật tử tại gia, không những quy y Tam Bảo, thọ trì Ngũ giới mà còn phải tìm học để hiểu biết giáo lý, ít nhất là những nét cơ bản của giáo lý và điều quan trọng là phải luôn luôn giữ gìn năm giới đã tự nguyện thọ và thực tập ngồi thiền hay tụng kinh niệm Phật hàng ngày.

Tưởng cũng nên nói thêm cho rõ, Phật tử được định nghĩa là những người tự nguyện quy y Phật Pháp Tăng và thọ trì giới luật [4]. Phật tử bao gồm Phật tử tại gia, những người tự nguyện quy y Tam Bảo và thọ trì năm giới và Phật tử xuất gia (Tăng và Ni) là những người tự nguyện quy y Tam Bảo, sống cách ly gia đình, và thọ trì Cụ túc giới. Giới luật nhà Phật nhằm tự ngăn ngừa các động lực tham vọng tác hại, giúp phát triển tâm từ bi nhằm bảo vệ hạnh phúc an lạc cho mình và cho người khác, cũng như cho cộng đồng xã hội. Một Phật tử tại gia luôn luôn gìn giữ năm giới, không làm các điều ác, làm các việc lành, thanh tịnh hóa tâm và thường hay giúp đỡ người khác, là một người có tư cách, một người có phẩm hạnh đạo đức cao, là cách truyền giáo lý tưởng nhất của hàng cư sĩ cho những người xung quanh.

Lẽ dĩ nhiên, một người Phật tử muốn có hiểu biết về Tam Quy Ngũ giới và những giáo lý cơ bản để thực hành thì phải có thầy giảng dạy. Vị thầy này chính là quý thầy cô trú xứ tại ngôi chùa sở tại sau khi đã đi học ở các trường Phật học từ sơ cấp đến cao cấp về hay những vị Phật tử cư sĩ cao niên thâm sâu Phật học. Một vị thầy hay vị cư sĩ cao niên có học vị Cử nhân, Thạc sĩ hay Tiến sĩ Phật học, nghiêm trì giới luật, giảng dạy Phật pháp cho các Phật tử tại chùa của thầy tổ mình qua khẩu thuyết và thân thuyết rồi lại được các Phật tử bổn đạo thực hành năm giới thì chắc chắn Phật giáo không những không suy vi mà còn hưng thịnh.

Trong hàng ngũ Phật tử tại gia còn có hàng cư sĩ thọ Bồ Tát Giới, dành cho bất cứ ai nếu phát tâm Bồ đề: trên cầu Phật đạo, dưới cứu độ chúng sinh. Đây là lực lượng Phật tử tại gia quan trọng, vừa tiếp tay hỗ trợ quý Tăng Ni trong việc hoằng pháp, vừa là cây cầu nối giữa quý thầy với khối đông đảo quần chúng Phật tử. Hiện nay có nhiều địa phương không có chùa, không có thầy nên chủ yếu việc hoằng pháp những nơi này là do giới này thực hiện. Hiện tại ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại số lượng Phật tử tại gia thọ Bồ Tát Giới không được đông đảo, mỗi kỳ Đại Giới Đàn tổ chức ở Việt Nam số lượng cầu thọ Bồ Tát Giới không quá con số 100 vị; cho nên các cư sĩ đã thọ tam quy ngũ giới có tâm ao ước muốn đem đạo Phật đến với mọi nhà mọi nơi, có tâm ước muốn góp bàn tay xoa dịu nỗi khổ đau của chúng sinh, cần được khuyến khích gia nhập vào hàng ngũ này. Trong một bài khác người viết sẽ đề cập đến việc tu tập của người cư sĩ Bồ tát tại gia.

Cước Chú:

[1] Nghiên cứu Tôn Giáo số 2 (20) 2003 Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo – Hà Nội

[2] Tuần Báo Giác Ngộ 166, 179, 180 – Thành Hội TP. HCM xuất bản

[3] Ngoại trừ các trung tâm tu học của Hòa thượng Nhất Hạnh

[4] Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Tăng Chi Bộ Kinh

Các tin đã đăng: